BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
LAPHINH PHITHACTHEP
TÌNH HÌNH BỆNH DỊCH TẢ LỢN VÀ SỬ DỤNG
VACXIN TRÊN ĐÀN LỢN NUÔI TẠI NGOẠI THÀNH
THÀNH PHỐ VIÊNG CHĂN
CHUYÊN NGÀNH: THÚ Y
MÃ SỐ: 60.64.01.01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN BÁ HIÊN
HÀ NỘI, NĂM 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là
trung thực và chưa từng được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này
đã được cám ơn, các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, Ngày……tháng……năm 2015
Tác giả
LAPHINH PHITHACTHEP
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii
LỜI CÁM ƠN
Tôi xin chân thành cám ơn:
PGS. TS.Nguyễn Bá Hiên, Bô môn Vi sinh vật - Truyền nhiễm, Khoa
Thú y- HọcViện Nông Nghiệp Việt Nam đã giúp đỡ, hướng dẫn, chỉ bảo tận
tình, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài và hoàn
thành tốt luận văn. Ban chủ nhiệm Khoa Thú y, Ban Quản lý đào tạo - Học viện
Nông nghiệp Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học tập và hoàn thành
luận văn đúng tiến độ.
Sự giúp đỡ nhiệt tình của lãnh đạo Sở Nông Lâm Nghiệp, các phòng ban
liên quan Thành phố Viêng Chăn - Lào. Sự giúp đỡ của Phòng Nông Lâm
Nghiệp của các huyện.
Sự giúp đỡ của Phòng khám bệnh gia súc và Thủy sản Trung Tâm Thú y
Thủ Đô Viêng Chăn, CHDCND-Lào đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi nghiên
cứu và hoàn thành đề tài.
Hà Nội, Ngày……tháng……năm 2015
Tác giả
LAPHINH PHITHACTHEP
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii
MỤC LỤC
Lời cam đoan
i
Lời cám ơn
iii
Danh mục chữ viết tắt
vi
Danh mục bảng
vii
Danh mục hình
viii
MỞ ĐẦU
1
1
Đặt vấn đề
1
2
Mục tiêu nghiên cứu
2
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU
3
1.1 Tình hình hình chăn nuôi lợn tại ngoại thành thành phố Viêng Chăn
3
1.2 Tình hình bệnh dịch tả lợn ở thế giới và ở CHDCND lào
3
1.2.1 Tình hình bệnh dịch tả lợn trên thế giới
3
1.2.2 Ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
4
1.3 Bệnh dịch tả lợn
6
1.3.1 Virus dịch tả lợn
6
1.3.2 Một số đặc điểm dịch tễ học bệnh dịch tả lợn
10
1.3.3 Triệu chứng và bệnh tích
11
1.3.4 Các phương pháp chẩn đoán bệnh dịch tả lợn
16
1.4 Phòng chống bệnh dịch tả lợn
21
1.4.1 Trên thế giới
21
1.4.2 Phòng chống bệnh dịch tả lợn ở Lào
22
CHƯƠNG 2 NỘI DUNG NGUYÊN LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
23
2.1 Đối tượng nghiên cứu
23
2.2 Nội dung nghiên cứu
23
2.2.1 Nghiên cứu tình hình chăn nuôi lợn tại ngoại thành thành phố
Viêng Chăn từ năm 2012-2014
23
2.2.2 Nghiên cứu tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố
Viêng Chăn từ năm 2012-2014
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
23
Page iv
2.2.3 Xác định hiệu giá kháng thể dịch tả lợn sau tiêm phòng vacxin
23
2.3 Nguyên liệu
23
2.4 Phương pháp nghiên cứu
24
2.4.1 Phương pháp nghiên cứu dịch tễ học
24
2.4.2 Phương pháp tính
24
2.4.3 Phương pháp xác định ca bệnh
25
2.4.4 Mẫu xét nghiệm
25
2.4.5 Phương pháp xét nghiệm
26
2.4.6 Phương pháp xử lý số liệu
29
CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
30
3.1 Tình hình chăn nuôi lợn tại ngoại thành thành phố Viêng Chăn
30
3.1.1 Một số điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của thành phố Viêng Chăn
30
3.1.2 Tình hình chăn nuôi lợn tại ngoại thành thành phố Viêng Chăn
33
3.2 Tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn
33
3.2.1 Tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn
theo địa bàn chăn nuôi
33
3.2.2 Tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn
từ năm 2012 đến năm 2014 theo lứa tuổi
37
3.2.3 Tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn
từ năm 2012 đến năm 2014 theo tháng
42
3.3 Xác định hiệu giá kháng thể dịch tả lợn sau tiêm phòng vacxin
46
3.3.1 Tình hình tiêm phòng vacxin dịch tả lợn ở những huyện ngoại
thành thành phố Viêng Chăn
46
3.3.2 Kết quả kiểm tra kháng thể dịch tả lợn ở những huyện ngoại
thành thành phố Viêng Chăn
48
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
51
1
Kết luận
51
2
Đề nghị
52
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
53
Page v
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ADN
Acid deoxyribonucleic
ARN
Acid ribonucleic
BDV
Border disease virus
BVDV
Bovine viral diarrhea virus
CHDCND
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
CPE
Cytopathogenic Effect
CSF
Classical Swine Fever
CSFV
Classical Swine Fever Virus
HSTD
Hệ số tháng dịch
KD
Kilodanton
ELISA
Enzyme-Linked ImmunoSorbent Assay
OD
Optical Density
OIE
Office International des Epizooties
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi
DANH MỤC BẢNG
Số bảng
Tên bảng
Trang
3.1
Tình hình chăn nuôi lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn
33
3.2
Tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn năm 2012
34
3.3
Tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn năm 2013
35
3.4
Tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn năm 2014
36
3.5
Tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn năm
2012 theo lứa tuổi
3.6
39
Tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn năm
2013 theo lứa tuổi
3.7
40
Tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn năm
2014 theo lứa tuổi
3.8
41
Tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn năm
43
2012 theo tháng
3.9
Tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn năm
2013 theo tháng
3.10
44
Tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn năm
2014 theo tháng
3.11
45
Tình hình tiêm phòng bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố
Viêng Chăn
47
3.12
Kết quả khảo sát kháng thể dịch tả lợn theo địa phương.
49
3.13
Kết quả khảo sát kháng thể dịch tả lợn theo cơ cấu đàn.
49
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vii
DANH MỤC HÌNH
Số hình
Tên hình
Trang
5
1.1
Bản đồ lưu hành bệnh dịch tả lợn tại một số nước khu vực châu Á
3.1
Bản đồ thành phố Viêng Chăn và khu vực ngoại thành
3.2
Tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn theo
32
37
địa phương
3.3
Tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn theo
38
lứa tuổi
3.4
Tình hình bệnh dịch tả lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn
theo tháng trong năm
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
46
Page viii
MỞ ĐẦU
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong vài năm gần đây, chăn nuôi lợn ở Cộng hòa Dân Chủ Nhân Dân
Lào (CHDCND Lào) đã phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, việc phát triển chăn
nuôi loài gia súc này vẫn gặp phải nhiều yếu tố nguy cơ. Một trong những yếu tố
nguy cơ phải kể đến là bệnh dịch tả lợn. Bệnh dịch tả lợn là bệnh truyền nhiễm
của loài lợn, khi bệnh xảy ra sẽ giết chết nhiều lợn, tỷ lệ chết từ 60 - 90 %; số còn
lại không chết thì còi cọc, chậm lớn, làm giảm năng suất chăn nuôi và ảnh hưởng
đến chất lượng thịt và thậm chí tiềm ẩn mầm bệnh lây lan cho các đàn khác.
Bệnh dịch tả lợn đã và đang gây nhiều thiệt hại cho chăn nuôi lợn ở nhiều
nước trên thế giới cũng như ở Cộng hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào. Hiện nay bệnh
được xếp vào một trong bốn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm và đã được Bộ Nông
nghiệp đưa vào kế hoạch xây dựng chương trình phòng chống từng bước khống
chế để loại trừ. Cũng vì lý do đó mà bệnh dịch tả lợn cũng là một trong số các
bệnh được quy định phải tiêm phòng bắt buộc và phải công bố dịch. Tuy nhiên,
vì nhiều lý do khác nhau, nên kết quả của việc tiêm phòng còn thấp, dẫn đến đàn
lợn không được miễn dịch, dịch phát ra âm ỉ. Hiện tại Lào đang nhập 2 loại
vacxin dịch tả lợn sản xuất từ Thái Lan và Việt Nam. Vấn đề đặt ra là chất lượng
các loại vacxin nhập ngoại này có chất lượng ra sao khi sử dụng phòng bệnh cho
đàn lợn của Lào?
Theo thống kê của phòng thú y thành phố Viêng chăn, hàng năm xảy ra
nhiều ổ dịch lớn nhỏ khác nhau chết rất nhiều lợn của tỉnh, nhưng chu ý là năm
2012 có 2 ổ dịch lớn tại 4 huyện Nasaithong, Parkngum, Sangthong và Saythanee
làm chết 1960 con(2028 con mắc). Bệnh thường không diển hình cả về triệu
chứng lâm sàng cũng như về bệnh tích, điều này gây khó khăn cho việc chẩn
đoán. Vì vậy nhân viên thú y cơ sở thường nhầm lẫn với các bệnh khác nên
không đưa ra các biện pháp phòng chống kịp thời.
Xuất phát từ tình hình đặc điểm hiện nay của bệnh dịch tả lợn tại các
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1
huyện ngoại thành thành phố Viêng Chăn nói riêng và cả nước nói chung, việc
điều tra xác định tình hình dịch bệnh, áp dụng các biện pháp chẩn đoán nhanh,
chính xác, sử dụng một loại vacxin tốt và thực hiện việc tiêm phòng hợp lý sẽ
góp phần khống chế được bệnh này một cách hiệu quả. Xuất phát từ vấn đề nêu
trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Tình hình bệnh dịch tả lợn và sử
dụng vacxin trên đàn lợn nuôi tại ngoại thành thành phố Viêng Chăn”.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
- Xác định một số đặc điểm dịch tễ học bệnh dịch tả lợn ở những huyện
ngoại thành thành phố Viêng Chăn
- Khảo sát khả năng đáp ứng miễn dịch của đàn lợn sau khi tiêm phòng
vacxin dịch tả lợn.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình hình chăn nuôi lợn tại ngoại thành thành phố Viêng Chăn
Ngoại thành thành phố Viêng Chăn có ngành chăn nuôi lợn khá phát triển,
cung ứng thịt lợn cho trung tâm thành phố. Tuy nhiên, quy mô chăn nuôi có sự
khác biệt giữa các huyện ngoại thành. chăn nuôi lợn năm 2012 - 2014 tại các
huyện ngoại thành Viêng Chăn được thể hiện.
Bảng 1.1 Tình hình chăn nuôi lợn ở ngoại thành thành phố Viêng Chăn
Năm 2012
Năm 2013
Năm 2014
(con)
(con)
(con)
Nasaithong
52.730
53.398
56.021
Parkngum
18.776
18.880
19.576
Sangthong
2.050
1.972
1.842
Saythanee
59.084
63.906
65.202
Tổng hợp
132.640
138.156
142.641
Huyện
1.2. Tình hình bệnh dịch tả lợn ở thế giới và ở chdcnd lào
1.2.1 Tình hình bệnh dịch tả lợn trên thế giới
Cho đến nay nguồn gốc của bệnh dịch tả lợn chưa được xác minh chính
xác, hiện vẫn còn hai quan điểm song song tồn tại:
- Năm 1810 bệnh dịch tả lợn được mô tả đầu tiên ở Tenessce. Đến năm
1833, bệnh dịch tả lợn được thông báo đầu tiên ở Ohio (Bắc Mỹ), sau đó bệnh lan
ra cả nước Mỹ nhất là vùng Cornbert, vì đây là vùng chăn nuôi lợn nhiều nhất).
Theo Dahle. J and B. Liess (1992) dịch diễn ra ở Pháp năm 1862, ở Đức 1893.
- Fuchs. F (1968) cho rằng bệnh xuất hiện đầu tiên ở Anh vào năm 1862,
sau đó lây lan sang các nước châu Âu khác là Đan Mạch, Thụy Điển vào năm
1887. Sau đó bệnh lan sang khắp các nước trên thế giới, ở Nam Mỹ năm 1899,
Nam Phi năm 1900.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3
Kể từ đó bệnh dịch tả lợn tồn tại ở nhiều nước trên thế giới, thiệt hại về
kinh tế do dịch tả lợn gây ra rất lớn, năm 1997 các nước: Đức, Hà Lan, Italia,
Tây Ban Nha, Bỉ có hơn 10 triệu con lợn bị giết hủy (Rassow. D, 1997). ở Hà
Lan tính đến 31/12/1997 có 424 ổ dịch trong một năm. Cộng hòa liên bang Đức
từ tháng 11/1982 - 9/1984 có 1.457 ổ dịch xảy ra ở 248 đàn lợn giống, 777 đàn
lợn thịt và 412 đàn hỗn hợp, với 395.000 lợn bị xử lý. Năm 1984 ở Mêhyco có
179 ổ dịch, Malaysia có 5 ổ dịch, Hàn Quốc có 45 ổ dịch. Năm 1997 dịch tả
lợn xuất hiện ở Italia, Tây Ban Nha và Bỉ đều có nguồn gốc từ Hà Lan
(Mesplede. A, E. Albina, F. Madee, 1999). Năm 2000 bệnh xảy ra ở Anh, lây
lan 16 trang trại và 75000 lợn phải loại bỏ để khống chế dịch.
Do tầm quan trọng của bệnh dịch tả lợn, khi xảy ra gây chết nhiều lợn và
làm thiệt hại lớn về kinh tế nên nhiều nước đã xây dựng chương trình thanh toán
bệnh này. Theo thông báo của Tổ chức Thú y thế giới (OIE) năm 2009, bệnh dịch
tả đã được khống chế và an toàn dịch bệnh ở phần lớn các nước Châu Âu. Các
nước đã thanh toán được bệnh này là Úc, Bỉ, Canada, Pháp, Anh, Ai xơ len, Ai
len, Niu Di Lân, Bồ Đào Nha, các nước vùng scandinavia, Tây Ban nha, Thụy sỹ
và Mỹ. Ở Mỹ năm 1962, một chương trình thanh toán bệnh dịch tả lợn toàn liên
bang đã được khởi động và đến năm 1976 đã thanh toán được bệnh dịch tả lợn.
Tổng chi phí thanh toán bệnh dịch tả lợn lên tới 140 triệu USD. Cộng đồng Châu
Âu cũng đã hỗ trợ một chương trình thanh toán virus dịch tả lợn cho các nước
thành viên. Chương trình thanh toán dựa trên việc giết huỷ các đàn nhiễm bệnh
và các biện pháp vệ sinh thú y cũng như tăng cường pháp chế Thú y.
Ở các nước Châu Á dịch được khống chế ở các nước đang phát triển như
Nhật, Nam Triều tiên. Ở các nước Đông Nam Á cũng được khống chế ở các
nước Singapor, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Philippine. Trong cam kết của
các nước ASEAN, Malaysia cam kết sẽ thanh toán bệnh dịch tả lợn vào năm
2015, Philippine, Indonesia, Brunei, Thái Lan năm 2020, các nước khác đều có
lộ trình khống chế và thanh toán bệnh dịch tả lợn.
1.2.2. Ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
Ở CHDCND Lào trong những năm gần đây đang đẩy mạnh ngành
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4
chăn nuôi lợn. Tại Lào có 4 giống lợn địa phương là “Moo Chid”, “Moo
Laat”, “Moo Daeng” và “Moo Nonghaet”. Ngoài ra ở Lào cũng chăn nuôi
một số giống lợn nhập ngoại trong đó nhiều nhất là Landrace và Duroc
(Vongthilath and Blacksell, 2000).
Bệnh dịch tả lợn được coi là bệnh nghiêm trọng nhất ở lợn được chăn
nuôi tại Lào (Stür et al., 2002). Theo điều tra của Colan vào giai đoạn 20032005, đã phát hiện thấy bệnh dịch tả lợn ở Lào với số lượng là 30 ổ dịch trên
100 làng tại huyện Bolikhan và 5 ổ dịch trên 100 làng tại huyện Parkkading
(Conlan, 2006). Tuy nhiên, do hệ thống quản lý tình hình dịch bệnh tại Lào
còn chưa phát triển mạnh nên không cập nhật tình hình bệnh dịch tả lợn trên
hệ thống quản lý bệnh dịch của thế giới. Theo bản đồ tình hình dịch bệnh của
OIE (2015), tất cả những nước có biến giới với CHDCND Lào là Việt Nam,
Thái Lan, Campuchia, Myanmar và Trung Quốc đều có lưu hành bệnh dịch
tả lợn. Vì vậy, tại CHDCND Lào bệnh dịch tả lợn chắc chắn có lưu hành cho
tới ngày nay và chưa thể kiểm soát cũng như tiến tới thanh toán dịch bệnh.
Hình 1.1. Bản đồ lưu hành bệnh dịch tả lợn tại một số nước khu vực châu Á
(Nguồn: OIE, 2015)
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5
1.3 Bệnh dịch tả lợn
Bệnh dịch tả lợn có nhiều tên gọi khác nhau: Classical swine fever, hog
cholera, swine fever, peste du porc, cólera porcina và virusschweinpest (OIE, 2009).
1.3.1. Virus dịch tả lợn
1.3.1.1. Phân loại
Năm 1885 Salmon và Smith cho rằng bệnh gây ra bởi một loại vi
khuẩn mà hai ông đặt tên là Bacillus cholerae suis (tức Salmonella cholerae
suis). Nhưng đến năm 1903, Schweinitz và Dorset đã xác định được tác nhân
gây bệnh dịch tả lợn là một loại virus còn vi khuẩn Bacillus cholerae suis chỉ
đóng vai phụ (Nguyễn Vĩnh Phước, 1978). Năm 1947 Holmes đặt tên cho
virus gây bệnh dịch tả lợn là Tortor suis. Từ đó việc xếp loại virus này có
nhiều ý kiến khác nhau. Những nghiên cứu gần đây đã xác định virus gây
bệnh dịch tả lợn là thành viên của họ Togavirideae, giống Pestivirus cùng
với virus gây bệnh tiêu chảy ở bò (Bovine Viral Diarrhea Virus - BVDV) và
virus gây bệnh Border ở cừu (Border Disease Virus). Nhưng khi nghiên cứu
về cấu trúc phân tử của Pestivirus cho thấy bộ gen của chúng (genome)
tương ứng với virus thuộc họ Flaviridae, nên giống Pestivirus được xếp vào
họ Flaviridae.
Theo thông tin chính thức từ Hội đồng phân loại quốc tế về virus học
– International Committee on Taxonomy of Viruses (2012) thì virus dịch tả
lợn thuộc họ Flaviridae, giống Pestivirus và Phân loại Baltimore (Baltimore
Classification) vào nhóm IV (+) ssRNA (Group IV: Positive-sense Singlestranded RNA viruses).
Virus gây bệnh dịch tả lợn ở Lào phân lập giai đoạn 1997 – 1999 được
xếp vào nhóm genogroup 2, phân nhóm subgroup 2.1 (Blacksell, 2005).
Về mặt độc lực: Trong tự nhiên tồn tại những chủng virus có độc lực
khác nhau. Những chủng có độc lực cao thường gây ra bệnh thể cấp tính và tỷ lệ
chết cao, các chủng có độc lực trung bình thường gây bệnh ở thể á cấp tính hoặc
mãn tính. Các chủng có độc lực thấp thường gây tỷ lệ chết cao đối với bào thai
và lợn sơ sinh. Theo Dunn. H. W (2000), độc lực của virus thường không ổn
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6
định, việc tăng cường độc lực có thể được tiến hành sau một hoặc nhiều lần tiêm
truyền qua lợn. Ngày nay, người ta đã sử dụng các phương pháp làm giảm độc
lực của virus và thu được một số chủng nhược độc có thể sử dụng làm vacxin
như virus dịch tả lợn chủng C, chủng IFFA, chủng GPE(-), chủng Thiverval.
Trước đây người ta cho rằng kháng nguyên virus dịch tả lợn đồng nhất,
nhưng áp dụng kĩ thuật kháng thể đơn dòng (MCAS) có thể phân biệt virus dịch
tả lợn thành một số nhóm kháng nguyên (Edwards S., 1998). Độc lực của các
chủng gây bệnh thay đổi rất lớn. Các chủng độc lực cao gây bệnh thể cấp tính, tỉ
lệ chết cao, trong khi đó các chủng có độc lực trung bình thường gây các nhiễm
trùng á cấp tính và mãn tính. Các chủng virus độc lực yếu chỉ gây bệnh nhẹ, tuy
nhiên có thể gây chết thai lợn và lợn con mới sinh. Tùy thuộc vào độc lực của
chủng virus gây bệnh mà tỷ lệ chết có thể từ 0 - 100%.
1.3.1.2. Hình thái cấu trúc của virus
Virus dịch tả lợn thuộc loại ARN virus, một sợi đơn, có vỏ bọc là
lipoprotein. Quan sát dưới kính hiển vi điện tử, virus có dạng cấu trúc hình cầu
với nucleocapside đối xứng hình khối bao bọc bởi lớp màng ngoài. Virion là đơn
vị đặc hiệu của virus, có đường kính 40 - 50 nm (nanomet), đường kính của một
khối nucleocapside là 29 nm, là lớp vỏ bao bọc sợi ARN của virus, có những gai
lồi 6 - 8 nm tập trung trên bề mặt của virus. Bộ gene của virus là một chuỗi đơn
ARN, có độ dài 12 KB (Moormann R. J. M and M. M Hulot, 1998). Virus có 2
glycoprotein E155 và E146 KD ở trên bề mặt và 1 nucleocapside protein 36 KD
(Enzmann P. J and F. Weiland, 1978). Hệ số sa lắng là 140s - 180s. Hạt virus gây
nhiễm gồm 3 thành phần chính sau đây:
Nhân (core): nhân là một sợi đơn ARN nằm ở giữa hạt virus, nên virus
chủ yếu nhân lên trong bào tương của tế bào vật chủ. Theo Moening V, 1988,
nhân vừa là yếu tố di truyền, vừa là yếu tố sinh sản của virus. Theo Moorrman R.
J. M và M. M Hulot, 1998 bộ gene virus dịch tả lợn là một chuỗi ADN sợi đơn
dài khoảng 12 kilobases (KB), có trình tự sắp xếp giống nhau giữa gene của virus
dịch tả lợn và virus gây tiêu chảy ở bò (Bovine Viral Diarrhea Virus - BVDV)
và virus gây bệnh Border ở cừu (Border Disease Virus).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7
Vỏ protein (Nuleocapside): theo Van Oirchot J. T, 1992, vỏ protein mang
những thành phần bên ngoài có độ dày 29 nm, trên bề mặt có những gai lồi 6 - 8
nm là thành phần có tính chất bảo vệ virus. Theo P. J Enzmann và F. Weiland,
1978, lớp nucleocapside của virus bao gồm 2 glycoprotein có trọng lượng phân
tử là 55 KD (Kilodanton) và 46 KD cùng với một lớp 36 KD (Trần Đình Từ,
1990). Các protein này được đặt tên là Protein E1 (GP55), Protein E2 (GP46) và
protein C (G36). Bằng phương pháp đánh dấu các phân tử, các tác giả đã nhận
thấy E1 và E2 là những Glycoprotein nằm trên bề mặt của virus, E2 tạo nên các
gai của virus. Protein E1 chứa đựng các kháng nguyên chính của virus dịch tả
lợn. Trong tế bào bị nhiễm, E1 luôn được liên kết với một lycopeptide khoảng 47
KD (Mesplede A, E. Albina, F. Medee, 1999. Những nghiên cứu gần đây cho
thấy lớp vỏ protein gồm 4 thành phần: GP55, GP48, GP44 và GP33 cùng một số
các protein nhân 36KD, 23KD và 14KD (Taylor D. J, 1995). Bằng kỹ thuật miễn
dịch phóng xạ kết tủa, Stark R, F. T. Rumenap, G.Mayers, H. J. Thiel 1990 đã
nhận thấy GP48 và GP44 có chung một trục Protein thông thường. Cả 3 dạng này
đều nằm ở dạng nhị trùng có cầu nối Disulfide trong virus ở tế bào bị nhiễm.
Theo Thiel H. J., R. Stark, F. T. Rumenap, G. Mayers- 1991, những sự tương tác
đồng hóa trị phức tạp như vậy giữa những Glycoprotein cấu trúc đến nay chưa
được mô tả ở bất kỳ một ARN virus nào.
Thứ tự các Glycoprotein trên bộ gene của virus dịch tả lợn được sắp xếp
như sau: NH2 - GP44/GP48 - GP33 - GP55 - COOH.
1.3.1.3. Đặc tính nuôi cấy
Khi tiêm truyền qua cơ thể lợn, các chủng virus dịch tả lợn vẫn giữ
nguyên các đặc tính gây bệnh và miễn dịch (Moenning V, 1988). Sự thích nghi
của virus đối với các loài động vật khác nhau thường thay đổi tính gây bệnh của
virus đối với lợn. Trong các loài động vật thì chỉ có thỏ là được chú ý nhất, đặc
biệt là để chế tạo ra những chủng virus vaccine nhược độc.
Ngoài những tế bào có nguồn gốc từ lợn, virus dịch tả lợn có thể nhân lên
trong những tế bào động vật khác. Dòng tế bào thận lợn PK - 15 và SK - 6 rất
thích hợp cho việc nuôi cấy virus dịch tả lợn. Các chủng virus dịch tả lợn cường
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8
độc thường không gây bệnh tích tế bào (CPE) khi chúng nhân lên trong môi
trường tế bào nuôi. Đối với những chủng được mô tả là có gây bệnh lý tế bào là
do trong thực tế chúng đã bị tạp nhiễm bởi một loại virus khác. Terpstra C, 1991
cũng cho rằng tác động gây CPE chỉ xuất hiện khi có Adenovirus.
1.3.1.4. Sự nhân lên của virus
Virus dịch tả lợn nhân lên có giới hạn trong nguyên sinh chất của tế bào
và không gây bệnh tích tế bào. Thế hệ đầu tiên của virus được giải phóng ra khỏi
tế bào khoảng 5 - 6 giờ sau khi gây nhiễm. Theo Saatkamp H.W, 1998, trong môi
trường tế bào, virus lây lan qua tế bào bên cạnh và từ tế bào mẹ sang tế bào con
qua cầu nối nguyên sinh chất, điều này dẫn đến không có khả năng phát hiện ra
kháng nguyên virus trên bề mặt tế bào bị nhiễm.
1.3.1.5. Sức đề kháng của virus dịch tả lợn
Virus dịch tả lợn có sức đề kháng yếu và tùy thuộc vào trạng thái vật lý
của chất chứa virus. Trong dịch nuôi cấy tế bào, virus bị vô hoạt ở 600C trong 10
phút; ở máu đã khử fibrin lại không bị vô hoạt ở 680C trong vòng 30 phút. Virus
có khả năng bền vững ở pH từ 5 - 10, trên và dưới giá trị pH này thì virus bị phá
hủy nhanh chóng vì vỏ virus có chứa lipid nên các dung môi của mỡ như ether,
chloform, deoxychlolate và nonided P40, saponin làm bất hoạt virus rất nhanh.
Người ta thường dùng NaOH 2% để tiêu độc chuồng trại. Virus có thể
sống trong phân gia súc trong vài ngày, sống lâu trong các sản phẩm là thịt. Thịt
lợn đông lạnh và chính những sản phẩm này là nguồn gieo rắc mầm bệnh rất
nguy hiểm. Không phát hiện ra virus trong thịt đã được chế biến và đóng hộp từ
thịt của những lợn bị bệnh (Terpstra C. 1991).
Trong máu, ở nhiệt độ bình thường, virus có thể sống được 3 tháng. Máu
trộn với axit phenic, virus mất độc lực trong 60 phút ở 580C, trong 7 ngày ở 370C.
Nếu bảo quản máu ở âm 200C, virus tồn tại tới 9 tháng, ở âm 400C virus tồn tại
trong 14 tháng; máu để khô trên phiến kính virus sống 5 - 6 ngày. Trong thịt xông
khói, virus sống được 37 ngày, thịt để trong tủ lạnh virus tồn tại tới 33 ngày, trong
thịt ướp đông 95 ngày. Trong thịt, nước tiểu, xác động vật chết thối, virus bị chết
trong vòng 2 - 3 ngày. Trong phân, rác virus bị mất hoạt tính sau khoảng 24 giờ.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9
1.3.2 Một số đặc điểm dịch tễ học bệnh dịch tả lợn
1.3.2.1 Động vật cảm nhiễm
Trong tự nhiên, chỉ có loài lợn (cả lợn rừng và lợn nhà) mọi lứa tuổi đều
mắc bệnh dịch tả lợn. Những nghiên cứu gần đây cho thấy lợn con theo mẹ và
lợn cai sữa bị nhiễm nhiều nhất (Nguyễn Xuân Bình, 1998; Đào Trọng Đạt và
cộng sự, 1988); đáng chú ý là lợn nái nhiễm những chủng virus có độc lực thấp
gây bệnh cho thai và sơ sinh (Hanson. R. P, 1957).
Trong phòng thí nghiệm, khi tiêm truyền cho lợn mẫn cảm, bệnh phát ra
với triệu chứng, bệnh tích giống như trong tự nhiên. Tiêm virus cho thỏ, chuột
lang thì bệnh thường ở thể ẩn tính, có thể tái phân lập virus sau vài ngày. Tiêm
truyền cho thỏ liên tục qua nhiều đời (khoảng 150 đời) sẽ tạo ra một chủng virus
nhược độc, không độc với lợn nhưng vẫn giữ được đặc tính kháng nguyên, dùng
để chế văc xin nhược độc dịch tả lợn (Nguyễn vĩnh Phước, 1978).
Những lợn khỏe mạnh mang trùng có vai trò quan trọng trong dịch tễ học
của bệnh dịch tả lợn cổ điển, đặc biệt là ở những vùng virus có độc lực thấp. Lợn
ở những nơi này thường xuất hiện những thể bệnh không điển hình do những
chủng virus có độc lực thấp gây ra. Đây chính là nguồn tàng trữ mầm bệnh rất
nguy hiểm. Khi lợn nái mang thai bị nhiễm thường làm cho bào thai bị chết lưu,
hoặc lợn con bị chết sau khi sinh hoặc lợn được sinh ra nhưng yếu ớt. Những lợn
con này có thể bị chết sau khi sinh một thời gian ngắn. Virus có thể có thể gieo
rắc cho những lứa đẻ sau. Những lợn con bị nhiễm bệnh bẩm sinh có thể mang
virus suốt đời và gây ra sự truyền bệnh tiếp xúc, vì vậy gây khó khăn trong công
tác phòng chống bệnh (Van Oirchot J. T. 1998).
1.3.2.2. Chất chứa mầm bệnh
Trong cơ thể, virus hấp thu mạnh trên bạch cầu nên máu có độc lực
sớm nhất; các chất bài xuất như nước dãi, nước mũi, nước mắt, nước tiểu,
phân, các phủ tạng đều chứa virus; hạch lympho và lách chứa nhiều virus nhất
(OIE, 2009).
Những lợn bị nhiễm bệnh có thể thải virus trước khi phát bệnh và tiếp tục
thải virus trong quá trình bệnh, sự thải virus chỉ dừng lại khi kháng thể được sinh
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10
ra. Vì vậy những lợn bị nhiễm virus có độc lực cao có thể thải virus với số lượng
lớn trong thời gian 10 -20 ngày, những lợn bị bệnh thể mãn tính thải virus liên
tục hoặc từng đợt cho đến khi chết.
1.3.2.3 Lứa tuổi mắc bệnh
Các nghiên cứu về dịch tễ học cho thấy bệnh dịch tả lợn xảy ra ở lợn mọi
lứa tuổi, nhưng tập trung nhiều nhất ở lợn con theo mẹ và lợn mới cai sữa. Theo
Đào Trọng Đạt, Trần Thị Tố Liên (1989), do đàn lợn đã được tiêm phòng vắc xin
nhiều năm nên tuổi mắc bệnh phụ thuộc vào sức đề kháng và tình trạng miễn
dịch của đàn lợn. Điều này khác với tính chất lây lan mạnh và lợn ở mọi lứa tuổi
bị bệnh, tỷ lệ chết tới 100% trong các ổ dịch của nhiều năm trước đây. Theo
Nguyễn Xuân Bình (1998), mặc dù quy trình tiêm phòng đã khép kín nhưng bệnh
dịch tả lợn vẫn xảy ra với lợn con và lợn thịt giai đoạn 30 - 90 ngày tuổi với tỷ lệ
1- 1,5% tổng đàn.
Như vậy, tỷ lệ mắc bệnh dịch tả lợn tùy thuộc vào tỷ lệ tiêm phòng của
đàn lợn và mức độ kháng thể trong cơ thể lợn đã được tiêm; phụ thuộc vào mức
độ kháng thể của lợn mẹ truyền qua sữa đầu mà lợn con thu nhận được, ở những
vùng có tỷ lệ tiêm phòng thấp hoặc không được tiêm phòng thì tỷ lệ chết cao và
xảy ra ở mọi lứa tuổi.
1.3.2.4 Mùa vụ bị bệnh
Bệnh dịch tả lợn phát ra quanh năm, nhưng do biến động của đàn lợn nên
bệnh có lúc tăng, lúc giảm. Dịch xảy ra hầu hết ở các tháng trong năm nhưng vẫn
có sự chênh lệch đáng kể giữa các tháng của vụ Đông - Xuân và Hè - Thu. Ngoài
ra, tình hình dịch bệnh cũng còn bị ảnh hưởng của nhiều yếu tố như tỷ lệ tiêm
phòng, số lợn lớn đã bị giết thịt, số lợn con ra đời chưa được tiêm phòng làm cho
số lượng cá thể mẫn cảm với bệnh dịch tả lợn trong khu vực tăng lên. Tại Lào,
bệnh dịch tả lợn cũng xuất hiện quanh năm nhưng tập trung vào tháng 8-10 và
tháng 4-6 (Conlan, 2006).
1.3.3 Triệu chứng và bệnh tích
1.3.3.1 Triệu chứng
Thể bệnh của bệnh dịch tả lợn ngày nay có nhiều thay đổi, tùy thuộc vào
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11
lứa tuổi lợn, phương thức chăn nuôi, chủng virus, thời điểm nhiễm bệnh,…
nhưng các thể bệnh chủ yếu thường gặp là: thể quá cấp, thể cấp tính, thể mãn tính
và thể tiềm ẩn (không điển hình).
* Thể quá cấp
Lợn bệnh đột ngột, sốt cao kết hợp với trạng thái thương hàn. Lợn bệnh
tử vong trong vòng 24 - 48 giờ, con vật chưa kịp xuất hiện triệu chứng ỉa chảy.
Thể này còn gọi là thể bệnh dịch tả lợn khô.
* Thể cấp tính
Thời gian nung bệnh từ 3 - 4 ngày. ở thể này, lợn bệnh có triệu chứng điển
hình là sốt cao từ 41 - 420C, kéo dài 3 - 5 ngày. Con vật uể oải, mệt mỏi, ít vận
động, kém ăn hoặc bỏ ăn. Từ khi nhiễm bệnh đến 24 - 48 giờ thì mắt lợn sưng
húp, viêm kết mạc, mắt chảy rỉ. Xuất huyết ngoài da cũng có thể xuất hiện cùng lúc
với giai đoạn nhiệt độ tăng cao. Các triệu chứng ngoài da như điểm xuất huyết điển
hình màu đỏ (bằng đầu đinh ghim) hoặc có khi tạo thành mảng đỏ lớn ở vùng da
mỏng chân, bụng, bên trong đùi, da gốc tai,… thường ở giai đoạn cuối của bệnh.
Con vật bị viêm dạ dày, ruột, có triệu chứng nôn mửa. Lúc đầu lợn đi táo, có màng
nhầy bao quanh cục phân. Về sau ỉa chảy nặng, phân màu xám, mùi phân thối khắm
rất đặc trưng. Virus tấn công vào đường hô hấp thì con vật bị viêm niêm mạc mũi, tụ
huyết, xuất huyết ở phổi, rối loạn nhịp thở, khó thở. Virus xâm nhập vào hệ thống
thần kinh, gây xuất huyết màng não, con vật co giật, đi loạng choạng, liệt hai chân
sau. Những con vật không bị chết trong vòng 4 tuần sau khi nhiễm bệnh thì có thể
phục hồi nếu hàm lượng kháng thể trung hòa cao hoặc chuyển thành thể mãn tính.
Lợn nái chửa thường giảm khả năng sinh sản, sảy thai, đẻ non, thai khô,…
Mức độ nghiêm trọng của thể bệnh cấp tính tùy thuộc vào nhiều yếu tố
như: Tuổi con vật, khả năng đáp ứng miễn dịch, liều gây nhiễm và độc lực của
virus. Mổ khám thấy bệnh tích đặc trưng là xuất huyết hạch lâm ba. Huyết khối ở
lách, rìa lách bị nhồi huyết có hình răng cưa. Loét niêm mạc vùng van hồi manh
tràng. Trên bề mặt vết loét có phủ bựa, vẽ thành các vòng tròn đồng tâm, trông
giống như hình cúc áo. Xuất huyết thận, viêm cầu thận. Các hạch lympho chứa
đầy hồng cầu.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12
- Xem thêm -