Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người việt, ý nghĩa của việc thờ thành hoàng làn...

Tài liệu Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người việt, ý nghĩa của việc thờ thành hoàng làng và thờ vua hùng

.DOC
25
211
149

Mô tả:

Mở đầu Trong suốt chặng đuờng lịch sử hình thành và phát triền hành ngàn năm qua, dân tộc Việt Nam đã kiến tạo nên một nền văn hoá phong phú và đa dạng, mang bản lĩnh và bản sắc riêng. Trong số những tinh hoa văn hoá dân tộc, có một nét truyền thống trong đời sống văn hóa và tinh thần của người Việt là lòng tôn kính, yêu thương và biết ơn ông bà, cha mẹ, tổ tiên, vì vậy chúng ta có tục lệ thờ cúng tổ tiên, thờ thành hoàng làng. Sau đây chúng em xin trình bày đề tài về “Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt, ý nghĩa của việc thờ Thành Hoàng làng và thờ vua Hùng.” I. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt 1. Khái niệm tín ngưỡng Hiện nay, khái niệm tín ngưỡng được hiểu theo các hướng khác nhau nhưng đều thống nhất rằng, tín ngưỡng là sự ngưỡng mộ, tin tưởng của con người vào các lực lượng siêu nhiên, hư ảo, có tính chất thiêng liêng huyền bí. Trong tác phẩm “ Văn hoá Việt Nam đỉnh cao Đại Việt”, Nguyễn Đăng Duy đã viết: “Tín ngưỡng là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào lực lượng siêu nhiên, thần bí, hoặc do con người tưởng tượng ra những vị thần linh đến mức họ cho rằng những lực lượng ấy có ảnh hưởng, chi phối đời sống, số phận của con người và gây thành một nếp sống xã hội theo niềm tin thiêng liêng ấy” (tr. 351); hoặc tác giả Đặng Nghiêm Vạn cho rằng, “Trong tín ngưỡng phải có yếu tố thiêng liêng liên quan đến một thế giới vô hình, đến những siêu linh, mà chính con người tưởng tượng và sáng tạo ra nó” (“Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam”, tr. 67). Trong đời sống thường ngày, khi đề cập đến tín ngưỡng người ta thường liên tưởng đến những hiện tượng xã hội có tính chất linh thiêng, thần bí, thể hiện niềm tin về một thế giới vô hình, về cuộc sống sau khi chết, về sự tồn tại của linh hồn người chết và sự tác động của lực lượng này đối với cuộc sống hiện tại của con người. Hiện tượng này gắn liền với các phong tục, tập quán, thói quen, truyền thống của một cộng 1 đồng người hay một dân tộc, nó phản ánh nếp sống, cung cách ứng xử của con người cũng như phản ánh lịch sử phát triển văn hoá của cộng đồng dân tộc đó. Dưới góc độ tâm lý học, chúng tôi cho rằng, tín ngưỡng là một hiện tượng tâm lý - xã hội biểu hiện niềm tin của một cộng đồng người nhất định về thế giới vô hình, về lực lượng siêu nhiên và năng lực chi phối của lực lượng này đối với cuộc sống của con người thông qua hệ thống lễ nghi thờ cúng; quá trình hình thành và phát triển tín ngưỡng gắn liền với lịch sử phát triển của cộng đồng nên nó phản ánh cuộc sống thực tế của cộng đồng người đó. Khi đó tín ngưỡng có các đặc điểm sau: - Tín ngưỡng là một hiện tượng tâm lý, là niềm tin của con người. - Đối tượng của tín ngưỡng là một lực lượng vô hình mà con người tạo ra bằng trí tưởng tượng của mình, có tính linh thiêng, huyền bí. - Tín ngưỡng ảnh hưởng chi phối hành động, ứng xử của cá nhân và cộng đồng và được hiện thực hoá thành hiện tượng tâm lý xã hội. Cho đến nay, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn tồn tại ở nhiều quốc gia, dân tộc. Tuy vậy, vị trí và vai trò của nó trong đời sống tinh thần của con người ở mỗi nơi mỗi khác. Ở Việt Nam, hầu hết mọi người đều thờ cúng tổ tiên kể cả những tín đồ của các tôn giáo khác nhau. Mọi người quan niệm tín ngưỡng này vừa như là một phong tục truyền thống, vừa như một đạo lý làm người, lại vừa như một hình thức sinh hoạt tâm linh. Ở Việt Nam, đối tượng của thờ cúng tổ tiên được thể hiện ở 3 cấp: gia đình, làng xã, đất nước. Ở cấp độ gia đình, người Việt Nam thờ cúng ông bà, cha mẹ,… là những người cùng huyết thống đã chết. Đã là người Việt Nam, dù sang hèn, giàu nghèo khác nhau ai cũng thờ cúng cha mẹ, ông bà, tổ tiên của mình. Đây không chỉ là vấn đề tín ngưỡng mà còn là vấn đề đạo lý, phản ánh lòng biết ơn của con cháu đối với công sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Nơi thờ cúng là ở gia đình và nhà thờ họ. 2 Ở cấp độ làng xã, người Việt còn thờ cúng những người có công với làng xã và được tôn vinh là Thành Hoàng và nơi thờ cúng ở đình làng. Ở cấp độ Nhà nước, người Việt thờ cúng những người có công đối với đất nước, Tổ quốc; như Các vua Hùng, thánh Gióng, Trần Hưng Đạo, Hồ Chủ Tịch … Ở Việt Nam có 3 cộng đồng vốn từ xa xưa đã có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, đó là: gia đình, làng xã và quốc gia. Vì vậy, tổ tiên gia đình, làng xã và đất nước không tách rời nhau. Từ thực tế đó, chúng ta có thể hiểu tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một hiện tượng tâm lý xã hội thể hiện sự biết ơn của người còn sống đối với người đã chết có công lao với cá nhân, gia đình, dòng tộc, làng xã, đất nước, thể hiện niềm tin rằng, tổ tiên tuy đã chết nhưng linh hồn vẫn tồn tại ở một thế giới khác và linh hồn tổ tiên có khả năng tác động tới đời sống, số phận của con cháu thông qua các nghi lễ thờ cúng. 2. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt 2.1. Khái quát chung về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Trong các hình thái tín ngưỡng dân gian, thờ cúng tổ tiên là một loại hình tín ngưỡng cổ truyền mang tính phổ quát của người Việt. Thờ cúng tổ tiên đã trở thành một tập tục truyền thống, có vị trí hết sức đặc biệt trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam, là một trong những thành tố tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên rất giản dị : tin rằng tổ tiên mình là thiêng liêng, họ đi vào cõi vĩnh hằng nhưng vẫn sống cạnh con cháu, họ phù hộ cho con cháu khi gặp tai ách, khó khăn; vui mừng khi con cháu gặp may mắn , khuyến khích cho con cháu khi gặp điều lành và cũng quở trách con cháu khi làm những điều tội lỗi… Ở nước ta, thờ cúng tổ tiên không chỉ là tín ngưỡng phổ biến của người Việt – tộc người đa số - mà còn lưu giữu ở một vài tộc người khác như người Mường, người Thái…. Trải qua bao thăng trầm, biến cố của lịch sử, trong khi nhiều tôn giáo, tín ngưỡng dân gian khác đã phải chịu cảnh long đong , bị kết tội “ mê tín dị đoan” thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã và vẫn chiếm được vị trí thiêng liêng trong đời sống tinh thần của người Việt. Ý thức” con người có tổ, có tông” được bảo tồn trong cõi 3 tâm linh và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, dù họ sống trên tổ quốc mình hay lưu vong nơi xứ người. Đặc biệt, đây là hình thức tín ngưỡng được các thể chế chính trị ( Nhà nước) từ xưa đến nay trân trọng thừa nhận, dù rằng với những mức độ khác nhau. Cùng với tiến trình lịch sử của dân tộc, nó là sự bồi lắng, kết tụ những giá trị đạo đức quý báu của con người Việt Nam. 2.2. Cơ sở hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong cộng đồng người Việt 2.2.1. Xuất phát từ nhận thức, từ quan niệm tâm linh của con người về thế giới - Cơ sở quan trọng đầu tiên cho việc hình thành bất cứ tôn giáo, tín ngưỡng nào cũng là quan niệm tâm linh của con người về thế giới. Cũng như nhiều dân tộc khác, người Việt xuất phát từ nhận thức “ vạn vật hữu linh” – mọi vật đầu có linh hồn và bắt đầu từ giới tự nhiên xung quanh mình. +) Về nhận thức: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được hình thành trên cơ sở niềm tin vào sự bất tử của linh hồn tổ tiên. Niềm tin ấy bắt nguồn từ ước muốn mang tính bản năng - ước muốn trường thọ của con người. Người Việt quan niệm rằng, con người có 2 phần: phần xác và phần hồn. Hai phần này vừa gắn bó, vừa tách biệt, chúng gắn bó với nhau. Khi con người còn sống, hồn nhập vào xác điều khiển hành vi của con người. Khi con người chết, phần hồn rời khỏi xác, thể xác của họ hoà vào cát bụi, phần hồn vần tồn tại và chuyển sang sống ở một thế giới khác (cõi âm). Ở Cõi Âm mọi linh hồn đều có các nhu cầu như cuộc sống nơi trần thế. Niềm tin vào việc những người đã khuất luôn có mối quan hệ vô hình ( hoặc phù trợ, hoặc cản trở) đối với những người đang sống. Ông bà, cha mẹ dù qua đời nhưng vẫn luôn hiện diện trong tâm tưởng của con cháu, và con cháu luôn cảm thấy trách nhiệm cả về vật chất lẫn tinh thần đối với họ. Niềm tin về cái chết chẳng qua là một cuộc trở về gặp tổ tiên, ông bà và tổ tiên sẽ phù hộ độ trì cho con cháu. +) Sự kính trọng biết ơn: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn được bắt nguồn từ lòng hiếu thảo của con cháu. Quan hệ giữa bố mẹ đang sống với con cái là hiện thân của mối quan hệ giữa tổ tiên với con cháu sau này. Sự kính hiếu cha mẹ được tiếp nối 4 bằng sự tôn thờ, sùng bái tổ tiên. Bổn phận kính trọng, báo hiếu, đền ơn công sinh thành dưỡng… dục của bố mẹ cũng là bổn phận báo hiếu, ơn đền tổ tiên. Thờ phụng tổ tiên thể hiện lòng hiếu thảo, sự thành kính biết ơn các bậc đã sinh thành, nuôi nấng và tác thành cho mình. Tuy nhiên, con cháu chỉ được tổ tiên bao dung, che chở khi sống xứng đáng với ước nguyện của tổ tiên. Mặt khác, con cháu chỉ tôn kính, qui thuận và thờ phụng tổ tiên khi tổ tiên xứng đáng là tấm gương sáng cho con cháu noi theo. Nếu ai, trong quá khứ có hành động đi ngược lại lợi ích của cộng đồng họ tộc và gia đình, chẳng những không được kính trọng, tôn thờ mà còn bị nguyền rủa, trừng phạt. +) Sự sợ hãi: Trong cuộc sống con người còn gặp nhiều khó khăn, rủi ro, bất hạnh, sa cơ, lỡ vận, bệnh tật hiểm nghèo …luôn đe doạ sự bình an của con người. Con người còn thiếu tự tin vào chính bản thân khi phải đối mặt giải quyết với các vấn đề trên trong cuộc sống của chính bản thân họ. Họ luôn mong muốn có sự giúp đỡ của các thế lực khác nhau, trong đó họ cần đến sức mạnh của ông bà tổ tiên ở “thế giới bên kia” che chở, nâng đỡ. Từ quan niệm dân gian về linh hồn, người ta cho rằng, nếu không cúng tế linh hồn ông bà tổ tiên đầy đủ thì những linh hồn này trở thành ma đói và sẽ mang lại rủi ro, quấy nhiễu cuộc sống của những người đang sống. Đồng thời, ở chế độ phụ hệ quyền lực của người đàn ông, nhất là gia trưởng, tộc trưởng nam đã làm nảy sinh ở phụ nữ, con cháu sự quy thuận lẫn cảm giác sợ hãi. Tâm trạng này không phải chỉ tồn tại ở vợ và con cháu khi họ đang sống mà cả khi họ đã chết. Trong cuộc sống của mỗi con người, càng về già, cái chết luôn là nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với mỗi người, con người không muốn nó diễn ra, ngay cả khi họ có cuộc sống nơi dương thế luôn gặp khó khăn và trắc trở, nhưng họ lại luôn phải đối mặt với nó. Thực hiện các lễ nghi thờ cúng tổ tiên trong không gian thiêng đó, mỗi người được trải nghiệm và cũng như một lần được chuẩn bị tâm thế chấp nhận cái chết một cách thanh thản, bình tĩnh và nhẹ nhàng hơn. 5 2.2.2. Cơ sở kinh tế Trong xã hội nguyên thuỷ, ý thức về tổ tiên là một yếu tố của ý thức xã hội nguyên thuỷ, phản ánh sự bất lực của con người trước sức mạnh của tự nhiên. Về sau, cùng với lực lượng tự nhiên là lực lượng mang tính xã hội, như sự áp bức, bóc lột giai cấp... luôn thống trị lên cuộc sống hàng ngày của con người. Bế tắc trong cuộc sống hiện thực, con người tìm sự giải thoát trong cuộc sống tinh thần. Cùng với các biểu tượng về thần linh, biểu tượng về tôtem (vật tổ) đã xuất hiện trong thời kỳ thị tộc mẫu hệ. Đặc điểm chủ yếu của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong thời kỳ này là việc thờ tổ tiên tôtem giáo Sang thời kỳ thị tộc phụ hệ, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên phản ánh sự thay đổi trong phân công lao động xã hội. Do đặc trưng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm gió mùa nên Việt Nam sản xuất lúa nước theo truyền thống tiểu canh kết hợp với nuôi gia súc. Vì vậy, sản xuất không đòi hỏi tập trung nhân công theo quy mô lớn như ở nơi sản xuất lúa mì khô, công cụ sản xuất cũng nhỏ, gọn , nhẹ, mọi thành viên trong gia đình, từ phụ nữ, trẻ em đều sử dụng dễ dàng. Nhưng công việc nông nghiệp lại đòi hỏi sức vóc, vì vậy vai trò người đan ông được đề cao và giữ vai trò chủ đạo trong đời sống kinh tế. Từ đó, Họ trở thành những người vừa có quyền lực thế tục, vừa có uy tín, được quyền nắm giữ việc thờ cúng các thần, trong đó có tổ tiên đã chết. Quyền hành của gia trưởng, tộc trưởng còn làm phát sinh ở con cháu cảm giác sợ hãi, qui thuận. Cảm giác này được nuôi dưỡng, di truyền thông qua các thế hệ và thậm chí được chuyển sang thế giới bên kia với quan niệm rằng, người chết vẫn có thể trừng phạt con cháu. Tổ tiên cũng giống như các vị thần linh khác có thể giáng tai hoạ xuống con cháu, vì thế cần phải kính trọng, thờ cúng thường xuyên thì tổ tiên mới không làm hại, mới che chở, bảo vệ, phù giúp. Đối tượng thờ cúng thời kỳ này được chuyển từ tổ tiên tôtem sang tổ tiên thật, cùng huyết thống đã chết. Đặc điểm này đã tạo nên nét khác biệt trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam và Trung Hoa. Như vậy, có thể xem nguồn gốc xã hội sâu xa mang tính khách quan của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là ở tính hạn chế của lực lượng sản xuất và kèm theo đó là sự 6 hạn chế, tù túng trong quan hệ kép giữa con người với tự nhiên và giữa con người với con người trong xã hội. Còn nguồn gốc trực tiếp, mang tính xã hội của nó là sự phân hoá xã hội mà hệ quả của sự phân hoá ấy là việc đề cao vai trò của người đứng đầu trong gia đình - thị tộc. 2.2.3. Cơ sở xã hội - Có thể nói rằng, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cùng huyết thống chỉ thực sự ra đời và phát triển trong thời kỳ thị tộc phụ quyền. Từ những cơ sở kinh tế nếu trên đã dẫn đến một số hệ quả như sau: Trong chế độ phụ quyền, địa vị của người đàn ông được đặt lên hàng đầu, quyền thừa kế tài sản theo dòng họ cha và tiếp nối đến thế hệ sau đã củng cố vững chắc vị trí của người đàn ông trong xã hội.. Khi trình độ sản xuất phát triển, của cải xã hội làm ra ngày càng nhiều làm xuất hiện một lớp tích luỹ được nhiều của cải và dẫn tới có quyền uy chi phối người khác và là mầm mống cho sự phân chia xã hội thành giai cấp. Trong xã hội có giai cấp, vị trí của người đàn ông trong gia đình và ngoài xã hội ngày càng được củng cố - cơ sở đích thực trong quá trình chuyển đổi từ việc thờ cúng tổ tiên sang việc thờ cúng tổ tiên là con người thực cùng chung dòng máu. - Về hình thức tổ chức xã hội: Xã hội được tổ chức theo mô hình gia đình – làng xã, đây vừa là cơ sở kinh tế vừa là cơ sở xã hội. Hình thức tổ chức này có tính cố hữu cao, được xây dựng trên quan hệ huyết thống và dòng tộc là chủ yếu. Nó có thời gian tồn tại và phát triển rất lâu dài, là cơ sở hình thành – phát triển – lưu giữ các giá trị văn hóa của cộng động. 2.2.4. Ảnh hưởng của một số tư tưởng tôn giáo đến tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam - Ảnh hưởng của tư tưởng Khổng giáo (Khổng giáo do Khổng Tử sáng lập): Tư tưởng của đạo Khổng là đề cao chữ hiếu và coi đó là nền tảng của đạo làm người. Theo Khổng Tử, sự sống của mỗi con người không phải do tạo hoá sinh ra, càng không phải do bản thân tự tạo, mà nhờ cha mẹ. Sự sống của mỗi người gắn liền với sự sống của cha mẹ, sự sống của cha mẹ lại gắn liền với sự sống của ông bà và cứ 7 như vậy thế hệ sau là sự kế tiếp của thế hệ trước. Vì thế, con người phải biết ơn không chỉ với cha mẹ mà cả đối với thế hệ tổ tiên trước đó. - Ảnh hưởng của tư tưởng Đạo giáo (Đạo giáo do Lão Tử và Trang Tử khởi xuớng): Trong quan niệm của Lão Tử và Trang Tử, bản chất của “Đạo” là nguồn gốc của vạn vật trên thế giới, là quy luật vận động của tự nhiên và được hai ông diễn tả nó như một thứ huyền bí, một nguyên lý tối cao vô hình. Trong Đạo giáo đã xây dựng nhiều nhân vật thần tiên có dáng dấp của con người. Thần tiên của Đạo giáo chính là những cá nhân đã được tôn vinh thành những nhân vật trường sinh bất tử, ở nơi bồng lai tiên cảnh, sống cảnh an nhàn tiên cảnh, lại rất thần thông quảng đại có thể cưỡi mây, đạp gió, làm được những việc phi thường mà con người trần tục không thể làm được. Đạo giáo góp phần củng cố niềm tin vào sự tồn tại và năng lực siêu nhiên của linh hồn những người đã chết thông qua một số nghi lễ thờ cúng như: gọi hồn, bùa chú, ma chay, tang lễ, mồ mả và đốt vàng mã. - Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo: Phật giáo có ảnh hưởng rất lớn đến sự giữ gìn và phát triển tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam, trước hết là quan niệm của Phật giáo về cái chết, về kiếp luân hồi và nghiệp báo,… Phật giáo cho rằng, sống chết là quy luật tất yếu của thế gian giống như mặt trời lặn rồi lại mọc, mọc rồi lại lặn mà thôi. Sống và chết chỉ có nghĩa là thay đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác. Chết là bắt đầu của một chu kỳ sống mới, một kiếp sống mới. Theo Đạo Phật, không có kiếp sống đầu và kiếp sống cuối cùng. Sau khi chết, linh hồn con người sẽ được tái sinh, đầu thai vào một kiếp khác. Kiếp đó là hạnh phúc hay đau khổ, tuỳ thuộc vào bản thân họ đã sống thiện hay ác trong quá khứ. Những tư tưởng cơ bản của Phật giáo có ảnh hưởng lớn lao đến sự phát triển của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt, nhưng không vì thế mà nó là sự sao chép y nguyên tư tưởng của Phật giáo. Người Việt Nam quan niệm rằng, cha mẹ và tổ tiên luôn lo lắng và quan tâm cho con cái ngay cả khi họ đã chết. Người sống chăm lo đến linh hồn người chết, vong hồn người chết cũng quan tâm đến cuộc sống của người đang sống. 8 2.3. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong đời sống người Việt ngày nay 2.3.1. Thờ cúng tổ tiên trong gia đình và gia tộc Mang đặc tính của cư dân nông nghiệp đa thần giáo, trong gia đình người ta thường thờ phụng nhiều vị thần. Bên cạnh việc thờ tổ tiên, thờ Phật, người ta còn thờ bà Cô, ông Mãnh (ông Hoàng ) là những người thân thích, chết trẻ hoặc chết vào giờ linh thiêng. Ở một số gia đình, vị trí đặt bàn thờ được sắp xếp theo quy định, ví dụ thờ Thánh sư ở trong góc nhà, thờ Tiền chủ ở bàn thờ đặt ngoài sân, thờ bà Cô, ông Mãnh ở cạnh thấp hơn bàn thờ tổ tiên…Trong các vị thần được thờ tại gia, thường không có vị thần nào được sắp xếp ngang hang với tổ tiên. Đây là điểm khác biệt với một số dân tộc khác ở Đông Á. Ở Hàn Quốc người ta chỉ lập bàn thờ và dán bài khi có việc cúng giỗ. Ở Nhật Bản, vị trí trang trọng nhất trong nhà dành thờ Thần đạo ( Shinto) còn bàn thờ tổ tiên lại lập ở gian phụ. Trong tục thờ cúng tổ tiên, người Việt coi trọng việc cúng giỗ vào ngày mất (còn gọi là "kỵ nhật") thường được tính theo Âm lịch (hay còn gọi là "ngày ta"). Họ tin rằng đó là ngày con người đi vào cõi vĩnh hằng. Không chỉ ngày giỗ, việc cúng tổ tiên còn được thực hiện đều đặn vào các ngày mồng một (ngày sóc), ngày rằm (ngày vọng), và các dịp lễ tết. Những khi trong nhà có việc quan trọng như dựng vợ gả chồng, sinh con, làm nhà, đi xa, thi cử.., người Việt cũng dâng hương, làm lễ cúng tổ tiên để báo cáo và để cầu tổ tiên phù hộ, hay để tạ ơn khi công việc thành công. Bản chất việc thờ cúng tổ tiên của người Việt là từ niềm tin người sống cũng như người chết đều có sự liên hệ mật thiết và hỗ trợ nhau. Con cháu thì thăm hỏi, khấn cáo tiền nhân. Tổ tiên thì che chở, dẫn dắt hậu thế nên việc cúng giỗ là thực hiện mối giao lưu giữa cõi dương và cõi âm. Bàn thờ tổ tiên bao giờ cũng đặt tại nơi cao ráo, sạch sẽ và trang trọng nhất trong nhà (gian giữa đối với nhà một tầng, tầng trên cùng đối với nhà tầng). Trên bàn thờ thì bày bát hương, chân đèn, bài vị hay hình ảnh người quá cố. Đồ cúng cơ bản không thể thiếu hương, hoa, chén nước lã. Ngoài ra có thể có thêm thức ăn, trà rượu, 9 và có khi có cả đồ vàng mã (quần áo đồ dùng làm bằng giấy), tiền âm phủ... Sau khi tàn tuần hương, đồ vàng mã và tiền âm phủ được đem đốt, được gọi là "hóa vàng", còn chén rượu cúng thì đem rót xuống đống tàn vàng. Tục truyền rằng phải làm như vậy người chết mới nhận được đồ cúng tế, vì hương khói bay lên trời, nước (rượu) hòa với lửa mà thấm xuống đất. Sau khi cúng giỗ, gia đình thường dọn thức ăn vừa cúng xong để cùng ăn, coi như hưởng lộc của tiền nhân. Bạn bè thân thuộc cũng được mời đến dùng bữa, tức là đi ăn giỗ. Một biến thể của việc cúng giỗ là tục thờ "hậu" do nhà chùa hay đình làng đảm nhiệm. Trong trường hợp này người quá cố đã cúng tiền hay ruộng vào chùa hay đình để được hưởng lễ vật vào những ngày kỵ nhật. Vì kính trọng tổ tiên, người Việt coi việc tang ma là trọng sự, gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên 2.3.2. Lễ giỗ tỗ Hùng Vương Ngoài việc tôn thờ công đức của cha ông, tộc họ, những người đã khuất cùng huyết thống người Việt còn tôn thờ tất cả những người có công với nước, với xóm làng, những anh hung dân tộc. Cũng trong truyền thống ấy, với người Việt Nam từ bao đời nay ngày giỗ tổ Hùng Vương luôn được coi trọng, và đó được gọi ngày ngày “ Quốc lễ ”. Đó là sự tưởng nhớ, là sự trở về cội nguồn của dân tộc. Và đây được coi là ngày giỗ quan trong và thiêng liêng nhất của cộng đồng người Việt: “ Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ Tổ mùng Mười tháng Ba” Mùng Mười tháng Ba hàng năm đã trở thành ngày giỗ của vua Hùng, thành ngày hội tụ con cháu khắp mọi miền đất nước hướng về đất Tổ. Có thể nói ngày giỗ tổ Hùng Vương là sự phát triển cao có tính chất trừu tượng hóa ý thức về cội nguồn, bắt rễ sâu xa tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở làng xã, trong gia đình và gia tộc. 2.4. Giá trị lịch sử, văn hóa và đạo đức của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt - Giá trị lịch sử, văn hóa. 10 Trên cơ sở phân tích những bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, chúng ta có thể đánh giá thống nhất về những giá trị lịch sử, văn hóa của di sản văn hóa phi vật thể đặc biệt này. Thờ cúng Tổ tiên ở Việt Nam là một tín ngưỡng có sức sống lâu bền, có gốc rễ sâu xa trong cộng đồng người Việt. Do đó, thờ cúng Tổ tiên là hiện tượng xã hội có tính phổ biến. “Thờ cúng tổ tiên là nghi thức mang hiệu quả đặc biệt trong việc giáo dục chữ Hiếu, chữ Nhân, chữ Lễ, chữ Tâm là những phẩm chất cần thiết nhất để con người có thể được xem là hoàn thiện trong nhân cách. Một trong những ảnh hưởng có thể kiểm chứng ngay của những người đã khuất đến thế giới hiện tại là góp phần điều chỉnh, giáo dục con người thông qua hành vi thờ tự....” ( PGS TS Nguyễn Văn Cương, ĐHVHHN). TS Nguyễn Anh Tuấn, GĐ Bảo tàng Hùng Vương, Phú Thọ khẳng định đây là:” một giá trị văn hoá - một hằng số bất biến của giá trị nhân văn cao đẹp của mỗi người Việt Nam”. Xuất phát từ mối liên hệ mật thiết, gắn bó trên cơ sở huyết thống, mà quy định thành những Đạo, nghĩa cụ thể, như: đạo, nghĩa cha – con; đạo, nghĩa vợ - chồng; đạo nghĩa anh – em. Trong các đạo ấy thì Đạo Hiếu đễ xoay quanh mối quan hệ cha-con và anh-em trở thành một cái Đạo trung tâm chi phối đạo đức gia đình và mang đến cho gia đình những giá trị văn hoá-đạo đức căn bản nhất. Từ chữ Hiếu đối với ông bà tổ tiên mình được mở rộng, mang thêm những sắc thái ý nghĩa mới mang tính cộng đồng, trở thành tấm lòng của người đi sau dành cho người đi trước, sự ngưỡng một đối với tiền nhân, các công thần có công với nước được thờ trong đình làng cho đến một tinh thần Hiếu đạo với ý thức thờ cúng “người cùng một cội, “cùng một bọc trứng mà sinh ra” qua hình thức thờ Quốc tổ Hùng Vương. Hàng năm, ngày mùng 10 tháng 3, ngày giỗ tổ cũng được tổ chức hết sức trang trọng ở phương Nam”. Ths. Trần Văn Thục, Đại học Hùng Vương cho rằng : Giỗ Tổ Hùng Vương là “hiện tượng lịch sử độc nhất vô nhị” mà không tìm thấy ở bất cứ nơi nào trên thế giới, chỉ duy nhất cả dân tộc Việt Nam có chung ngày giỗ Tổ. 11 “Điều đó cho thấy việc hướng về nguồn, về tổ tiên người Việt mà thờ phụng là rất rõ ràng, truyền từ đời này qua đời khác.”( Ths Hoàng Thị Hoa, GĐ Sở VHTTDLBắcGiang). Việc coi Hùng Vương là một ông Tổ chung đã củng cố tâm thức của các cộng đồng dân tộc - chúng ta là những người của chung một cội nguồn, có cùng một Tổ chung, được sinh ra từ cùng một bọc trứng, dân cả nước đều là anh em một nhà. Ý thức dân tộc đó đã trở thành nền tảng để hội tụ tinh thần đoàn kết toàn dân, tạo nên sức mạnh bách chiến bách thắng của dân tộc. Sức mạnh đó đã được củng cố và phát huy trong lịch sử chống ngoại xâm cũng như trong kiến thiết xây dựng đất nước khi hòa bình. Biểu tượng Hùng Vương đã trở thành chỗ dựa của niềm tin, thành điểm tựa cho sự đoàn kết quốc gia. - Cùng với việc phân tích những chân giá trị của tín ngưỡng Thờ tổ tiên ở Việt Nam, các tác giả cũng đồng thời khẳng định về sức sống của tín ngưỡng này trong đời sống đương đại : “Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn được các triều đại phong kiến thừa nhận và thể chế hóa bằng pháp luật.” Tín ngưỡng thờ cúng ông Tổ dòng họ cũng đang được phục hồi. Các dòng họ đua nhau xây dựng và tu sửa từ đường, mồ mả tổ tiên, lập lại gia phả. Nhiều dòng họ cử người ra Bắc vào Nam sưu tập tài liệu, biên soạn gia phả để lưu truyền cho đời sau. Về phần mình, chúng tôi cho rằng, với những nội dung giá trị tinh thần không thể phủ nhận, tín ngưỡng thờ Quốc Tổ Hùng Vương nói riêng và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên nói chung đã trở thành một trong những di sản văn hóa độc đáo của quốc gia dân tộc Việt Nam, một bộ phận hữu cơ của kho tàng di sản văn hóa nhân loại, xứng đáng được bảo vệ và phát huy giá trị. - Giá trị đạo đức: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt trong quá trình hình thành, tồn tại của nó đã góp phần tạo ra những giá trị đạo đức truyền thống như lòng hiếu thảo, lòng 12 nhân ái, tính cộng đồng, lòng hiếu học và lòng yêu nước. Vì thế, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã trở thành một cái gì đó vĩnh hằng cùng với sự tồn tại và phát triển của dân tộc. Hiếu với tổ tiên, ông bà, cha mẹ còn được nâng lên cao hơn, đẹp hơn đó là “ hiếu với dân, với nước”. Đã bao thế kỷ trôi qua, cung cách và quan niệm thờ phụng tổ tiên của người Việt Nam xét theo góc độ nào đó đã có nhiều thay đổi nhưng ý nghĩa lớn nhất thì vẫn giữ nguyên. Người Việt Nam coi việc thờ phụng tổ tiên là một trong những nguyên tắc đạo đức làm người. Đó là hình thức thể hiện sự hiếu thuận và lòng biết ơn của con cháu đối với các bậc sinh thành. Niềm tin vào sự hiện tồn của tổ tiên góp phần cân bằng trạng thái tâm lý, nhiều khi còn là cứu cánh, là sự giải toả nỗi cô đơn, bất hạnh của con người trước cái chết. Bằng nghi lễ thờ cúng tổ tiên, con người thể hiện một cách suy nghĩ về cái chết và cuộc sống sau khi chết, giải toả nỗi kinh sợ khi phải đối mặt với nó. Đó là điều bí ẩn của thế giới tâm linh, đặc biệt là mối liên hệ vô hình nào đó giữa những người cùng dòng máu. Vì thế càng ngày, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên càng có vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh của mỗi người dân Việt Nam. Nó là một trong những nhân tố góp phần quan trọng để bảo tồn và duy trì nét văn hóa truyền thống của dân tộc. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một tập tục mang đậm bản sắc văn hóa của người Việt. 3. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong giai đoạn hiện nay Từ sau đổi mới, các loại hình tôn giáo tín ngưỡng đều được coi là “trỗi dậy” sau một giấc ngủ dài. Đời sống tôn giáo trở nên sôi động. Thờ cúng tổ tiên cũng hòa mình vào xu thế chung đó. Thờ cúng tổ tiên trong các gia đình cũng ngày càng được chú trọng hơn. Nếu tôn giáo chỉ đáp ứng được nhu cầu tâm linh của một bộ phận người dân là tín đồ của tôn giáo đó thì thờ cúng tổ tiên đáp ứng nhu cầu tâm linh của đại bộ phận người Việt Nam. 13 Nếu trước kia, chúng ta còn bắt gặp những gia đình không có ban thờ tổ tiên trong nhà thì ngày nay nhà nào cũng có. Cùng với sự phát triển kinh tế, những trang thờ nhỏ bé hay những bát hương đặt tạm bợ trên nóc tủ thời bao cấp dần dần được thay thế bằng những ban thờ cố định với nhiều kiểu dáng mẫu mã trang nghiêm và đẹp mắt. Vị trí đặt ban thờ tổ tiên cũng được chú trọng. Ngày nay, để đặt một ban thờ, người ta không còn tùy tiện chỗ nào cũng được như trước mà cần phải xem hướng ban thờ, xem kích thước ban thờ về chiều cao, chiều dài, chiều rộng. Ngày đặt ban thờ hay bốc bát hương cũng là một sự kiện quan trọng của gia đình. Những gia đình có điều kiện, người ta thường dành một phòng riêng, trên tầng cao nhất, hay khu vưc sạch sẽ và trang trọng nhất trong ngôi nhà làm phòng thờ. Sự thay đổi trong cách thức bài trí bát hương và không gian thờ tổ tiên trong các gia đình ngày nay là chỉ báo rõ nét thể hiện tầm quan trọng của thờ cúng tổ tiên trong đời sống tâm linh người Việt Nam đương đại. Tầm quan trọng của thờ cúng tổ tiên bên cạnh sự biểu hiện qua không gian thờ cúng tổ tiên trong gia đình còn thể hiện qua sự chú trọng xây dựng hệ thống nhà thờ tổ, nhà thờ dòng tộc. Trong những năm gần đây, nhiều nhà thờ họ đã được tu bổ, xây mới. Nhiều gia đình chi phí đóng góp xây dựng nhà thờ tộc, nhà thờ họ lên tới vài tỉ đồng. Xu thế xây dựng nhà thờ tộc được phục hồi nhưng xu thế cá nhân hóa thờ cúng tổ tiên cũng phát triển rất mạnh mẽ. Tính cá nhân hóa mà chúng tôi đề cập tới ở đây để chỉ xu thế thờ cúng tổ tiên ngày nay được chuyển vào từng thành viên trong gia đình. Nếu trước đây, thờ cúng tổ tiên được tập trung tại nhà dòng trưởng (trưởng tộc, trưởng họ, trưởng chi, con trưởng) thì nay, mọi thành viên trong gia đình đều thờ cúng tổ tiên tại gia đình mình. Nhiều gia đình vẫn còn giữ được tục lệ cứ giỗ tết tập trung lại vào nhà con trưởng để làm giỗ. Tuy nhiên, tại nhiều gia đình, ngày giỗ không còn là ngày con cháu tập trung như trước nữa. Hình thức cúng giỗ mang tính cộng đồng chung các thành viên trong gia đình được chuyển thành hình thức cúng giỗ cá thể. Mỗi thành viên trong gia đình làm lễ cúng giỗ người đã mất tại nhà mình. Như vậy, giả dụ một ông bố có 5 người con, khi ông bố mất đi, nếu theo hình thức cúng giỗ 14 trước kia, các con sẽ tập trung tại nhà con trai trưởng để làm lễ cúng giỗ bố vào ngày giỗ và không làm tại nhà riêng của mình thì ngày nay cả 5 người con không phân biệt trai hay gái sẽ tiến hành làm lễ cúng giỗ bố tại nhà riêng của mình. Nếu cho rằng người mất có thể về được để hưởng thụ những vật phẩm mà người thân của mình cúng tế vào ngày giỗ thì ông bố này sẽ phải đi tới 5 ngôi nhà để hưởng 5 mâm cỗ thay vì một mâm như trước kia. Cách thức bài trí ban thờ tổ tiên, ban thờ dòng tô ̣c cũng có nhiều thay đổi. Trước kia Nhà thờ Thủy tổ có riêng mô ̣t thần chủ để thờ mãi mãi, không bao giờ thay đổi, gọi là “bách thế bất diêu chi chủ”. Còn về gia từ nhà phú quý có đủ thần chủ bốn đời, để thờ cao, tằng, tổ, khảo. Thần chủ làm bằng gỗ táo, lấy nghĩa rằng gỗ táo sống lâu được nghìn năm. Dài mô ̣t thước, ở giữa đề tên, họ, chức tước và hai bên thì đề ngày tháng sinh tử của tổ tiên, có hô ̣p vuông che kín và để trong long khảm, khi nào cúng tế mới mở ra. Hễ đến năm đời thì lại đem thần chủ Cao tổ mai đi mà nhắc lần Tằng, Tổ, Khảo lên bực trên, rồi đem Ông mới nhất mà thế vào thần chủ ông Khảo, gọi là “Ngũ đại mai thần chủ”. Nhà thường dân cũng có nhà dùng thần chủ, cũng có nhà chỉ dùng mô ̣t bô ̣ ỷ để thờ . Ngày nay, cách thức thờ cúng này rất ít gia đình còn duy trì được. Hầu hết các ban thờ gia tiên, đă ̣c biê ̣t là các ban thờ gia tiên tại thành phố không có thần chủ, không có long khảm đă ̣t thần chủ, không có bài vị Cao, Tằng, Tổ, Khảo. Mô ̣t số ít gia đình, nhiều hơn tại các vùng làng quê còn giữ được Thần chủ, mô ̣t số gia đình không giữ được thần chủ nhưng vẫn còn Long khảm trên ban thờ. Hiê ̣n nay, xu thế mô ̣t số nhà thờ họ dựng lại Long khảm đă ̣t trên ban thờ gia tô ̣c dòng họ. Tuy nhiên, ý nghĩa của Thần chủ, Long khảm không mấy ai tường tâ ̣n. Vì vâ ̣y, phương thức thờ “Ngũ đại mai thần chủ” không còn được duy trì. Không có Thần chủ, không có bài vị các bâ ̣c Cao, Tằng, Tổ, Khảo nên giờ đây người ta không còn khái niê ̣m chỉ thờ cúng tổ tiên năm đời. Những gia đình nào còn may mắn giữ lại được bài vị tổ tiên từ trước thì mãi mãi lưu giữ không tính đến chuyê ̣n đời thứ 5 thì phải mai đi thay thế hê ̣ mới vào đó nữa. Bài vị tổ tiên được cọi như bảo vâ ̣t cần được gìn giữ. 15 Nếu ngày xưa đồ thờ dùng gỗ táo thì nay người ta chuô ̣ng gỗ mít. Chúng tôi hỏi những người làm đồ thờ tại làng Sơn Đồng, Hà Tây, mô ̣t làng nổi tiếng với nghề làm đồ thờ và tượng thờ thì được biết: “đồ thờ, tượng thờ làm bằng gỗ mít sẽ linh thiêng hơn”. Vì sao linh thiêng thì không ai giải thích. Mô hình thường thấy của mô ̣t ban thờ tổ tiên hiê ̣n nay trong các gia đình là môt ban thờ hoă ̣c trang thờ trên đó bày các bát hương. Ban thờ tổ tiên cũng đồng thời là ban thờ Thần linh cai quản ngôi nhà nên bài trí mô ̣t ban thờ tổ tiên hiê ̣n nay thông thường gồm 3 bát hương. Bát to nhất ở giữa thờ thần linh; bát bên phải to thứ hai thờ gia tiên dòng tô ̣c không kể nô ̣i hay ngoại và bao nhiêu đời; bát bên trái nhỏ hơn thờ những người mất trẻ (bà cô, ông mãnh) của dòng tô ̣c. Cũng có những gia đình bài trí khác, gồm mô ̣t bát hương thần linh ở giữa; bên phải là bát hương thờ bên nô ̣i; bên trái là bát hương thờ bên ngoại… Hiê ̣n không có quy chuẩn cho sự bài trí ban thờ tổ tiên. Sự chú trọng thờ cúng tổ tiên ngày nay còn được thể hiện ở sự chú trọng phần mộ dòng tộc. Từ bao đời, phần mô ̣ tổ tiên luôn được con cháu coi trọng và gìn giữ. Tục ngữ có câu “ giữ như giữ mả tổ”. Câu tục ngữ đã thể hiê ̣n được tầm quan trọng của mồ mả tổ tiên đối với người sống. Tuy nhiên, theo chúng tôi, đã có nhiều biểu hiê ̣n chú trọng phần mô ̣ tổ tiên mô ̣t cách hơi thái quá trong xã hô ̣i ngày nay. Nhà nhà đua nhau xây phần mô ̣ nhà mình cho thâ ̣t to, thâ ̣t đẹp. Mô ̣ là ngôi nhà của người mất. Viê ̣c con cháu xây dựng cho tổ tiên mô ̣t ngôi nhà mới, nhà đẹp là mô ̣t nét đẹp văn hóa nhưng đua nhau xây mô ̣ sao cho mô ̣ nhà mình phải to, phải đẹp hơn những nhà khác lại là vấn đề cần phải suy nghĩ. Hiê ̣n chưa ai chứng minh được mô ̣ to thì phúc lớn, mô ̣ nhỏ thì phúc bé. Chính lòng mong mỏi mô ̣ nhà mình phải hơn nhà khác mà chúng ta thấy hiê ̣n nay nhiều nghĩa trang xuất hiê ̣n tình trạng các mô ̣ xây lấn vào nhau khiến con cháu đến thắp hương không còn chỗ mà đứng mà đi vào phần mô ̣ nhà mình. Chăm sóc phần mô ̣ tổ tiên là mô ̣t nét văn hóa truyền thống của người Viê ̣t nhưng có lẽ không nhất thiết phải đua nhau như vâ ̣y. Nhiều gia đình đã lâm vào tình trạng kinh tế khó khăn, anh em bất đồng với những khoản đóng góp không nhỏ cho viê ̣c xây 16 dựng phần mô ̣, nhà thờ như vâ ̣y. Chúng ta cần tìm mô ̣t cách nào để tránh lãng phí và phiền hà cho những người thân đang sống thì có lẽ cũng sẽ hợp ý tổ tiên hơn. II. Ý nghĩa của việc thờ cúng Vua Hùng 1. Nguồn gốc của Tín ngưỡng thờ cúng Vua Hùng và vị trí của nó trong tiềm thức của người Việt. Tín ngưỡng thờ Hùng Vương từ hàng nghìn năm nay đã ăn sâu vào tâm thức của người Việt. Lễ hội Đền Hùng hàng năm được tổ chức vào ngày 10/3 âm lịch đã trở thành lễ hội văn hóa lớn nhất của cả nước. Qua Lễ hội Đền Hùng 2011, một lần nữa hệ giá trị tinh thần này lại được khẳng định và tôn vinh. Sách “ Lĩnh Nam Chích Quái” của Trần Thế Pháp thế kỷ XIII ghi chép về những chuyện cổ tích và truyền thuyết của nước ta. Trong đó những truyện “Họ Hồng Bàng”, “Truyện Ngư Tinh”, “Truyện Hồ Tinh”, “Truyện Đổng Thiên Vương”, “Truyện Nhất dạ trạch”, “Truyện Mộc Tinh”, “Truyện cây cau”, “ Truyện Dưa hấu”, “ Truyện Lý ông Trọng” đã phản ánh về thời các Vua Hùng nhưng chủ yếu tập trung giải thích về nguồn gốc “Đồng bào” Việt Nam, về ý thức lao động của con người để chinh phục thiên nhiên, cải tạo thiên nhiên, làm ra của cải vật chất phục vụ cuộc sống cho chính mình: Chử Đồng Tử khai phá đầm lầy, Mai An Tiêm cải tạo đảo hoang; Tản Viên Sơn đắp đê chống lụt, dạy dân cấy lúa, làm bánh, trồng dâu, chăn tằm, dệt vải, trồng dưa hấu, buôn bán trao đổi sản vật… Sách “Việt Sử Lược” (biên soạn năm 1377) đã chép về Hùng Vương dựng nước Văn Lang nhưng Vua với tư cách là một pháp sư tài giỏi thâu tóm được quyền lực các bộ tộc để trở thành một vị thủ lĩnh tối cao của bộ lạc. Năm 1372, Hàn Lâm viện học sĩ Hồ Tông Thốc với sách “Việt Nam Thế Chí” đã là người đầu tiên đưa vào chính sử các vị Hùng Vương vừa như một nhân vật lịch sử, lại vừa như là tinh thần dân tộc để nhắc nhở, răn dạy con cháu theo quan niệm Trung hiếu của Nho giáo với những người có công mở nước. Năm 1435 trong sách “Dư Đại Chí” Nguyễn Trãi đã nhắc đến 17 Hùng Vương theo thư tịch thời Trần như một niềm tự hào dân tộc…Từ đây về sau, vua Hùng được gọi là Thánh Tổ và đựơc chính quyền Trung ương công nhận; nhân dân ta trên khắp mọi miền đất nước xây đền thờ phụng. Trải qua hàng trăm năm, từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XV từ ngữ danh xưng Hùng Vương đã được tích tụ dần trở thành chính thống. Năm 1470, bằng việc soạn dựng “Ngọc phả cổ truyền về 18 chi đời Thánh Vương triều Hùng” triều đại Hậu Lê đã khẳng định vị trí độc tôn dựng nước, sinh dân thuộc về các Vua Hùng. Các Vua Hùng được nhân dân lập bàn thờ chính tại núi Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì (Phú Thọ) và còn rất nhiều các đền miếu thờ cúng Hùng Vương và tướng lĩnh dưới thời các Vua Hùng ở Phú Thọ và nhiều địa phương trong cả nước. Tín ngưỡng thờ Hùng Vương trong tiến trình lịch sử luôn là yếu tố nội lực của văn hóa dân tộc, góp phần hun đúc lòng tự hào, tạo nên tinh thần đoàn kết, yêu nước thương nòi của người Việt Nam. Bằng chứng sinh động để khẳng định hệ tín ngưỡng thờ Hùng Vương là hơn 80 triệu con Lạc, cháu Hồng sinh sống trên dải đất hình chữ S đã lập hơn 1.400 di tích thờ các vua Hùng, rồi tổ chức lễ hội hàng năm để bày tỏ tấm lòng tri ân tiên tổ. Đền Hùng không phải là gốc của một tôn giáo, các Vua Hùng không phải là giáo chủ, người Việt thờ cúng Hùng Vương không có học thuyết và cũng không có giáo hội truyền bá, nhưng từ hàng ngàn đời nay, người Việt Nam vẫn hành hương về đền Hùng để tri ân quốc Tổ, những người đã có công dựng nước. Lòng biết ơn, thành kính Tổ tiên đã được cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng phát biểu trong ngày Giỗ Tổ Hùng Vương năm 1969: “Từ lòng biết ơn đến sự tôn kính các thế hệ tiền nhân và tổ tiên gia đình, dòng họ, dân tộc ta đã phát triển hình thức sinh hoạt văn hóa tinh thần ấy thành một đạo lý và tín ngưỡng dân tộc độc đáo, là tín ngưỡng và phụng thờ một Tổ tiên chung của toàn dân tộc - các Vua Hùng”. 18 2. Ý nghĩa của việc thờ cúng Vua Hùng. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã tồn tại và phát triển trong cuộc sống cộng đồng người Việt hàng ngàn năm nay. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương không chỉ thể hiện trong đời sống văn hóa tâm linh và đức tin của người Việt vào các vị thánh thần bảo hộ, mà còn trở thành đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” biết ơn những bậc tiền nhân có công dựng nước. Tín ngưỡng thờ Vua Hùng không bó hẹp với khu di tích đền Hùng (Phú Thọ). Cội rễ của tín ngưỡng là tục thờ cúng tổ tiên, vì người Việt coi dân tộc mình như một gia đình lớn, có cha mẹ (tháng Tám giỗ cha, tháng Ba giỗ mẹ), có ông tổ là các vua Hùng. Và vua Hùng - biểu tượng Quốc tổ - chính là sự chắt lọc, kết tinh và thăng hoa theo thời gian của tâm thức về nguồn cội, tâm thức gắn kết cộng đồng mà dân tộc ta luôn mang theo. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là một trường hợp rất độc đáo trong văn hóa thế giới. Việt Nam trong suốt lịch sử phát triển của mình đã lấy hình tượng Quốc tổ Hùng Vương làm “hạt nhân” trung tâm vừa để tạo sự gắn kết, vừa mang đậm màu sắc tín ngưỡng dân gian để làm chỗ dựa tâm linh cho cộng đồng. Đó là điều gần như chưa xuất hiện ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Lịch sử Việt Nam đã chứng minh rằng dù trong lúc đất nước thái bình hay trong những khi vận mệnh cam go nhất, Vua Hùng vẫn hiển diện như một nguồn lực vô tận xuyên suốt cả thời gian lẫn không gian đến với từng người dân Việt Nam, từng gia đình người Việt Nam ở bất cứ nơi đâu trong nước hay ngoài biên giới Tổ quốc, như một động lực tinh thần cổ vũ niềm tin và sức mạnh cho toàn dân tộc tiến lên phía trước, phát triển và hội nhập toàncầu. Với ý nghĩa to lớn như vậy, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý với đề xuất của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trình UNESCO hồ sơ “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ” để xem xét công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Đặc biệt, nhân dịp Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ Hội Đền Hùng năm 2011, tại Khu Di tích lịch sử đền Hùng đã diễn ra cuộc hội thảo quốc tế “Tín ngưỡng thờ Hùng Vương”. Đây là một bước quan trọng nhằm hoàn thiện Hồ sơ khoa học đề nghị tổ 19 chức UNESCO công nhận “Tín ngưỡng thờ Hùng Vương” là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. III. Ý nghĩa của việc thờ Thành Hoàng làng 1.Tên gọi, nguồn gốc thờ thành Hoàng Lạc. a. Tên gọi Thành hoàng xuất phát từ chữ Hán: Thành là cái thành, hoàng là cái hào bao quanh cái thành; và khi ghép chung lại thành một từ dùng để chỉ vị thần coi giữ, bảo trợ cho cái thành. Nhà văn Sơn Nam cho biết thêm: Ông thần ở đình làng gọi là thần Thành hoàng, cai quản khu vực trong khung thành. Thoạt tiên là thần ngự trị nơi thị tứ, sau áp dụng (cả) nơi thôn xóm, (vì) vẫn có điếm canh bố trí bao quanh... Cũng theo Sơn Nam, thần Thành hoàng, theo thông lệ, thờ thần đàn ông, vì khí Dương đem sức mạnh cho muôn loài, muôn vật. Và gọi ông Thần hoàng là sai nghĩa, vì cái tên này chỉ là thứ nghi lễ đốt tờ giấy vàng, tức bản sao sắc phong do nhà vua tặng cho cha mẹ, ông bà đã qua đời của quan chức cao cấp thời phong kiến; và tục này ở trong Nam Bộ không có. Bởi vậy, khi trích lại đoạn viết về tục "thờ thần" ở trong sách Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính, nhà văn Sơn Nam đã sửa từ "Thần hoàng" ra "Thành hoàng", cốt để người đọc không còn lầm lẫn giữa hai thứ. Tuy nhiên, xét trong sách Việt Nam phong tục, lễ Thần hoàng được xếp vào mục Phong tục trong gia tộc; còn việc thờ phụng Thần hoàng được xếp vào mục Phong tục hương đảng, thì rõ là tác giả sách đã chỉ ra đó là hai thứ khác nhau. Điểm đáng chú ý khác nữa, vì là vùng đất mới, nên ở Nam Bộ nhiều đình làng, thần chỉ có tên là Bổn cảnh Thành hoàng hay Thành hoàng Bổn cảnh. Theo sách Minh Mạng chính yếu, quyển thứ 12, năm Minh Mạng thứ 20 (1839), thì nhà vua đã chuẩn y lời tâu của Bộ Lễ xin hạ lệnh cho các địa phương lập thêm thần vị Bổn cảnh. Đây là chức vụ mới, lúc trước không phổ biến. Lê Phục Thiện, người dịch sách trên chú giải: Thành hoàng là vị thần coi một khu vực nào. Bổn cảnh là cõi đất nơi mình được thờ. Nhà văn Sơn Nam cho biết bởi đây là dạng viên chức được vua ủy quyền trừu 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan