Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tìm hiểu về văn hóa của các quốc gia đông nam á hải đảo...

Tài liệu Tìm hiểu về văn hóa của các quốc gia đông nam á hải đảo

.PDF
61
252
97

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC -----------o0o----------- LÊ THỊ THÙY LINH TÌM HIỂU VỀ VĂN HÓA CỦA CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á HẢI ĐẢO KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Sơn La, năm 2018 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC -----------o0o----------- LÊ THỊ THÙY LINH TÌM HIỂU VỀ VĂN HÓA CỦA CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á HẢI ĐẢO Nhóm ngành: Lịch sử Thế giới Cổ trung đại KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Ngƣời hƣớng dẫn: TS. Lƣờng Hoài Thanh Sơn La, năm 2018 LỜI CẢM ƠN Qua thời gian học tập và nghiên cứu, được sự giúp đỡ tận tình của Tiến sĩ Lường Hoài Thanh, đến nay khóa luận của em đã hoàn thành. Trước tiên em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất đến cô giáo Tiến sĩ Lường Hoài Thanh đã bỏ nhiều thời gian và công sức để hướng dẫn, giúp đỡ em rất nhiều về kiến thức cũng như kinh nghiệm và tư liệu trong suốt quá trình em thực hiện khóa luận. Em xin gửi lời cảm ơn đến tập thể thầy cô giáo trong khoa Sử - Địa, em xin gửi lời cảm ơn đến trung tâm thư viện Tỉnh Sơn La, trung tâm thư viện Trường Đại học Tây Bắc đã tạo điều kiện tốt nhất để em thực hiện khóa luận này. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong suốt quá trình thực hiện khóa luận, song có thể còn có những mặt hạn chế, thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp và sự chỉ dẫn của các thầy cô giáo và các bạn. Em xin chân thành cảm ơn! Sơn La, tháng 5 năm 2018 Tác giả khóa luận Lê Thị Thùy Linh MỤC LỤC MỞ ĐẦU ..........................................................................................................................1 1. Lý do chọn khóa luận ...................................................................................................1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................................1 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................3 4. Mục đích và phương pháp nghiên cứu .........................................................................3 5. Đóng góp của khóa luận ...............................................................................................3 6. Kết cấu của khóa luận ...................................................................................................4 CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á HẢI ĐẢO .......5 1.1. Điều kiện tự nhiên......................................................................................................5 1.2. Dân cư khu vực Đông Nam Á hải đảo ....................................................................10 1.3. Khái quát tiến trình lịch sử các quốc gia Đông Nam Á hải đảo .............................11 CHƢƠNG 2: NÉT ĐẶC TRƢNG VỀ VĂN HÓA CỦA KHU VỰC ĐÔNG NAM Á HẢI ĐẢO ...................................................................................................................20 2.1. Tôn giáo và tín ngưỡng ............................................................................................20 2.2. Văn học ....................................................................................................................40 2.3. Lễ hội truyền thống ..................................................................................................46 2.3.1. Philippines.............................................................................................................46 2.3.2. Malaysia ................................................................................................................49 2.3.3. Indonexia...............................................................................................................51 2.3.4. Brunei ....................................................................................................................54 KẾT LUẬN ....................................................................................................................56 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................57 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn khóa luận Nằm ở vị trí chiến lược, ngay tại ngã tư của các tuyến đường mậu dịch thế giới, khu vực Đông Nám Á đón nhận rất nhiều nguồn ảnh hưởng từ bên ngoài: Ấn Độ, Ả Rập, Trung Quốc, Châu Âu và cả phần còn lại của thế giới. Tất cả những ảnh hưởng này đươc hấp thụ và kế thừa trong nền văn hóa bản địa, rồi lại được thể hiện qua nền văn hóa, ngôn ngữ, kiến trúc … độc đáo nhưng lại có những mối quan hệ mật thiết với những nền văn hóa mà nó chịu ảnh hưởng. Với vị trí và tầm quan trọng của mình, các nước Đông Nam Á nói chung và các quốc gia Đông Nam Á hải đảo nói riêng đang dần khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế. Bên cạnh những đặc điểm chung vốn có của các quốc gia Đông Nam Á như địa hình, khí hậu gió mùa, ảnh hưởng của biển...các quốc gia Đông Nam Á hải đảo đã sáng tạo nên những nền văn hóa địa phương đa dạng, phong phú. Trên nền tảng của những tín ngưỡng, văn hóa dân gian bản địa và quá trình tiếp nhận lâu dài ảnh hưởng văn hóa từ Ấn Độ, Trung Hoa, thế giới Ảrập và châu Âu đã làm gia tăng tính đa dạng về văn hóa và tôn giáo khu vực này. Trong suốt tiến trình lịch sử, khu vực Đông Nam Á hải đảo đã để lại những dấu ấn không nhỏ đối với lịch sử khu vực và châu lục do vị trí chiến lược, là con đường thông thương Đông – Tây quan trọng trong suốt lịch sử cổ - trung đại. Dấu ấn văn hóa của khu vực này cũng có những đặc trưng riêng biệt, đặc biệt là sự xuất hiện và chi phối của Hồi giáo và văn hóa Hồi giáo bên cnahj những yếu tố văn hóa và tín ngưỡng bản địa. Vì thế, chúng tôi đã lựa chọn vấn đề “tìm hiểu về văn hóa của các quốc gia Đông Nam Á hải đảo” làm khóa luận tốt nghiệp 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Với vị trí và tầm quan trọng của mình trong lịch sử, Đông Nam Á đã từ lâu thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả trong và ngoài nước, nhiều nhà khoa học khác nhau, các viện nghiên cứu: Viện Quan Hệ Quốc Tế, Viện nghiên cứu Đông Nam Á thược trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia và một số cơ quan khác… đã có những công trình nghiên cứu về Đông Nam Á được xuất bản. Công trình “Lược sử Đông Nam Á” do Phan Ngọc Liên chủ biên, Nxb Giáo Dục, 1997. Tác phẩm đã khái quát về tiến trình lịch sử Đông Nam Á từ khi hình thành 1 cho đến những năm 90 của thế kỉ XX, trong đó, lịch sử và quá trình phát triển của các quốc gia Đông Nam Á được trình bày trong chương II, III và bốn đã mang lại cho độc giả cái nhìn tổng thể về tiến trình lịch sử Đông Nam Á với một số quốc gia tiêu biểu. Tác phẩm “Lịch sử Đông Nam Á” do Lương Ninh chủ biên, Nxb Giáo Dục, 2005. Công trình là một tập hợp những nghiên cứu về lịch sử Đông Nam Á từ khi con người xuất hiện cho đến đầu thế kỉ XX. Mặc dù vậy, tác phẩm chủ yếu dừng lại ở việc tìm hiểu và nghiên cứu về tiến trình lịch sử của các quốc gia Đông Nam Á, vai trò của tổ chức ASEAN...nhưng phần văn hóa của các nước, nhất là của các quốc gia Đông Nam Á hải đảo hầu như không được nhắc tới, nếu có chỉ mang tính chất sơ lược gắn liền với lịch sử các quốc gia mà chưa được nghiên cứu một cách hệ thống. Cuốn “Lịch sử phát triển Đông Nam Á” tác giả Mary Somers Heidhues, Nxb Văn hóa thông tin” cũng đi vào trình bày khía quát các quốc gia Đông Nam Á nói chung trong tiến trình lịch sử mà phần văn hóa hầu như không được nhắc tới. Công trình Mấy tín ngưỡng tôn giáo Đông Nam Á doTrương Sỹ Hùng chủ biên, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2003. Công trình là một đóng gópl ớn của các nhà nghiên cứu khi tìm hiểu về đời sống văn hóa của cư dân ĐÔng Nam Á. Tuy nhiên, tác phẩm mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu và tìm hiểu và tôn giáo và tín ngưỡng chứ chưa đi vào khai thác các yếu tố văn hóa khác như văn học, chữ viết, lễ hội truyền thống...của cư dân Đông Nam Á, nhất là cư dân Đông Nam Á hải đảo... Tác phẩm “Tìm hiểu văn hóa Đông Nam Á hải đảo” của Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Nxb , năm của các tác giả thuộc Viện nghiên cứu Đông Nam Á đã cho ta cái nhìn khái quát về một số đặc trưng riêng của văn hóa Đông Nam Á hải đảo. Nhìn chung các công trình ấy, các bài viết ấy đã phần nào cho ta thấy được biểu hiện, các đặc trưng về con người, điều kiện tự nhiên và một nền văn hóa vô cùng đặc sắc của các nước Đông Nam Á, trong đó có các quốc gia Đông Nam Á hải đảo. Đây làcơ sở, nền tảng vững chắc nhất để chúng tôi có một cái nhìn khái quát hơn về khu vực Đông Nam Á hải đảo cũng như hiểu được phân fnaof những đặc trưng của khu vực này. Tuy nhiên, những nghiên cứu trên chỉ nghiên cứu trên từng mặt, từng lĩnh vực hoặc mang tính khái quát chứ chưa đi vào nghiên cứu một cách có hệ thống những nét đặc trưng về văn hóa của toàn bộ các quốc gia hải đảo. Vì thế, chúng tôi mạnh dạn lựa 2 chọn vấn đề “” để góp phần đưa ra cái nhìn toàn cảnh hơn, cụ thể hơn về những đặc trưng văn hóa của khu vực Đông Nam Á hải đảo. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là văn hóa của một số quốc gia Đông Nam Á hải đảo như Indonexia, Malaixia, Philippin... 3.2. Phạm vi nghiên cứu. Giới hạn nghiên cứu của khóa luận chỉ dừng lại ở các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á hải đảo. 4. Mục đích và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu - Khái quát những nét sơ lược về điều kiện tự nhiên, quá trình hình thành, lịch sử của các quốc gia Đông Nam Á hải đảo. - Tìm hiểu những đặc trưng về văn hóa của các quốc gia Đông Nam Á hải đảo như tôn giáo, tín ngưỡng; văn học, chữ viết, lễ hội truyền thống.. - Chỉ ra được những yếu tố văn hóa Ấn Độ, Hồi giáo đối với khu vực Đông Nam Á hải đảo. - Rút ra một số đặc điểm về văn hóa của khu vực Đông Nam Á để thấy được yếu tố “thống nhất trong đa dạng” là đặc trưng vốn có của văn hóa Đông Nam Á nói chung và của khu vực hải đảo nói riêng. 4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu Khóa luận chủ yếu sử dụng các phương pháp của khoa học lịch sử như phương pháp lịch sử, phương pháp logic. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng kết hợp các phương pháp bổ trợ như so sánh, đối chiếu, sưu tầm tư liệu... 5. Đóng góp của khóa luận - Khái quát được những đặc trưng về văn hóa của các quốc gia Đông Nam Á hải đảo. - Là tài liệu nghiên cứu, tìm hiểu về văn hóa khu vực Đông Nam Á khi học các học phần Lịch sử Đông Nam Á cổ - trung đại. 3 6. Kết cấu của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, khóa luận được kết cấu làm hai chương: Chương I: Khái quát về khu vực Đông Nam á hải đảo. 1.1. Điều kiện tự nhiên. 1.2. Dân cư khu vực Đông Nam Á hải đảo. 1.3. Khái quát tiến trình lịch sử Đông Nam Á hải đảo. Chương II: Nét đặc trưng về văn hóa của khu vực Đông Nam Á hải đảo. 2.1. Tôn giáo và tín ngưỡng. 2.2. Văn học. 2.3. Lễ hội truyền thống. 4 CHƢƠNG I KHÁI QUÁT VỀ CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á HẢI ĐẢO 1.1. Điều kiện tự nhiên Đông Nam Á vốn là một chỉnh thể riêng biệt, khác với các khu vực còn lại của châu Á. Tuy nhiên, trước đây, người ta thường hiểu tầm quan trọng lịch sử của Đông Nam Á chủ yếu ở vị trí địa lý của nó. Khu vực này được coi là hành lang, cầu nối giữa phương Đông (Trung Quốc, Nhật Bản…) và phương Tây (Ấn Độ, Tây Á, Địa Trung Hải). Đông Nam Á là một khu vực rộng, trải ra trên một phần Trái Đất, từ khoảng 92 0 kinh độ Đông đến 1400 kinh độ Đông, và từ khoảng 280 vĩ độ Bắc, chạy qua xích đạo đến 150 vĩ độ Nam, rất không thuần nhất về những điều kiện tự nhiên. Lẽ thường, có thể bị khô cằn, thậm chí trở thành sa mạc; hoặc ngược lại, những vùng nằm trên hay gần xích đạo sẽ bị nóng quanh năm và có mưa tầm tã thường xuyên vào chiều tối 1. Nhưng những điều kiện riêng của tự nhiên lại tạo nên và đem tới cho Đông Nam Á những ảnh hưởng chủ yếu của gió mùa. Gió mùa đã điều hòa bớt những điều kiện thông thường, giảm bớt sự gay gắt về khí hậu đáng lẽ phải có và tạo nên đại thể hai mùa, mùa khô tương đối lạnh mát và mùa mưa tương đối nóng. Vì thế, tìm hiểu về Đông Nam Á phải đặt nó trong bối cảnh riêng của khu vực để có được cái nhìn toàn cảnh và có được những đánh giá, nhìn nhận chính xác, khoa học. Ngày nay, thông qua những đóng góp to lớn của các nhà khảo cổ học, các phát hiện khảo cổ học và các nghiên cứu chuyên ngành, đa ngành đã cho phép các nhà nghiên cứu có những nhận thức chính xác hơn về tính khu vực của Đông Nam Á, nhìn nhận nó với tư cách là một chỉnh thể hoàn chỉnh, một khu vực địa lí - lịch sử - văn hóa.Do đó, người ta không gọi vùng này là khu vực Đông Nam Á mà dùng nhiều từ khác để gọi như: Nam Dương (các nước ở vùng biển phía Nam – Trung Quốc); Nam Yo (Nhật Bản); Suvarna bhumi (Đất vàng); Suvarna dvipa (Đảo vàng) (Ấn Độ)… Khi chủ nghĩa thực dân phương Tây xâm lược khu vực này thì khái niệm Đông Nam Á được đưa ra nhưng tới cuối thế kỷ XIX thì Đông Nam Á vẫn chưa được nhìn nhận rõ rệt và đầy đủ là một khu vực địa lý - chính trị - lịch sử - văn hóa riêng biệt.Đến đại chiến thế giới II khái niệm “khu vực Đông Nam Á” chính thức đi vào văn kiện quốc tế với sự kiện thực dân Anh lập ra “Bộ chỉ huy quân sự khu vực Đông Nam 1 Lương Ninh (cb) (2005), Lịch sử Đông Nam Á, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.10 5 Á”.Xét về tổng thể, Đông Nam Á về mặt địa lý tự nhiên rộng hơn rất nhiều so với Đông Nam Á về địa lý hành chính. Phía Bắc bao gồm cả vùng đất phía Nam Tây Giang của Trung Quốc và một phần cực nam Nhật Bản.Phía Tây gồm cả Đông Bắc Ấn Độ và 11 nước Đông Nam Á hiện nay. Có sự phân biệt như vậy là vì: Toàn bộ khu vực này đều có điểm giống nhau cơ bản về điều kiện tự nhiên đó là đều chịu ảnh hưởng của gió mùa.Về văn hóa vật chất đều là nông nghiệp trồng lúa nước. Do đó, Đông Nam Á về mặt địa lý tự nhiên còn được gọi là “khu vực Châu Á gió mùa”. Về mặt văn hóa vật chất còn được gọi là “khu vực văn hóa lúa nước”. Đây chính là khu vực trồng lúa nước từ thưở xa xưa, bao gồm miền Nam Trường Giang (Trung Quốc), miền Nam Nhật Bản, miền Đông Ấn Độ và các nước Đông Nam Á ngày nay. Nhưng quá trình phát triển cùng với sự can thiệp của con người làm cho bản đồ của các nước Đông Nam Á không bao gồm toàn bộ “Châu Á gió mùa” mà chỉ có phần chủ yếu và tiêu biểu của “Châu Á gió mùa”. Một phần khác đã gắn với lãnh thổ và do đó với những nền văn hóa Nam Á và Đông Á. 2 Về địa lý hành chính: Đông Nam Á hiện nay gồm 11 nước nằm trên bán đảo Trung Ấn và quần đảo Mã Lai. Diện tích khỏang 4,5 triệu km2 trải dài từ 28 độ Bắc đến 11 độ Nam; 95 độ Đông đến 141 độ Đông: Bán đảo Trung Ấn còn được gọi là Đông Nam Á lục địa gồm hai bán đảo: Bán đảo Đông Dương và bán đảo Malacca; Quần đảo Mã Lai (quần đảo Nam Dương) còn gọi là Đông Nam Á hải đảo có khoảng hơn 20.000 hòn đảo lớn nhỏ, diện tích khoảng 2 triệu km2 riêng Inđônêsia có 17.504 hòn đảo (13.677) trong đó có 7000 đảo có tên. Quần đảo có 5 hòn đảo lớn: Kali Mantan: 734.000 km2 (Boocnêô); Sumatra: 1219.000 km2; Giava: 126.000 km2; Ludông: 175.000 km2; Minđanao: 95.000 km2. Đông Nam Á là một khu vực có vị trí địa lý độc đáo.Nằm gần như hoàn toàn trong vành đai nóng của địa cầu do đó phần lớn lãnh thổ Đông Nam Á quanh năm nóng, trừ miền Bắc Đông Nam Á lục địa (Việt Nam, Lào). Nằm trên bán đảo và hàng vạn đảo, biển, đất liền xen kẽ làm cho điều kiện tự nhiên và cuộc sống của con người chịu ảnh hưởng của biển rất mạnh. Đông Nam Á nằm ở vị trí bản lề giữa một bên là khối lục địa Á - Ấn rộng lớn còn một bên là Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Đông Nam Á chính là cầu nối giữa lục địa Á - Âu với Châu Úc và là phần ngăn cách Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương. Với vị trí địa lý này Đông Nam Á nằm giữa các đơn 2 Lương Ninh (cb) (2005), Lịch sử Đông Nam Á, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.11 6 vị địa lý tự nhiên đối lập nhau: Lục địa với đại dương; Lục địa bán cầu bắc với lục địa bán cầu nam; Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương. Vì nằm giữa nên nó là nơi diễn ra các quá trình địa lý tự nhiên rất phức tạp, nhờ đó mà hình thành nên một thiên nhiên phong phú, đa dạng bậc nhất của địa cầu. Về địa hình, toàn khu vực bị chia cắt, đan xen sông, suối, ruộng, núi. Địa hình bị chia cắt là đặc điểm quan trọng của điều kiện tự nhiên Đông Nam Á, đó là sự chia cắt lớn giữa lục địa và hải đảo. Sự chia cắt và đan xen về địa hình ở Đông Nam Á đã tạo ra những cảnh quan sinh động, những vùng sinh thái nhỏ, những địa bàn sinh tụ nhỏ rất phù hợp với những bước đi ban đầu của con người khi mà dân cư còn ít, nhu cầu cuộc sống còn thấp, quan hệ với cuộc sống bên ngoài còn rất hạn chế. Khí hậu Đông Nam Á là khí hậu nhiệt đới nóng, ẩm, mưa nhiều và chịu ảnh hưởng rất sâu sắc của gió mùa. Gió mùa có tác động rất lớn đến cảnh quan tự nhiên và lịch sử - văn hóa Đông Nam Á (gió mùa Đông Nam từ Nam bán cầu vào Đông Nam Á thành gió Tây Nam). Riêng khu vực Đông Nam Á hải đảo, hhí hậu chủ yếu khí hậu xích đạo. Thường xuyên có bão nhiệt đới tàn phá nặng nề, trong đó, Singgapore có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm gió mùa; Inđônêsia có khí hậu nhiệt đới gió mùa; Philippin là khí hậu nhiệt đới gió mùa; Malaysia và Brunei là khí hậu xích đạo còn Đông Timor là khí hậu nhiệt đới. Gió mùa và biển đã làm dịu đi tính khắt khe lẽ ra phải có của khí hậu vùng xích đạo và cận xích đạo, tạo điều kiện thuận lợi cho đời sống con người vì gió mùa đã tạo ra những cơn mưa nhiệt đới với lượng mưa tương đối lớn, ổn định theo mùa, do đó cung cấp đủ nước cho con người sinh sống, làm nông nghiệp, thảm thực vật phong phú. Mưa nhiệt đới và khí hậu nóng ẩm đã tạo nên trên toàn Đông Nam Á những cánh rừng rậm rạp với những loài động thực vật đặc trưng: lúa nước, hồ tiêu, hồi quế, sa nhân, trầm hương…động vật: voi, hổ, báo, khỉ, vượn, đười ươi….Vì thế, Đông Nam Á làm thành một khu vực dân tộc học thực vật và dân tộc học động vật phong phú vào loại bậc nhất trên thế giới. Toàn khu vực đều có mạng lưới sông, suối dày đặc. Vùng quần đảo sông ngắn, lưu vực nhỏ, nhiều thác ghềnh nhưng nước đầy quanh năm do lượng mưa quanh năm lớn.Các nước nằm trong khu vực Đông Nam Á đều có biển (trừ Lào) bao bọc. Biển chia cắt Đông Nam Á thành hai phần: lục địa và hải đảo; chia cắt đảo thành vạn đảo và là cầu nối lục địa với hải đảo. Nhờ biển bao bọc mà Đông Nam Á có độ ẩm và lượng 7 mưa cao vào loại bậc nhất thế giới.Biển là môi trường sống truyền thống của người Đông Nam Á với nguồn thủy hải sản đặc biệt phong phú đồng thời là ngã tư giao thông của Đông Nam Á với bên ngoài: buôn bán trên biển là một nghề xuất hiện sớm, có vai trò quan trọng đối với đời sống kinh tế Đông Nam Á. Chính vì có vị trí như trên nên Đông Nam Á trở thành một trong những khu vực chiến lược có tầm quan trọng hàng đầu của thế giới. Đây là một khu vực rất rộng lớn (ngang tầm một tiểu lục địa) nằm chắn ngang tất cả các con đường hàng hải từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương (Tây sang Đông và ngược lại) từ châu Á xuống châu Úc (Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Tạng, Nga xuống Úc cũng phải qua).Phần lớn hàng hóa trao đổi giữa phương Tây và Phương Đông đều phải đi qua Đông Nam Á và eo Malacca là con đường huyết mạch (eo Malacca dài 960km). Ngày nay, mỗi năm có khoảng 50.000 tàu lớn nhỏ chuyên chở khoảng1/2 lượng dầu mỏ, khoảng 1/3 trong số hàng hóa trao đổi trên thế giới đi qua Malacca. Bờ biển Đông Nam Á có nhiều hải cảng thuận lợi cho phát triển buôn bán trên biển từ thời cổ đại. Những thương cảng lớn như Óc Eo, Surabaya (Giava), Palembang, Sumatra, Giacacta, Hội An, Singapore, quan trọng nhất là Malacca (Melaka). Đông Nam Á hải đảo là một vùng địa lý thuộc Đông Nam Á, gồm có 6 quốc gia là: Malaysia, Brunei, Singapore, Indonesia, Philippines và Đông Timor.Các nước này tạo nên khu vực gọi là quần đảo Mã Lai với tổng diện tích là: 2.271.574,7 km2. Tổng số đảo của các nước thuộc vùng Đông Nam Á hải đảo là hơn 20.000 các hòn đảo lớn nhỏ. Trong đó, Inđônêsia là quốc gia có nhiều đảo nhất, con số lên đến 17.500 hòn đảo.Quần đảo này được hình thành bởi nhiều cung đảo thuộc về vành đai núi lửa Thái Bình Dương và là một trong những khu vực có hoạt động núi lửa mạnh nhất trên thế giới. Do đó, đây cũng là khu vực thường xuyên phải hứng chịu những hoạt động mạnh mẽ của thiên tai, bão lụt, động đất, núi lửa, sóng thần, hạn hán, cháy rừng… ảnh hưởng lớn đến kinh tế nông nghiệp và cuộc sống của con người.Địa hình của khu vực Đông Nam Á hải đảo là hệ thống núi hướng vòng cung Đông và Tây, Đông Bắc – Tây Nam, núi lửa. Có núi và đồng bằng nhỏ hẹp ven biển, ít đồng bằng lớn nên không tạo ra những vựa lúa lớn như tại khu vực Đông Nam Á lục địa. Khác với khu vực lục địa, nguồn tài nguyên chủ yếu của khu vực Đông Nam Á hải đảo là những cánh rừng nhiệt đới và các loại khoáng sản như: dầu mỏ, khí đốt, đồng… 8 Điều kiện tự nhiên của Đông Nam Á nói chung và ĐÔng Nam Á hải đảo nói riêng đã tạo ra cho khu vực ĐÔng Nam Á sự phong phú và đa dạng, vừa có điểm tương đồng, vừa có điểm khác biệt giống như trong câu nói của người Indonesia “thống nhất trong đa dạng”3. Đây cũng chính là đặc điểm riêng của Đông Nam Á để phân biệt với các khu vực còn lại của châu Á như ĐÔng Bắc Á, Đông Á, Nam Á… Khái quát về các quốc gia Đông Nam Á hải đảo: Philippines: lấy tên từ vua Phillip II của Tây Ban Nha. Philippine là thuộc địa của Tây Ban Nha từ năm 1521 đến 1898 khi chuyển sang là thuộc địa của Mỹ cho đến năm 1946. Thủ đô là Manila. Dân số gồm nhiều nhóm dân tộc, trong đó hầu hết đều liên quan đến người Malay. Philippine là quốc gia duy nhất ở Đông Nam Á theo Công giáo do chính sách thuộc địa từ thời kì cai trị của Tây Ban Nha. Malaysia: thủ đô Kuala Lampur, dân số , trong đó có 60% là người Malay, 25% là người Hoa còn lại là các dân tộc thiểu số gốc Nam Á và các nhóm người bản địa Bócnêô. Malaysia có một phần phía tây, trên bán đảo Malay và một phần phía đông, ở phía bắc đảo Borneo. Bán đảo Malay là thuộc địa của Anh, độc lập năm 1957 và trở thành liên bang Malaysia. Sau đó, năm 1963, các thuộc địa của Anh như Sarawak và Sabah (trên đảo Borneo) và Singapore nhập vào Malaya, trở thành Malaysia. Năm 1965, Singapore tách khỏi Malaysia, trở thành quốc gia độc lập. Singapore: thủ đô Singapore, là một nước cộng hòa thành lập năm 1965. Là một thị quốc với dân số trên. Trên 75% dân số là người Hoa, số dân còn lại đa số là người Malay hoặc Nam Á. Brunei Darussalam: một quốc gia hồi giáo, quốc vương đã dùng tên của dòng họ để đặt tên cho đất nước thuộc đảo Borneo, dân số chỉ trên 300.000. Phần lớn cư dân là người Malay, 20% thiểu số là người Hoa. Đây là xứ bảo hộ của Anh cho đến năm 1984. Thủ đô Bandar Seri Begawan. Indonesia: tuyên bố độc lập năm 1945 nhưng bốn năm sau Hà Lan mới công nhận chủ quyền của đất nước này, bao gồm các phần lãnh thổ của thuộc địa Đông Ấn Hà Lan trước đây. Thủ đô là Jakarta (Batavia thời thuộ địa). Là quốc gia lớn nhất Đông Nam Á và là một trong số những quốc gia lớn trên thế giới, dân số khoảng trên 200 triệu người, trong khi các đảo trải rộng trên một khu vực có thể so sánh với cả châu Âu hoặc Mỹ. Indonesia thuộc nhiều nhóm dân tộc, nhóm đông nhất là người 3 Tên gọi bắt nguồn từ từ “Bhineka Tungal Ika” trên quốc huy của Inđônêxia do chim thần Garuda mang theo dưới chân, Văn hóa Đông Nam Á hải đảo, Nxb Văn hóa, tr. 9 Java, Sadan, Bali, Madura, Minangkabaus và Bugis, không có nhóm nào chiếm hơn một nửa dân số. Ngôn ngữ đều liên quan đến tiếng Malay và ngôn ngữ dân tộc Indonesia gọi là Bahasa Indonesia. Đông Timor (Timor Lester): nguyên là thuộc địa của Bồ Đào Nha, thủ đô là Dili, bị sáp nhập vào Indonesia năm 1975 nhưng sự sáp nhập này không được Liên minh châu Âu hoặc Liên Hiệp Quốc công nhận. Trong một cuộc trưng cầu dân ý tổ chức vào tháng 7 năm 1999, 800.000 cư dân đã bỏ phiếu đòi độc lập và Đông Timor trở thành quốc gia thứ 11 tại Đông Nam Á. 1.2. Dân cƣ khu vực Đông Nam Á hải đảo Đông Nam Á là cầu nối về địa bàn phân bổ của hai đại chủng tộc Môngôlôit và Ôxtralôit. Do đó, về nguồn gốc, tuyệt đại bộ phận của dân Đông Nam Á là kết quả của sự pha trộn giữa hai đại chủng tộc này. Sự pha trộn giữa hai đại chủng tộc này dần dần đã tạo ra một tiểu chủng mang trong mình những yếu tố của cả hai đại chủng tộc đó thường gọi là Môngôlôit phương Nam (hay: tiểu chủng Đông Nam Á).Tiểu chủng này lại chia thành hai nhóm loại hình nhân chủng: Nam Á (Austro-asiatique) -vàng đậm hơn đen: da sáng, cao; Anhđônêdiêng (Indonesien)4 - đen dậm hơn vàng; tóc xoăn, tẹt. Đa số cư dân Đông Nam Á hải đảo thuộc nhóm loại hình nhân chủng Anhđônêdiêng. Trên cơ sở nghiên cứu cốt sọ của người Anhđônêdiêng thời cổ, giáo sư Hà Văn Tấn đã kết luận: “Những xương sọ thời đại nguyên thủy phát hiện trên đất Việt Nam mà các học giả Pháp coi là thuộc giống Anhđônêdiêng chính là thuộc chủng tộc Mông ô lô it phương Nam, hình thành do sự hỗn chủng giữa đại chủng Mông gô lô it và đại chủng Ôxtra lô – Nê grôit”5 Nhóm này bao gồm những tộc ít người sinh sống chủ yếu ở các miền rừng núi trong lục địa và sâu giữa các đảo như người Bru – Vân Kiều, người Tà ôi, người Melanesia, ngườiJava, NgườiSunda, Malay, Madur, VisayasTagalog, Ilocos, Bicol Moro, Kapampangan,Igoro… Về ngôn ngữ: Trong quá trình phát triển lịch sử, từ mỗi nhóm loại hình nhân chủng nói trên và sự pha trộn giữa các nhóm này lại hình thành nên những tộc người khác nhau mỗi một tộc người có một ngôn ngữ riêng.Cư dân ĐÔng Nam Á hải đảo thuộc ngữ hệ Nam Đảo (Mã Lai đa đảo) bao gồm đa số người Inđô, Philippin, 4 Còn được gọi theo cách khác là Nguyên Mã Lai (Proto Malais) hay Thượng. Hà Văn Tấn, Về vấn đề người In đô nê diêng và loại hình In đô nê diêng trong thời đại nguyên thủy Việt Nam. Thông báo Sử học, T1, Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1963, tr198. 5 10 Malaixia và một số tộc người ở lục địa như Chăm, Êđê, Gialai. Bên cạnh đó còn có ngữ hệ Hán - Tạng gồm Hán, Tạng Miến6 do quá trình di cư của người Hoa trong các thế kỉ sau này tới các nước Đông Nam Á hải đảo. 1.3. Khái quát tiến trình lịch sử các quốc gia Đông Nam Á hải đảo Ở Đông Nam Á, người ta đã phát hiện được dấu vết hóa thạch của người vượn bậc cao ở Băng Đung (Pondaung - Inđônêxia) niên đại 40 triệu năm và vượn khổng lồ Meganthropus Paleojavanicus ở Java (Inđônêxia) niên đại 5 triệu năm. Quá trình Sapiens hóa đã diễn ra đặc biệt phong phú ở Đông Nam Á. Từ sau phát hiện của E. ĐuyBoa (Eugéne Dubois) ở Java trong những năm 1891 đến năm 1986, người ta đã tìm thấy khoảng 21 mảnh sọ, 5 hàm dưới và 3 hàm trên hóa thạch của dạng người Pithecanthropus erectus. Xưa nhất trong số đó là người Pitecantrop IV (Homo Modjokertensis) có niên đại 2 triệu năm đến Pithecanthropus muộn hơn, niên đại 500.000 - 900.000 năm trước. Người ta còn tìm thấy di cốt, mảnh di cốt và những công cụ đồ đá của người tối cổ của nhiều nước khác trong khu vực hải đảo như Tampan (Malaixia), Cabaloan (Philippin) có niên đại 67.000 năm trước Cn, Patgitan (Inđônêxia),... Vào thời đại trung kỳ đá cũ, xuất hiện người Homo Sapiens trên bờ sông Sôlô (Inđônêxia)... thuộc giai đoạn tiền Sapiens. Sự xuất hiện người HomoSapiens gắn liền với sự hình thành các chủng tộc. Người ta cũng đã phát hiện xương sọ của một thiếu niên 15-17 tuổi ở Nia (Borneo), niên đại 396.000 năm và một chỏm sọ ở Tabon (Philippin) cùng niên đại, chứng tỏ quá trình chuyển biến từ vượn thành người ở Đông Nam Á diễn ra liên tục và trực tiếp. Bên cạnh đó, dấu vết hóa thạch của người Homo Sapiens còn được tìm thấy ở nhiều nơi như ở Sungmas (Sumatra), Maros và Puso (Xulavexi), ... Đông Nam Á là một trong những cái nôi hình thành người hiện đại (Homo Sapiêns). Tại hang Tabon (Philippin), đã phát hiện xương hóa thạch của một người Homosapiêns có niên đại cách nay 30.500 năm. Tại Nial (Calimantan, thuộc Malaixia) phát hiện xương sọ của người Homosapiêns có niên đại cách nay gần 40.000 năm (39.600 + 1000) Đây là một trong những niên đại Homorapiêns sớm nhất được phát hiện. Đến nay, người ta còn nghi ngờ Đông Nam Á có phải là cái nôi của người vượn (tối cổ) 6 Lê Sĩ Giáo (cb) (2001), Dân tộc học đại cương, NXB Giáo Dục, Hà Nội, tr101. 11 không? Hay là người Vượn từ nơi khác di cư đến nhưng quá trình chuyển biến từ người Vượn sang người hiện đại ở Đông Nam Á diễn ra rất phong phú. Do đó, có thể kết luận rằng: Đông Nam Á là một trong những cái nôi hình thành người hiện đại. Sau giai đoạn Sapiêns hóa, cư dân tại Đông Nam Á hải đảo chủ yếu sinh sống theo các thị tộc, bộ lạc biệt lập, hạn chế giao lưu với bên ngoài cho đế khi có sự giao lưu, tiếp xúc với cư dân Ấn Độ trong những thế kỉ tiếp giáp công nguyên. Trong số các quốc gia hải đảo, Inđônêxia là một trong những khu vực có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế, xã hội, sớm hình thành những tiểu quốc so với các khu vực còn lại. Cư dân Nam Đảo, là cộng đồng dân cư đa số hiện tại, đã di cư tới Đông Nam Á từ khoảng năm 2000 trước Công Nguyên, và đẩy người Melanesia bản xứ về các vùng xa xôi phía đông khi họ mở rộng lãnh thổ. Các điều kiện nông nghiệp lý tưởng, và nền văn minh lúa nước xuất hiện sớm từ thế kỷ thứ VIII trước Công Nguyên, cho phép các làng mạc, thị trấn và các vương quốc nhỏ dần phát triển từ thế kỷ thứ nhất. Vị trí đường biển chiến lược của Indonesia giúp thương mại nội địa và với nước ngoài phát triển. Ví dụ, các con đường thương mại nối với cả các vương quốc Ấn Độ và Trung Quốc đã được thiết lập từ nhiều thế kỷ trước Công Nguyên.Chính thương mại đã hình thành nên lịch sử Indonesia. Từ thế kỷ thứ bảy, vương quốc hàng hải Srivijaya hùng mạnh phát triển nhờ thương mại và các ảnh hưởng của Hindu giáo cùng Phật giáo được du nhập vào cùng thương mại.Từ thế kỷ thứ VIII tới thế kỷ thứ X, các triều đại nông nghiệp Phật giáo Sailendra và Hindu giáo Medang phát triển và suy tàn trong vùng nội địa Java, để lại các công trình tôn giáo lớn như Borobudur của Sailendra và Prambanan của Medang. Vương quốc Hindu Majapahit được thành lập ở phía đông Java hồi cuối thế kỷ XIII, và ở thời Gajah Mada, ảnh hưởng của nó đã lan rộng tới hầu hết Indonesia; giai đoạn này thường được coi là một "Thời kỳ Huy hoàng" trong lịch sử Indonesia. Dù các thương gia Hồi giáo đã lần đầu đi qua Đông Nam Á từ đầu thời kỳ Hồi giáo, bằng chứng sớm nhất về cộng đồng dân cư Hồi giáo tại Indonesia có niên đại từ thế kỷ XIII ở phía bắc Sumatra. Các vùng khác của Indonesia dần chấp nhận Hồi giáo, và nó đã là tôn giáo ưu thế tại Java và Sumatra từ cuối thế kỷ XVI. Ở hầu hết các nơi, Hồi giáo vượt lên và pha trộn với các ảnh hưởng văn hóa và tôn giáo bản địa, hình thành nên hình thức Hồi giáo hiện tại ở Indonesia, đặc biệt tại Java.[20]Những người châu Âu đầu tiên tới Indonesia năm 1512, khi các thương gia Bồ Đào Nha, 12 do Francisco Serrão dẫn đầu tìm cách thâu tóm các nguồn tài nguyên nhục đậu khấu, đinh hương, và hạt tiêu tại Maluku. Các thương gia Hà Lan và Anh nhanh chóng theo chân. Năm 1602, Hà Lan thành lập Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC) và trở thành một quyền lực lớn của châu Âu. Sau khi bị phá sản, Công ty Đông Ấn Hà Lan chính thức bị giải tán năm 1800, và chính phủ Hà Lan thành lập Đông Ấn Hà Lan như một thuộc địa được quốc hữu hóa. Trong hầu hết thời gian của thời kỳ thuộc địa, Hà Lan chỉ kiểm soát vùng đất này một cách lỏng lẻo; chỉ tới đầu thế kỷ XX Hà Lan mới thực sự kiểm soát toàn bộ vùng đất lãnh thổ Indonesia hiện tại.Cuộc xâm lược và chiếm đóng của Nhật Bản sau đó trong Chiến tranh thế giới thứ hai đã chấm dứt thời kỳ cai trị của Hà Lan, và khuyến khích phong trào độc lập từng bị đàn áp trước đó ở Indonesia. Hai ngày sau khi Nhật Bản đầu hàng tháng 8 năm 1945, Sukarno, một lãnh đạo ảnh hưởng theo chủ nghĩa quốc gia, tuyên bố độc lập và được chỉ định làm tổng thống. [25] Người Hà Lan đã tìm cách tái lập quyền cai trị, và cuộc tranh giành ngoại giao và vũ trang đã chấm dứt vào tháng 12 năm 1949, khi đối mặt với sức ép quốc tế, Hà Lan chính thức công nhận nền độc lập của Indonesia. Tại Philippin, mặc dù một số xã hội trên các hòn đảo rải rác vẫn biệt lập, song nhiều xã hội khác phát triển thành các quốc gia và phát triển hoạt động mậu dịch đáng kể với các dân tộc khác ở Đông và Đông Nam Á. Thiên niên kỉ thứ nhất Công nguyên chứng kiến sự nổi lên của các tiểu quốc hải cảng và phát triển thành các quốc gia hàng hải, bao gồm các barangay tự trị, hoặc liên minh với nhau, các quốc gia lớn nằm dưới hải quyền của người Mã Lai do các Datu trị vì, các quốc gia triều cống cho Trung Quốc do Vương cai trị, các vương quốc Ấn hóa do các Rajah cai trị. Có thể kể đến Liên bang Madja-as, Vương quốc Butuan, quốc gia này nổi lên trong triều đại của Rajah Sri Bata Shaja,Vương quốc Tondovà Vương quốc Cebu… Những năm 1300 báo trước sự xuất hiện và cuối cùng là truyền bá Hồi giáo tại quần đảo Philippines. Năm 1380, Karim ul' Makdum và Shari'ful Hashem Syed Abu Bakr đi từ Malacca đến Sulu và lập nên Vương quốc Hồi giáo Sulu. Đến cuối thế kỷ XV, Shariff Mohammed Kabungsuwan của Johor đưa Hồi giáo đến đảo Mindanao. Sau đó, ông ta kết hôn với Paramisuli, một công chúa người Iranun, và lập nên Vương quốc Hồi giáo Maguindanao. Các vương quốc Hồi giáo mở rộng đến Lanao.[32] Cuối cùng, Hồi giáo vượt khỏi phạm vi của đảo Mindanao và lan đến phía nam đảo Luzon. 13 Thậm chí Manila cũng bị Hồi giáo hóa trong thời gian trị vì của Sultan Bolkiah từ năm 1485 đến năm 1521, khi đó Vương quốc Hồi giáo Brunei chinh phục Vương quốc Tondo bằng cách cải đạo Rajah Salalila sang Hồi giáo. Tuy nhiên, các quốc gia như Igorot theo thuyết vật linh, Madja-as Mã Lai, Lequios và Butuan Ấn Độ hóa vẫn duy trì văn hóa của mình. Trong một số vương quốc xuất hiện việc chống Hồi giáo gay gắt. Sự kình địch giữa các datu, raja, vương, sultan, và lakan và giữa các quốc gia của họ là điều kiện thuận lợi để Tây Ban Nha dễ dàng tấn công và thôn tính toàn bộ quần đảo. Năm 1521, nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha Ferdinand Magellan đến Philippines và tuyên bố chủ quyền của Tây Ban Nha đối với quần đảo, ông đã bị giết chết sau đó trong trận chiến đấu với các thổ dân. Quá trình thuộc địa hóa bắt đầu khi nhà thám hiểm người Tây Ban Nha Miguel López de Legazpi đến từ Mexico vào năm 1565 và thành lập các khu định cư đầu tiên của người Âu tại Cebu. Người Tây Ban Nha thiết lập Manila làm thủ đô của Đông Ấn Tây Ban Nha vào năm 1571 sau khi đàn áp sự kháng cự của người bản địa và đánh bại hải tặc người Trung Quốc Lâm A Phượng (Limahong). Sự thống trị của người Tây Ban Nha đóng góp đáng kể vào việc thống nhất chính trị tại quần đảo. Từ năm 1565 đến năm 1821, Philippines được quản lýbởi một Phó vương người Tây Ban Nha và sau đóthì được quản lý trực tiếp từ Madrid. Các nhà truyền giáo của đạo Thiên chúa đã tới quần đảo và cải đạo hầu hết các cư dân vùng thấp sang đạo này và lập nên các trường học, chủng viện và các bệnh viện. Trong thời kỳ cai trị Philippines, người Tây Ban Nha phải chiến đấu chống lại các cuộc nổi dậy của người bản địa và một vài thách thức đến từ hải tặc Trung Quốc, người Hà Lan, và người Bồ Đào Nha. Trong khuôn khổ Chiến tranh Bảy năm, quân đội Anh chiếm Manila từ năm 1762 đến năm 1764. Đặc biệt là sự chống đối của người Môrô (người Philippin theo Hồi giáo ở miền Nam) trong suốt hơn một thế kỉ. Ách cai trị của thực dân Tây Ban Nha đã dẫn đến những cuộc đấu tranh cách mạng bùng lên vào năm 1872 sau khi ba linh mục là Mariano Gómez, José Burgos, và Jacinto Zamora (gọi chung là Gomburza) bị nhà cầm quyền thuộc địa buộc tội xúi giục nổi loạn và hành quyết. Sự việc này truyền cảm hứng cho một phong trào tuyên truyền tại Tây Ban Nha do José Rizal tổ chức, nhằm vận động hành lang cho các cải cách chính trị tại Philippines. Rizal cuối cùng bị hành quyết vào ngày 30 tháng 12 năm 1896 với tội danh nổi loạn. Do các nỗ lực nhằm cải cách gặp phải cản trở, Andrés 14 Bonifacio vào năm 1892 thành lập một tổ chức bí mật gọi là Katipunan nhằm giành độc lập từ Tây Ban Nha thông qua hoạt động vũ trang. Bonifacio cùng Katipunan bắt đầu cuộc Cách mạng Philippines vào năm 1896. Magdalo là một phái của Katipunan tại tỉnh Cavite, cuối cùng họ thách thức vị trí lãnh đạo của Bonifacio và người này bị Emilio Aguinaldo thay thế. Năm 1898, Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ bắt đầu từ Cuba và lan đến Philippines. Aguinaldo tuyên bố Philippines độc lập từ Tây Ban Nha tại Kawit, Cavite vào ngày 12 tháng 6 năm 1898. Sau đó, Tây Ban Nha đã nhượng quần đảo cho Hoa Kỳ để đổi lấy 20 triệu đô la theo Hiệp định Paris 1898. Tuy nhiên, sau đó Mỹ đã không thừa nhận nền Cộng hòa mới ra đời tại Philippines. Điều này đã dẫn đến Chiến tranh Philippines–Mỹ bùng nổ, kết quả Đệ nhất Cộng hòa chiến bại. Tuy nhiên, thay thế nó là ba nước cộng hòa: Cộng hòa Zamboanga, Cộng hòa Negros và Cộng hòa Tagalog. Các chính thể này cũng bị đánh bại. Trong thời kỳ này, văn hóa Philippines được phục hưng với sự phát triển của điện ảnh và văn học. Philippin tuyên bố nền độc lập của mình vào năm 1946 dưới, tuy nhiên mọi chính sách và sự phát triển đều lệ thuộc vào Mỹ. Đến năm 1986, sau khi chế độ độc tài Marcos bị lật đổ, Philippin mới chính thức quay trở về với khu vực Đông Nam Á như một thực thể điak lý vốn có chứ không phải là theo lối sống và phong cách phương Tây như trong thời kì thuộc địa. Tại Malaysia là một quốc gia tại Đông Nam Á, vị trí hang hải chiến lược của nó có những ảnh hưởng căn bản đối với lịch sử quốc gia. Văn hóa Ấn Độ giáo và Phật giáo du nhập từ Ấn Độ chi phối lịch sử ban đầu của Malaysia. Những văn hóa này phát triển đến đỉnh điểm trong văn minh Srivijaya có nền tảng tại Sumatra, với ảnh hưởng trải rộng suốt Sumatra, Java, bán đảo Mã Lai và phần lớn Borneo từ thế kỷ VII đến thế kỉ XIV. Hồi giáo qua Malaysia ngay từ thế kỷ X, song đến thế kỷ XIV và XV thì tôn giáo này mới lần đầu thiết lập nền tảng trên bán đảo Mã Lai. Việc tiếp nhận Hồi giáo kéo theo sự xuất hiện của những vương quốc Hồi giáo, nổi bật nhất trong số đó là Malaca. Văn hóa Hồi giáo có ảnh hưởng sâu sắc đối với người Mã Lai. Bồ đào nha là cường quốc thực dân châu Âu đầu tiên thiết lập căn cứ tại Malaysia, chiếm Malacca năm 1511, tiếp theo họ là người Hà Lan. Anh quốc ban đầu thiết lập căm cứ tại Jesselton, Kuching, Penang, và Singapore, cuối cùng đảm bảo được quyền bá chủ của mình tại lãnh thổ Malaysia. Hiệp định Anh- Hà Lan năm 1824 xác định ranh giới giữa Malaya thuộc Anh và Đông Ấn Hà Lan. Giai đoạn thứ tư của 15 quá trinh tiếp nhận ảnh hưởng ngoại quốc là sự nhập cư của những công nhân người Hoa và người Ấn nhằm đáp ứng nhu cầu kinh tế thuộc địa do Anh Quốc thiết lập trên bán đảo Mã Lai và Borneo. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản xâm chiếm Malaysia, chấm dứt quyền thống trị của Anh Quốc. Chủ nghĩa dân tộc được giả phóng trong thời gian Nhật Bản chiếm đóng Malaysia tiến hành nổi dậy vũ trang chống Anh Quốc, song bị dập tắt bằng quân sự. Sau đó, Liên bang Malaya độc lập đa dân tộc được thành lập vào năm 1957. Đến ngày 31 tháng 8 năm 1963, các lãnh thổ của Anh Quốc tại miền bắc đảo Borneo và Singapore được trao quyền độc lập và cùng các bang trên Bán đảo lập nên Malaysia vào ngày 16 tháng 9 năm 1963. Hai năm sau, Quốc hội Malaysia tách Singapore khỏi liên bang. Đầu thập niên 1960, Malaysia và Indonesia xảy ra đối đầu. Bạo loạn dân tộc trong năm 1969 dẫn đến áp đặt luật tình trạng khẩn cấp, cắt giảm sinh hoạt chính trị và tự do dân sự. Kể từ 1970, "liên minh Mặt trận Dân tộc" do Tổ chức dân tộc Mã Lai thống nhất (UMNO) lãnh đạo là phe phái chính trị cầm quyền tại Malaysia. Tăng trưởng kinh tế nâng cao đáng kể chất lượng sinh hoạt trong thập niên 1990. Tại Lenggong, khai quật được những chiếc rìu tay bằng đá của giống người ban đầu mà có thể là Homo erectus. Chúng có niên đại 1,83 triệu năm, là bằng chứng sớm nhất về việc họ Người cư trú tại Đông Nam Á Bằng chứng sớm nhất về sự cư trú của người hiện đại tại Malaysia là sọ người 4.000 năm tuổi khai quật từ hang Niah tại Borneo vào năm 1958. Bộ xương hoàn chỉnh cổ nhất phát hiện được tại Malaysia là người Perak 11.000 năm tuổi khai quật vào năm 1991. Những nhóm người bản địa trên bán đảo có thể phân thành ba dân tộc, Negrito, Senoi, và Mã Lai nguyên thủy. Những dân cư đầu tiên của bán đảo Mã Lai hầu như chắc chắn là người Negrito. Những người săn bắn thuộc Thời đại đồ đá giữa này hầu như chắc chắn là tổ tiên của Semang, một dân tộc Negrito có lịch sử lâu dàu tại bán đảo Mã Lai. Người Senoi xuất hiện như một nhóm hỗn hợp, với khoảng một nửa ADN ti thể mẫu hệ truy nguyên tới tổ tiên của người Semang và khoảng một nửa là người di trú đến từ Đông Dương sau đó. Các học giả đưa ra giả thuyết rằng họ là hậu duệ của những dân cư nông nghiệp nói tiếng Nam Á ban đầu, họ đem ngôn ngữ và kỹ thuật của mình đến phần phía nam của bán đảo vào khoảng 4.000 năm trước. Họ liên hiệp và hiệp nhất với dân cư bản địa. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất