Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Tìm hiểu về thực trạng tranh chấp hợp đồng bảo hiểm từ đó chỉ ra những nguyên nh...

Tài liệu Tìm hiểu về thực trạng tranh chấp hợp đồng bảo hiểm từ đó chỉ ra những nguyên nhân cơ bản và đề xuất giải pháp về pháp lý để hạn chế tranh chấp (8đ)

.DOC
21
107
126

Mô tả:

MỤC LỤC A. MỞ ĐẦU................................................................................................................2 B.NỘI DUNG CHÍNH...............................................................................................2 I. Một số khái niệm..................................................................................................2 1. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm...........................................................................2 2. Khái niệm tranh chấp hợp đồng bảo hiểm..........................................................3 II. Thực trạng tranh chấp hợp đồng bảo hiểm.....................................................4 III. Nguyên nhân cơ bản dẫn đến những tranh chấp hợp đồng bảo hiểm.........8 1. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và hướng dẫn về hợp đồng bảo hiểm hiện nay chưa đủ và còn tồn tại bất cập.......................................................................8 2. Các bên tham gia hợp đồng luôn có sự xung đột lợi ích trực diện...................13 3. Sự không cân xứng các thông tin giữa các bên tham gia hợp đồng..................14 4. Xuất phát từ bên mua bảo hiểm........................................................................14 5. Xuất phát từ doanh nghiệp bảo hiểm, đại lý bảo hiểm.....................................15 6. Công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật về hợp đồng bảo hiểm còn hạn chế..............................................................................................................................16 IV. Một số giải pháp pháp lý để hạn chế tình trạng tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm....................................................................................................................17 1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng bảo hiểm...............................17 2. Thắt chặt hơn trong các quy định về hoạt động kê khai thông tin....................19 3. Đối với hoạt động giải thích hợp đồng bảo hiểm..............................................19 4. Nâng cao công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật về hợp đồng bảo hiểm. ....................................................................................................................................20 C. KẾT THÚC.........................................................................................................20 1 A. MỞ ĐẦU. Sự phát triển của hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam là một xu thế tất yếu, nhất là trong bối cảnh hội nhập toàn diện, khi chúng ta đã là thành viên của Tổ chức thương mại Thế giới WTO. Khi thị trường bảo hiểm càng phát triển càng mạnh thì kéo theo nó là các tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm diễn ra càng nhiều. Nhằm giải quyết các tranh chấp hợp đồng bảo hiểm có thể xảy ra, pháp luật Việt Nam hiện hành cũng đã quy định khá rõ ràng cả về thẩm quyền, thủ tục và cơ chế giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên, tranh chấp hợp đồng bảo hiểm vẫn là hiện tượng diễn ra phổ biến trong thị trường bảo hiểm hiện nay. Với đề tài “Tìm hiểu về thực trạng tranh chấp hợp đồng bảo hiểm từ đó chỉ ra những nguyên nhân cơ bản và đề xuất giải pháp về pháp lý để hạn chế tranh chấp” nhóm xin trình bày những điểm cơ bản nhất về hợp đồng bảo hiểm, đưa ra thực trạng tranh chấp hợp đồng bảo hiểm hiện nay cũng như nêu rõ nhưng nguyên nhân và định hướng tháo gỡ tình trạng này. Với thực tiễn, tranh chấp hợp đồng bảo hiểm rất đa dạng và phức tạp. Do vậy, không dễ để đưa ra được những số liệu cũng như đề ra được những giải pháp hữu hiệu. Do vậy, bài làm không thể tránh khỏi những sai sót, mong sự đóng góp ý kiến của thầy cô để bài làm hoàn thiện hơn! B. NỘI DUNG CHÍNH. I. Một số khái niệm. 1. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm. Kinh doanh bảo hiểm là quan hê ̣ kinh doanh được thiết lâ ̣p trên cơ sở hợp đồng ký kết giữa doanh nghiê ̣p bảo hiểm đối với khách hàng, hợp đồng này gọi là H ợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm (HĐBH) là hình thức pháp lý của quan hê ̣ kinh doanh bảo hiểm giữa doanh nghiệp bảo hiểm với bên mua bảo hiểm. Điều 567 BLDS 2005 quy định: “Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, còn bên bảo hiểm phải trả một khoản tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Tiếp cận về HĐBH, khái niệm HĐBH được Luật kinh doanh bảo hiểm quy định như sau: “Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm 2 phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. (Khoản 1 Điều 12 Luật kinh doanh bảo hiểm). Vậy, HĐBH là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm (gọi là người được bảo hiểm) với bên bảo hiểm (doanh nghiệp bảo hiểm) theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro trên cơ sở thu phí bảo hiểm của người được bảo hiểm để nhận trách nhiệm bồi thường hay trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bất ngờ thuộc trách nhiệm bảo hiểm (gọi là sự kiện bảo hiểm). 2. Khái niệm tranh chấp hợp đồng bảo hiểm. Tranh chấp là sự xung đô ̣t, bất đồng ý chí giữa các chủ thể về những quyền và nghĩa vụ hoă ̣c lợi ích nào đó. Tranh chấp hợp đồng là sự mâu thuẫn, bất đồng ý kiến giữa các bên tham gia quan hệ hợp đồng liên quan đến việc thực hiện (hoặc không thực hiện) các quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng. Từ đó, tranh chấp HĐBH được hiểu là sự xung đô ̣t, bất đồng ý chí giữa các chủ thể tham gia liên quan đến thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên được quy định trong HĐBH. Tranh chấp HĐBH có thể là do không thống nhất được ý kiến của các bên về việc đánh giá hành vi vi phạm HĐBH hoặc cách thức giải quyết hậu quả phát sinh từ vi phạm đó. Đối với tranh chấp HĐBH do có không thống nhất được việc đánh giá hành vi vi phạm. Trước tiên, xuất phát từ sự vi phạm đơn phương hoặc của cả DBNH và người mua bảo hiểm kết hợp với sự bất đồng ý kiến trong việc đánh giá hành vi vi phạm về mức độ, về hậu quả pháp lý của hành vi vi phạm đó. Hành vi vi phạm HĐBH đó có thể là không thực hiện, thực hiện không đúng hay thực hiện không đầy đủ những cam kết trong HĐBH. Theo Điều 412 BLDS năm 2005, nguyên tắc thực hiện hợp đồng dân sự được quy định là: “1. Thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại, thời hạn, phương thức và các thỏa thuận khác; 2. Thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên, đảm bảo tin cậy lẫn nhau; 3. Không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”. Tranh chấp HĐBH sẽ phát sinh khi những nguyên tắc cơ bản này bị vi phạm. Hành vi vi phạm quyền và nghĩa vụ đã thỏa thuận giữa các bên có thể sẽ dẫn đến thiệt hại, mà mỗi bên thì đều có quyền tự bảo vệ lợi ích của mình, từ đó dẫn đến phát sinh tranh chấp. 3 Đối với tranh chấp HĐBH trong việc lựa chọn cách thức giải quyết hậu quả phát sinh. Các tranh chấp này diễn ra phổ biến và gây phản ứng gay gắt cho cả hai chủ thể trong quan hệ tranh chấp. Bởi, việc lựa chọn cách thức giải quyết hậu quả sẽ tác động trực tiếp đến quyền, lợi ích cũng như nghĩa vụ của họ. Lựa chọn các thức giải quyết hậu quả phát sinh từ hành vi vi phạm chịu sự chi phối của các yếu tố như: + Các lợi thế mà phương thức đó có thể mang lại cho các bên. + Mức độ phù hợp của phương thức đó đối với nội dung và tính chất của tranh chấp Hợp đồng với cả thiện chí của các bên. + Thái độ hay qui định của nhà nước đối với quyền chọn lựa phương thức giải quyết của các bên. Từ các yếu tố chi phối này kết hợp với đặc trưng của quan hệ HĐBH là sự đối kháng lợi ích trực tiếp sẽ dẫn đến tranh chấp trong HĐBH. II. Thực trạng tranh chấp hợp đồng bảo hiểm. Hiện nay, khi nền kinh tế của nước ta ngày càng phát triển, thì nhu cầu phòng tránh rủi ro của các cá nhân, tổ chức cũng tăng lên, do đó thị trường bảo hiểm cũng phát triển theo nhằm thỏa mãn nhu cầu đó. Khi thị trường bảo hiểm càng phát triển càng mạnh thì kéo theo nó là các tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm diễn ra càng nhiều. Đánh giá chung, tranh chấp HĐBH hằng năm diễn biến phức tạp cả về diện và lượng, cụ thể như sau: - Thứ nhất về lượng: tỷ lệ tranh chấp HĐBH trong tranh chấp toàn thị trường bảo hiểm ở mức cao. Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm thường dẫn đến hệ quả đó là hủy hợp đồng nếu như cả hai bên không thương lượng được với nhau. Hàng năm, tỷ lệ hủy hợp đồng trước hạn tính chung thị trường khoảng 30%, trong đó tỷ lệ hủy hợp đồng do phát sinh tranh chấp hợp đồng bảo hiểm là không nhỏ. Hủy hợp đồng trước hạn do nhiều nguyên do, dù là lý do gì thì cả khách hàng và công ty bảo hiểm đều bị thiệt hại. Đối với khách hàng, họ sẽ không được bảo vệ kịp thời nếu như sự kiện bảo hiểm xảy ra ngay sau khi hủy hợp đồng. Đối với DNBH, DNBH sẽ bị ảnh hưởng rất lớn do uy tín của doanh nghiệp luôn gắn chặt với sự tồn tại của DNBH. 4 - Thứ hai về diện: tranh chấp HĐBH phát sinh ở hầu hết các giai đoạn, từ giao kết HĐBH và thực hiện HĐBH cũng như giải quyết tranh chấp HĐBH. Các tranh chấp đa dạng, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau.  Giai đoạn trước khi ký kết hợp đồng: pháp luật có quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của doanh nghiệp bảo hiểm như sau: doanh nghiệp bảo hiểm phải cung cấp đầy đủ các thông tin về sản phẩm bảo hiểm mà mình sẽ cung ứng cho khách hàng, giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm, quyền và nghĩa vụ cho bên mua bảo hiểm…Trên thực tế, có nhiều doanh nghiệp bảo hiểm không cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết cho bên mua bảo hiểm, đặc biệt là trong trường hợp bảo hiểm nhân thọ. Các đại lý bảo hiểm chủ yếu là cung cấp các thông tin về quyền lợi bảo hiểm cho khách hàng nhằm mục đích lôi kéo khách hàng kí HĐBH để họ chạy đua theo số lượng hợp đồng và doanh thu. Nhìn chung, những thông tin cung cấp cho khách hàng có tính bất lợi mà có thể dẫn đến việc khách hàng chần chứ hoặc từ chối tham gia bảo hiểm ít được các đại lý nêu ra và giải thích một cách cặn kẽ, thậm chí có doanh nghiệp bảo hiểm còn dung cả đến những tiểu xảo khác tinh vi mà khách hàng không thể nhận thấy ngay được. Chẳng hạn, trong dự thảo hợp đồng có quy định số tiền lãi được chia, nhiều công ty đưa ra lãi cao, hấp dẫn, nhưng không cam kết trong hợp đồng chính thức, nghĩa là về mặt pháp lý, không có gì ràng buộc công ty phải trả lãi cao cho khách hàng. Có công ty bảo hiểm đã sử dụng những thủ thuật để thu hút khách hàng bằng việc sẵn sàng chịu lỗ lớn để thông báo mức lãi suất cao cho một vài năm đầu của hợp đồng. Mức lãi sau này sẽ khó có thể đáp ứng được vì tiền lãi này phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty. Có thể nói, trên thực tế vì quyền lợi của mình, doanh nghiệp bảo hiểm đã không cung cấp đầy đủ, chính xác các thông tin về sản phẩm, dẫn đến việc khách hàng hiểu không đầy đủ về sản phẩm bảo hiểm khi giao kết HĐBH, điều đó ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng dẫn đến tranh chấp phát sinh sau này.  Giai đoạn giao kết hợp đồng: + Doanh nghiệp bảo hiểm từ chối trả tiền do người mua bảo hiểm cẩu thả trong kê khai hồ sơ: Phó thác vào tư vấn viên bảo hiểm, đặt bút ký khi chưa nắm rõ hết các điều khoản của HĐBH với các quy định rất phức tạp, nhiều khách hàng đã rất bức xúc nhưng cũng phải chấp nhận cách giải quyết của DN bảo hiểm khi phát 5 sinh sự kiện bảo hiểm. Sự cẩu thả trong kê khai hồ sơ có thể do chính người mua bảo hiểm (quên các sự kiện vì quá lâu hoặc có sự nhầm lẫn) hoặc sự cẩu thả này là do các “thủ thuật” của đại lý, DNBH. Ví dụ như vụ việc của NS Lê Dung. NS Lê Dung có người hàng xóm là Nguyễn Văn Thuỷ, một đại lý chính thức của Prudential. Thông qua ông Thuỷ, NS Lê Dung đã ký kết hợp đồng mua một bảo hiểm của Prudential. Sau khi Lê Dung đột ngột qua đời, con trai chị (cháu Tuấn) đã đến hỏi ông Thuỷ thì được trả lời là sẽ chi trả 60 triệu đồng tiền bảo hiểm. Nhưng khi đến gặp lãnh đạo của Prudential thì được trả lời: "Mẹ cháu đã kê sai một số khoản trong hợp đồng, nên hãng không thanh toán". Cụ thể: Với câu hỏi trong vòng 6 tháng qua, bạn có phải điều trị bởi một bác sĩ nào không, trong vòng 5 năm qua, bạn có phải điều trị..., đặc biệt là câu hỏi "Bạn đã đi nước ngoài chưa? Nếu có, xin biết tên quốc gia bạn đến?", NS Lê Dung đều khai là không. Không kể đến trường hợp DNBH tự khai cho NS Lê Dung, thì việc DNBH không có sự nhắc nhở khi sự kiện NS Lê Dung tự mình khai “chưa đi nước ngoài” cho thấy DNBH đã không có sự thiện chí và tinh thần hợp tác. Khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, thì Prudential là viện dẫn để từ chối bồi thường. + Doanh nghiệp bảo hiểm không trả tiền bảo hiểm do người mua bảo hiểm cố ý che giấu thông tin về tình trạng sức khỏe: Anh Nguyễn Văn Linh trú tại quận Hai Bà Trưng thành phố Hà Nội, mua bảo hiểm sức khỏe của Công ty Cổ phần bảo hiểm Nông nghiệp ABIC vào ngày 20/10/2011. Trong hợp đồng anh Linh khai báo tình trạng sức khỏe bình thường. Tuy nhiên tại thời điểm ký kết hợp đồng anh Linh biết mình đã bị mắc chứng hở van tim độ 3, rất nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng anh đã cố ý che giấu tình trạng sức khỏe của mình để mua bảo hiểm của ABIC. Ngày 02/02/2012, anh Linh phải nhập viện điều trị. 3 tháng sau anh Linh xuất viện và có đơn yêu cầu ABIC thanh toán số tiền chi phí khám chữa bệnh theo thỏa thuận trong hợp đồng. ABIC điều tra và phát hiện ra anh Linh gian dối nên đã không chấp thuận yêu cầu chi trả chi phí mà chỉ đồng ý hoàn trả phí bảo hiểm mà anh đã đóng trong thời gian qua. 6 + Doanh nghiệp bảo hiểm bỏ qua các chi tiết mà họ biết là khách hàng khai sai để kí kết và thực hiện hợp đồng: Nhiều khi vì lợi ích trong kinh doanh mà các doanh nghiệp bảo hiểm cố bỏ qua các chi tiết mà biết khách hàng khai sai để ko kí kết và thực hiện hợp đồng. Đến khi sự kiện bảo hiểm xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm từ chối thanh toán vì lí do lỗi do bên mua bảo hiểm, đại lí hoặc môi giới bảo hiểm. + Tranh chấp phát sinh từ việc trả chậm phí bảo hiểm: Trong cuộc cạnh tranh giành thị phần và tăng doanh thu, nhiều doanh nghiệp bảo hiểm đã phải cho khách trả chậm phí và từ đó phát sinh nhiều tranh chấp khi sự kiện bảo hiểm xảy ra. Vài năm gần đây, cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm ngày càng căng thẳng hơn khi số lượng DN bảo hiểm tăng nhanh, trong khi quy mô thị trường thay đổi chậm. Bởi vậy, để có được doanh thu, nhiều DN bảo hiểm đã phải chấp nhận rủi ro khi cố giữ chân khách hàng bằng cách cho nợ phí. Tuy nhiên, điều này đã nảy sinh tình trạng đối mặt với tranh chấp nếu sự kiện bảo hiểm phát sinh. Ông Phạm Tuấn Anh, Chánh Tòa Kinh tế – TAND TP. Hà Nội cho biết, cơ quan này đã thụ lý nhiều vụ án trong lĩnh vực bảo hiểm mà tranh chấp phát sinh từ việc DN bảo hiểm cho khách hàng nợ phí. Khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, DN bảo hiểm cho rằng, khách hàng chưa đóng phí nên hợp đồng bảo hiểm đương nhiên bị chấm dứt, trong khi khách hàng khăng khăng đòi bồi thường, bởi hợp đồng đã ký, đã có giấy chứng nhận bảo hiểm.  Giai đoạn giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo hiểm: Việc giải quyết xử tranh chấp HĐBH hiện này còn nhiều bất cập. Ngay cả việc áp dụng Bộ luật Dân sự hay Luật Kinh doanh bảo hiểm cũng gây tranh cãi giữa các tòa. Theo nhiều chuyên gia, pháp luật về bảo hiểm còn những điểm chưa rõ, trong khi ngày càng có nhiều vụ người mua bảo hiểm bị công ty bảo hiểm từ chối thanh toán với lý do khai báo thông tin không trung thực, dẫn đến tranh chấp, kiện tụng gay gắt… Ví dụ. như TAND quận 1 (TP.HCM) đã tuyên hợp đồng bảo hiểm giữa ông NVC và một công ty bảo hiểm vô hiệu và bác yêu cầu đòi tiền bảo hiểm của người nhà ông C. Giữa tháng 11-2010, ông C ký hợp đồng bảo hiểm nhân thọ với công ty bảo hiểm, mệnh giá sản phẩm chính là 500 triệu đồng. Ngày 6-6-2011, ông C. bị bệnh. Sau khi cấp cứu tại BV Bà Rịa (Bà Rịa-Vũng Tàu), bệnh của ông C. chuyển biến nặng, người nhà đưa về thì mất. Sau đó, anh của ông C. (người thụ hưởng hợp 7 đồng bảo hiểm) đã yêu cầu công ty bảo hiểm thanh toán. Tuy nhiên, công ty bảo hiểm từ chối với lý do: “Qua thông tin thu thập từ địa phương và cơ quan chức năng cung cấp thì ông C. là người nghiện rượu, uống rượu thường xuyên, liên tục nhiều năm trước khi tham gia bảo hiểm, tức là mâu thuẫn với thông tin ông C. khai tại hợp đồng bảo hiểm. Vì vậy hợp đồng không có hiệu lực ngay từ khi giao kết”. Không đồng ý, anh của ông C khởi kiện ra TAND quận 1 (nơi công ty bảo hiểm có trụ sở) yêu cầu tòa buộc công ty bồi thường hơn 500 triệu đồng. Tại phiên xử, đại diện công ty bảo hiểm rút chứng cứ trên nhưng vẫn cho rằng ông C. nghiện rượu căn cứ vào bệnh án bệnh viện cung cấp. Tranh luận, anh của ông C. nói bệnh án không nêu ông C. nghiện rượu từ lúc nào. Tại phiên xử, bác sĩ cũng xác định: “Không thể xác định được thời điểm nghiện rượu”. Hơn nữa, bác sĩ trình bày việc bệnh án ghi nhận ông C. nghiện rượu là căn cứ vào lời khai của người nhà bệnh nhân nhưng bác sĩ không xác định được người đó là ai. Chưa kể trước đó tòa từng có công văn hỏi bệnh viện là “bệnh nhân C. bị xuất huyết tiêu hóa trên do giãn tĩnh mạch thực quản, xơ gan có phải là hậu quả tất yếu của việc sử dụng rượu bia trong một thời gian dài hay không?”. Bệnh viện trả lời: “Chưa đủ dữ liệu khẳng định nguyên nhân xơ gan là do rượu…”. Dù vậy, tòa vẫn kết luận: Ông C. bị xơ gan nên ông là người nghiện rượu. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ do ông C. mua vô hiệu nên bác yêu cầu khởi kiện của anh ông C. III. Nguyên nhân cơ bản dẫn đến những tranh chấp hợp đồng bảo hiểm. 1. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và hướng dẫn về hợp đồng bảo hiểm hiện nay chưa đủ và còn tồn tại bất cập. Kinh doanh bảo hiểm là kinh doanh rủi ro. Bởi vậy, việc tạo ra một hành lang pháp lí để kinh doanh bảo hiểm phát triển bền vững là vấn đề cấp thiết. Tuy nhiên, một cách tổng quát có thể thấy hệ thống văn bản quy phạm về HĐBH hiện nay còn nhiều điểm bất cập. Đây là một trong những nguyên nhân chủ đạo tạo nên các tranh chấp về HĐBH của bên mua bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm. Thứ nhất, có điểm khác biệt giữa khái niệm HĐBH được quy định tại Điều 567 BLDS và Luật KDBH về chủ thể thụ hưởng bảo hiểm. 8 Trong BLDS năm 2005, HĐBH cũng được quy định như là một loại hợp đồng thông dụng. Tuy nhiên, trong những quy định về HĐBH của BLDS, hoàn toàn không có quy định về người thụ hưởng mà chỉ có quy định về người được bảo hiểm, nhưng khái niệm về người được bảo hiểm cũng không được BLDS nêu ra. Tuy nhiên, người thụ hưởng là một chủ thể liên quan rất quan trọng trong HĐBH con người. Điều này tất yếu dẫn đến những vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật. Tại Điều 578 BLDS năm 2005 quy định về bảo hiểm tính mạng có ghi nhận: “ Trong trường hợp bảo hiểm tính mạng, thì khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, bên bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm hoặc người đại diện theo uỷ quyền của họ; nếu bên được bảo hiểm chết, thì tiền bảo hiểm được trả cho người thừa kế của bên được bảo hiểm”. Tuy nhiên trong LKDBH lại quy định, người thụ hưởng là người được bên mua bảo hiểm chỉ định nhận tiền bảo hiểm trong bảo hiểm con người và người thụ hưởng có thể không phải là người được bảo hiểm. Như vậy, nếu người được bảo hiểm chết, theo quy định của BLDS, số tiền bảo hiểm sẽ trả cho người thừa kế của người được bảo hiểm, còn theo quy định của LKDBH, số tiền bảo hiểm sẽ trả cho người thụ hưởng, và có thể họ không phải là người (hoặc những người) thừa kế của người được bảo hiểm. Thứ hai, còn quy định chung chung và đơn giản về chuyển nhượng HĐBH mà chưa quy định về điều kiện chuyển nhượng, thủ tục chuyển nhượng, quyền hạn và trách nhiệm của các bên trong quan hệ cũng như hậu quả pháp lý sau khi tiến hành chuyển nhượng Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành chưa có quy định cụ thể về việc chuyển nhượng từng loại HĐBH mà chỉ quy định chung việc chuyển nhượng tất cả các loại HĐBH tại Điều 26 như sau: “1. Bên mua bảo hiểm có thể chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. 2. Việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực trong trường hợp bên mua bảo hiểm thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc chuyển 9 nhượng và doanh nghiệp bảo hiểm có văn bản chấp thuận về việc chuyển nhượng đó, trừ trường hợp việc chuyển nhượng được thực hiện theo tập quán quốc tế”. Rõ ràng, quy định về việc chuyển nhượng HĐBH tại Điều 26 Luật Kinh doanh bảo hiểm còn quá chung chung và mới chỉ dừng lại ở việc ghi nhận quyền của bên mua bảo hiểm trong việc chuyển nhượng HĐBH cho người thứ ba và việc chuyển nhượng này phải được sự chấp thuận bằng văn bản của doanh nghiệp bảo hiểm, mà chưa đề cập đến các vấn đề như: điều kiện chuyển nhượng, thủ tục chuyển nhượng, quyền hạn và trách nhiệm của các bên trong quan hệ chuyển nhượng; và hậu quả pháp lý của việc chuyển nhượng HĐBH. Mặt khác, HĐBH con người, HĐBH tài sản và HĐBH trách nhiệm dân sự lại có sự khác biệt rất lớn về đối tượng bảo hiểm, quyền lợi có thể được bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm, quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm... do vậy, theo chúng tôi thay vì việc quy định chung chung như hiện nay, nên sửa đổi luật theo hướng quy định việc chuyển nhượng riêng cho từng loại HĐBH. Cụ thể, HĐBH nhân thọ là một hợp đồng phức tạp có liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau và bên chuyển nhượng (Bên mua bảo hiểm hay Người tham gia bảo hiểm) có thể không đồng thời là Người được bảo hiểm, do vậy, việc chuyển nhượng HĐBH nhân thọ có nhiều vấn đề đặc thù nảy sinh cần được pháp luật quy định riêng và cụ thể hơn. Chẳng hạn như: điều kiện đối với người nhận chuyển nhượng như thế nào? Người nhận chuyển nhượng có cần phải có quyền lợi có thể được bảo hiểm với Người được bảo hiểm hay không? Việc chuyển nhượng có cần sự đồng ý của Người được bảo hiểm hay không? Doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm như thế nào trong việc chấp nhận chuyển nhượng của bên mua bảo hiểm? Bên mua bảo hiểm còn trách nhiệm gì đối với HĐBH sau khi HĐBH đã được chuyển nhượng?... Rõ ràng, đây là những nội dung quan trọng nhưng Luật Kinh doanh bảo hiểm đã bỏ ngỏ, do vậy khi có tranh chấp phát sinh không có cơ sở pháp lý để giải quyết. Thực tế cho thấy, trong điều khoản bảo hiểm nhân thọ của các sản phẩm bảo hiểm đang triển khai trên thị trường, các doanh nghiệp bảo hiểm đều đưa ra cam kết là “doanh nghiệp bảo hiểm không chịu trách nhiệm về tính hiệu lực, hợp pháp, sự đầy đủ của việc chuyển nhượng hợp đồng giữa bên mua bảo hiểm và người được chuyển nhượng”. Giả sử, việc chuyển nhượng hợp đồng là không hợp pháp, trong 10 khi doanh nghiệp bảo hiểm lại đồng ý chuyển nhượng và sự kiện bảo hiểm xảy ra sau khi hợp đồng đã được chuyển nhượng, vậy quyền lợi và trách nhiệm của các bên trong quan hệ hợp đồng này (bên mua bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm, người nhận chuyển nhượng, người thụ hưởng) sẽ được xác định như thế nào? Vấn đề này vẫn chưa có lời giải đáp. Không chỉ có HĐBH nhân thọ, việc chuyển nhượng HĐBH tài sản và HĐBH trách nhiệm dân sự cũng gặp phải vướng mắc tương tự vì sự thiếu vắng quy định của pháp luật. Thứ ba, nhiều thuật ngữ trong Luật KDBH được giải thích chưa cụ thể và rõ ràng như “giá trị hoàn lại” (Điều 34, 35, 39) và “chi phí hợp lý” (Điều 34, 39, 42). Mặc dù những thuật ngữ này được sử dụng thường xuyên trong luật và các văn bản dưới luật nhưng lại chưa được giải thích một cách cụ thể và rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Bên cạnh đó có nhiều thuật ngữ khác cũng có cách hiểu không thống nhất giữa các DNBH đã dẫn đến việc hạn chế khả năng lựa chọn của khách hàng. Thứ tư, nhiều điều luật chưa thực sự hợp lý: chẳng hạn như: Khoản 2 Điều 34 LKDBH quy định về thông báo tuổi trong bảo hiểm nhân thọ: “2. Trong trường hợp bên mua bảo hiểm thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm, nhưng tuổi đúng của người được bảo hiểm không thuộc nhóm tuổi có thể được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm và hoàn trả số phí bảo hiểm đã đóng cho bên mua bảo hiểm sau khi đã trừ các chi phí hợp lý có liên quan. Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực từ hai năm trở lên thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho bên mua bảo hiểm giá trị hoàn lại của hợp đồng bảo hiểm”. Quy định như trên là không đúng với hệ quả của hành vi hủy bỏ hợp đồng. Vì hệ quả của hành vi hủy bỏ hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận nên không thể có giá trị hoàn lại của hợp đồng. Khoản 2 Điều 35 qui định về DNBH có quyền đơn phương đình chỉ hợp đồng không phù hợp: theo quy định của pháp luật nhiều quốc gia hợp đồng đã có giá trị hoàn lại. trong trường hợp bên mua không thể đóng phí bảo hiểm trong thời gian gia 11 hạn nộp phí và không có thỏa huận khác. Ví dụ như thỏa thuận tự động nộp phí. Bên mua bảo hiểm có quyền yêu cầu duy trì HĐBH với số tiền bảo hiểm ít hơn được nộp phí 1 lần từ giá trị hoàn lại của hợp đồng cũ nếu các hợp đồng nà doanh nghiệp có cung cấp, nếu bên mua bảo hiểm không yêu cầu các quền lợi trên. DNBH mới có quyền đình chỉ thực hiện hợp đồng và trả cho bên mua giá trị hoàn lại. Mà theo qui định tại Khoản 2 Điều 35 thì quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng là quyền đương nhiên của doanh nghiệp bảo hiểm. Và việc quy định như vậy đương nhiên cướp đi quyền lợi chính đáng của bên mua bảo hiểm. Điều 39 Luật KDBH quy định về các trường hợp không trả tiền bảo hiểm còn nhiều bất cập: Thứ nhất, khoản 1 Điều 39 Luật này chỉ dừng lại ở việc quy định trường hợp “người được bảo hiểm chết hoặc bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do lỗi cố ý của bên mua bảo hiểm hoặc lỗi cố ý của người thụ hưởng” tại điểm b khoản 1. Quy định này là chưa phù hợp bởi lẽ trên thực tế các sản phẩm bảo hiểm con người đang được các doanh nghiệp bảo hiểm triển khai hiện nay đều có phạm vi bảo hiểm rất rộng bao gồm các rủi ro: chết, thương tật toàn bộ vĩnh viễn, thương tật bộ phận vĩnh viễn, ốm đau, bệnh tật… Do vậy, quy định trên là chưa đủ vì đã bỏ qua các trường hợp “người được bảo hiểm bị thương tật bộ phận vĩnh viễn, ốm đau, bệnh tật... do lỗi cố ý của bên mua bảo hiểm hoặc lỗi cố ý của người thụ hưởng”. Theo tôi để bao quát được mọi trường hợp nên sửa đổi điểm b khoản 1 Điều này như sau: “rủi ro được bảo hiểm xảy ra đối với người được bảo hiểm do lỗi cố ý của bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc lỗi cố ý của người thụ hưởng”. Thứ hai, theo điểm c khoản 1 Điều 39 thì doanh nghiệp bảo hiểm chỉ có thể từ chối trả tiền bảo hiểm trong trường hợp “người được bảo hiểm chết do bị thi hành án tử hình”. Điều này có nghĩa là nếu sự kiện bảo hiểm xảy ra do người được bảo hiểm có hành vi cố ý vi phạm pháp luật (ngoại trừ trường hợp họ bị thi hành án tử hình) thì doanh nghiệp bảo hiểm vẫn phải giải quyết quyền lợi bảo hiểm. Theo tôi, quy định này là quá “hẹp” vì chưa thể hiện được mục đích thứ hai của điều khoản loại trừ đã đề cập ở trên, không phù hợp với thông lệ quốc tế và các sản phẩm bảo hiểm con người đặc biệt là sản phẩm bảo hiểm nhân thọ đã và đang được các doanh nghiệp bảo hiểm triển khai. Chẳng hạn, điều khoản HĐBH nhân thọ của các doanh 12 nghiệp bảo hiểm trên thị trường Việt Nam hiện nay quy định loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong trường hợp: “người được bảo hiểm tham gia vào các hoạt động bất hợp pháp, chống cự khi bị bắt giữ hay vượt ngục”, “người được bảo hiểm có hành động phạm tội”, “hành vi cố ý vi phạm pháp luật của người được bảo hiểm”... Rõ ràng các quy định này xét trên khía cạnh pháp luật thì chưa tương thích với quy định tại Điều 39 - LKDBH. Tuy nhiên, xét trên phương diện lý luận về bảo hiểm nhân thọ và pháp luật cũng như thông lệ của các nước trên thế giới thì hoàn toàn phù hợp. Do vậy, trong xu thế hội nhập như hiện nay theo tôi LKDBH cần thiết phải có sự thay đổi với thực tế khách quan và sự phát triển chung của toàn cầu. Thứ ba, hiện nay trên thực tế ngoài các trường hợp quy định tại các điều luật nói trên các doanh nghiệp bảo hiểm đều mở rộng phạm vi loại trừ trách nhiệm bảo hiểm bằng việc đưa vào điều khoản bảo hiểm mẫu các trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không bồi thường hay chi trả quyền lợi bảo hiểm đối với sự kiện bảo hiểm xảy ra có nguyên nhân từ các sự kiện sau: chiến tranh (có tuyên bố hay không tuyên bố), các hành động thù địch hoặc mang tính chiến tranh, nội chiến, nổi loạn, bạo động hay bạo loạn dân sự; sóng thần, núi lửa, nhiễm phóng xạ, tham gia các cuộc đua, hoạt động thể thao chuyên nghiệp hoặc hoạt động dưới nước có sử dụng mặt nạ thở… Để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người mua bảo hiểm, các nhà làm luật của Việt Nam nên nghiên cứu và pháp điển hóa các trường hợp này trong LKDBH theo đó quy định rõ các thảm họa hay sự kiện nào, với mức độ như thế nào có thể dẫn đến việc doanh nghiệp bảo hiểm mất khả năng thanh toán thì doanh nghiệp bảo hiểm không phải trả tiền bảo hiểm. Tuy nhiên, cũng cần có quy định để ngăn ngừa trường hợp các doanh nghiệp bảo hiểm áp dụng điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm một cách không hợp lý, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng (vì HĐBH là một loại hợp đồng gia nhập và khách hàng không có quyền thương thảo về bất cứ nội dung điều khoản nào của hợp đồng). 2. Các bên tham gia hợp đồng luôn có sự xung đột lợi ích trực diện. Sự xung đột về mặt lợi ích bao giờ cũng là nguyên nhân dẫn đến các tranh chấp về hợp đồng nói chung và hợp đồng bảo hiểm nói riêng. Xung đột lợi ích này được thể hiện rõ nét trong hợp đồng bảo hiểm. Bởi đối với các hợp đồng khác giá trị trao đổi giữa các bên thường thường tương xứng. Còn trong hợp đồng bảo hiểm, lợi ích 13 của bên này ra tăng đồng nghĩa với việc bên kia sẽ mất đi những lợi ích ương ứng. Ví dụ: Nếu sự kiện bảo hiểm xảy ra trong thời hạn thực hiện hợp đồng thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho người tham gia bảo hiểm một khoản tiền, có khi còn cao hơn so với phí bảo hiểm mà họ thu được. Hơn nữa trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm khách hàng thường muốn tối đa hóa số tiền bồi thường. còn doanh nghiệp bảo hiểm thì luôn luôn mong muốn trả ít nhất có thể. Sự xung đột này khiến cho các bên thiếu hợp tác trong thực hiện hợp đồng, có thể dẫn đến các tranh chấp hợp đồng. 3. Sự không cân xứng các thông tin giữa các bên tham gia hợp đồng. Đây là nguyên nhân dẫn đến những ảnh hưởng đến chất lượng hợp đồng và dễ xảy ra tranh chấp. Doanh nghiệp bảo hiểm đương nhiên hơn hẳn khách hàng. DNBH thường đưa ra các hợp đồng mẫu, trong đó chứa các điều khoản. Khi khác hàng giao kết hợp đồng, nếu họ không có đủ tỉnh táo thì thường gặp bất lợi nếu có xung đột xảy ra. Vì các điều khoản đều được xây dựng chặt chẽ và theo hướng có lợi cho DNBH. 4. Xuất phát từ bên mua bảo hiểm. Thứ nhất, vi phạm nguyên tắc trung thực. Đối với người mua bảo hiểm, nguyên tắc trung thực được thể hiện ở việc, bên mua bảo hiểm phải cung cấp thông tin trung thực và đầy đủ để DNBH đánh giá rủi ro, chấp nhận rủi ro, chấp nhận bảo hiểm, tính phí bảo hiểm cho phù hợp với những thông tin nhận được. Ngoài ra trách nhiệm cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm còn được quy định tại điểm c, khoản 2, điều 18 Luật Kinh doanh bảo hiểm: “Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ thông báo những trường hợp có thể làm tăng rủi ro hoặc làm phát sinh thêm trách nhiệm của DNBH trong quá trình thực hiện HĐBH theo yêu cầu của DNBH”. Hiện nay có rất nhiều trường hợp người mua bảo hiểm cố ý cung cấp sai sự thật, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc trung thực trong khi HĐBH. Hành vi gian dối có thể xảy ra ở cả giai đoạn kí kết hợp đồng và cả giai đoạn cung cấp tài liệu liên quan đến sự kiện bảo hiểm. Qua các tình huống cụ thể, việc vi phạm của bên mua bảo hiểm có thể quy về một trong các hành vi sau: - Có hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết HĐBH để được trả tiền bảo hiểm. Trường hợp này HĐBH xử lý theo hướng doanh nghiệp bảo hiểm 14 tuyên bố đơn phương chấm dứt hợp đồng theo Điều 19 khoản 2 điểm a Luật kinh doanh bảo hiểm. - Tại thời điểm giao kết hợp đồng bên mua bảo hiểm đã biết rõ sự kiện bảo hiểm sẽ xảy ra. Doanh nghiệp bảo hiểm có thể đề nghị tòa án tuyên bố HĐBH vô hiệu tho Điều 22 khoản 1 điểm c Luật kinh doanh bảo hiểm - Bên mua bảo hiểm đã có hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng. Trong trường hợp này, doanh nghiệp bảo hiểm có thể đề nghị tòa án tuyên bố HĐBH vô hiệu theo Điều 22 khoản 1 điểm d Luật kinh doanh bảo hiểm. Thứ hai, người mua bảo hiểm thiếu sự hiểu biết pháp luật bảo hiểm. Thị trường bảo hiểm nước ta chỉ thực sự phát triển trong những năm gần đây. Nhận thức của người dân về bảo hiểm còn nhiều hạn chế mà việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật bảo hiểm cho người dân một cách rộng rãi hình như chưa được quan tâm đúng mức. Một khi chưa biết nhiều về bảo hiểm và pháp luật bảo hiểm thì khi tiếp cận với hợp đồng bảo hiểm nói gặp khó khăn, khó hiểu. Đặc biệt đối với các điều khoản mẫu của hợp đồng bảo hiểm quy định rất phức tạp, người mua bảo hiểm không dễ để hiểu được tất cả mọi điều khoản. Do vậy, khách hàng bảo hiểm cần được tư vấn viên/đại lý bảo hiểm giải thích kỹ càng… Phó thác vào tư vấn viên bảo hiểm, đặt bút ký khi chưa nắm rõ hết các điều khoản của hợp đồng bảo hiểm với các quy định rất phức tạp, nhiều khách hàng đã rất bức xúc nhưng cũng phải chấp nhận cách giải quyết của DN bảo hiểm khi phát sinh sự kiện. 5. Xuất phát từ doanh nghiệp bảo hiểm, đại lý bảo hiểm Nguyên nhân gây tranh chấp từ phía DNBH, đại lí bảo hiểm được xem xét trên hai phương diện: Thứ nhất, sự vi phạm nguyên tắc trung thực trong quá trình giao kết hợp đồng bảo hiểm. Một trong những nguyên tắc quan trọng trong giao kết hợp đồng bảo hiểm là nguyên tắc trung thực. Về phía DNBH, đây là trách nhiệm quan trọng, thể hiện tính chính xác, trung thực của DNBH trong việc cung cấp thông tin đầy đủ về HĐBH cho khách hàng. Theo đó, khi giao kết bảo hiểm, DNBH đưa ra lời cam kết về điều kiện và phương thức bồi thường nên mọi thông tin đưa ra để cam kết phải là trung thực, rõ ràng. Đó là cơ sở để người tham gia bảo hiểm lựa chọn trước khi đưa 15 ra quyết định tham gia HĐBH. Thực tế, trong nhiều trường hợp DNBH thường bỏ qua những chi tiết mà khách hàng cần biết như giá trị hoàn lại của HĐBHNT, những nghĩa vụ mà bên mua bảo hiểm phải tuân thủ chặt chẽ như thời hạn nộp phí bảo hiểm, nghĩa vụ kê khai thật chi tiết và trung thực. Bởi, DNBH nắm bắt tâm lý của khách hàng, người mua bảo hiểm thường bỏ ý định giao kết hợp đồng khi thấy có quá nhiều nghĩa vụ. Vì vậy, DNBH và các đại lý bảo hiểm khi mang sản phẩm bảo hiểm của mình đến với khách hàng chủ yếu chỉ nói về phần quyền lợi của khách hàng, thậm chí phóng đại những quyền và lợi ích mà khách hàng có thể nhận được. Trong khi đó, phần nghĩa vụ của khách hàng thì không được nhắc đến hoặc bị chỉ được nhắc sơ qua bằng các thủ thuật tinh vi để nhằm mục đích khách hàng ký vào hợp đồng bảo hiểm Thứ hai, nguyên nhân do DNBH chưa thực sự thiện chí và có tinh thần hợp tác hay DNBH dùng các “thủ thuật” để đánh lạc hướng khách hàng.. Trong ví dụ đã nêu, trường hợp NS Lê Dung, nếu DNBH đó có tinh thần hợp tác, thực sự thiện chí nên có sự nhắc nhở đối với NS Lê Dung về việc kê khai đúng sự thật hoặc nên nhấn mạnh về hậu quả của việc không thực sự nghiêm túc trong việc kê khai các thông tin. 6. Công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật về hợp đồng bảo hiểm còn hạn chế. Như đã đề cập ở những phần trước, một trong những nguyên nhân xảy ra tranh chấp là do bên mua bảo hiểm hiểu biết pháp luật về HĐBH còn hạn chế. Do đó, việc tuyên truyền và phổ biến pháp luật về HĐBH là tương đối quan trọng. Việc thực hiện yếu kém công tác này cộng với ý thức dùng pháp luật bảo vệ mình của người dân nói chung chưa cao là một trong những nguyên nhân sâu xa khiến cho tình trạng tranh chấp HĐBH vẫn còn tồn tại khá phổ biến trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong nhiều năm gần đây. IV. Một số giải pháp pháp lý để hạn chế tình trạng tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm. 16 1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng bảo hiểm. Mặc dù Luật Kinh doanh bảo hiểm đã được hoàn thiện hơn theo hướng bổ sung sửa đổi vào năm 2010 nhưng ngay cả trong Luật mới này chúng ta vẫn thấy tồn tại những bất cập không hề nhỏ. Do đó đòi hỏi cần phải có những sự đổi mới hơn nữa về mặt lập pháp để khắc phục tình trạng tranh chấp liên quan đến HĐBH như sau: Thứ nhất, nên sửa đổi Điều 578 theo hướng, việc trả tiền bảo hiểm phải theo thoả thuận, có thể trả cho người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng. Nếu người được bảo hiểm chết mà không phải là người thụ hưởng, thì số tiền bảo hiểm sẽ trả cho người thụ hưởng. Số tiền bảo hiểm chỉ được coi là di sản thừa kế của người được bảo hiểm nếu không có người thụ hưởng. Quy định như vậy mới đúng với mục đích của bên mua bảo hiểm trong bảo hiểm con người và cũng không làm ảnh hưởng đến sự điều chỉnh các loại HĐBH khác. Thứ hai, cần phải sửa đổi quy định về chuyển nhượng HĐBH Chuyển nhượng HĐBH là một trong những nội dung quan trọng, đặc thù và khá phức tạp, đòi hòi cần có sự điều chỉnh của pháp luật. Tuy nhiên, như đã phân tích tại phần những bất cập của pháp luật, theo chúng tôi, nhà làm luật cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định này cho phù hợp và hoàn thiện nhằm đảm bảo sự công bằng về quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ HĐBH. Nhóm chúng em xin đưa ra kiến nghị sửa đổi Điều 26 Luật Kinh doanh bảo hiểm như sau: “1. Bên mua bảo hiểm có thể chuyển nhượng HĐBH cho người khác gọi là người nhận chuyển nhượng hợp đồng. Người nhận chuyển nhượng phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và phải có quyền lợi có thể được bảo hiểm đối với đối tượng bảo hiểm. Riêng đối với trường hợp bên mua bảo hiểm giao kết HĐBH con người cho trường hợp chết của người khác, thì việc chuyển nhượng hợp đồng phải được sự đồng ý bằng văn bản của người được bảo hiểm. 2. Việc chuyển nhượng hợp đồng được coi là có hiệu lực trong trường hợp bên mua bảo hiểm thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc chuyển nhượng và doanh nghiệp bảo hiểm có văn bản chấp thuận việc chuyển nhượng đó, trừ trường hợp việc chuyển nhượng được thực hiện theo tập quán quốc tế. 17 3. Kể từ thời điểm doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận việc chuyển nhượng hợp đồng thì mọi quyền, nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm chấm dứt; đồng thời quyền, nghĩa vụ của người nhận chuyển nhượng theo HĐBH bắt đầu phát sinh và được đảm bảo đầy đủ. 4. Trường hợp sau khi bên mua bảo hiểm đã chuyển nhượng HĐBH, doanh nghiệp bảo hiểm phát hiện và có bằng chứng chứng minh tại thời điểm giao kết HĐBH, bên mua bảo hiểm đã cung cấp thông tin sai sự thật hoặc che giấu thông tin mà nếu biết được thông tin đó, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ từ chối chấp nhận bảo hiểm, trì hoãn chấp nhận bảo hiểm hoặc chấp nhận bảo hiểm với các điều kiện kèm theo, thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đình chỉ thực hiện hợp đồng, không phải giải quyết quyền lợi bảo hiểm đối với rủi ro của đối tượng bảo hiểm và có quyền thu phí đến thời điểm doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận việc chuyển nhượng hợp đồng, đồng thời hoàn trả cho bên nhận chuyển nhượng hợp đồng số phí bảo hiểm mà họ đã đóng (trừ trường hợp bên nhận chuyển nhượng biết được hành vi cung cấp thông tin sai sự thật hoặc che giấu thông tin sai sự thật đó của bên mua bảo hiểm)”. Thứ ba, cần phải giải thích cụ thể hơn nữa các thuật ngữ "giá trị hoàn lại" và "chi phí hợp lý" được quy định tại Điều 34, 35, 39, 42 Luật KDBH, cũng như một số các thuật ngữ khác, để tránh những cách hiểu khác nhau, không thống nhất giữa các chủ thể của HĐBH, dẫn đến việc hạn chế khả năng lựa chọn của khách hàng. Thứ tư, cần sửa đổi Điều 39 Luật KDBH theo hướng thống nhất quy định về các trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ và quy định rõ doanh nghiệp bảo hiểm không phải bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm trong trường hợp rủi ro xảy ra đối với người được bảo hiểm do một trong các nguyên nhân sau: - Hành vi phạm tội và/hoặc hành vi cố ý vi phạm pháp luật khác của Người được bảo hiểm; - Hành vi cố ý của người được bảo hiểm, bên mua bảo hiểm và hoặc/người thụ hưởng; - Hành vi tự tử của người được bảo hiểm khi HĐBH có hiệu lực dưới 24 tháng; 18 - Do các hiện tượng thời tiết thay đổi đột ngột (sóng thần, động đất, núi lửa, lũ, lụt, bão), chiến tranh, nội chiến, nổi loạn và các hiện tượng khách quan khác có tính chất thảm họa. Ngoài các điểm cần hoàn thiện nêu trên, để điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm có thể áp dụng đúng đắn và xác thực trên thực tế thiết nghĩ cần phải có một cơ quan nhà nước hoặc một tổ chức có thẩm quyền đưa ra định nghĩa cụ thể về từng trường hợp loại trừ cũng như đưa ra tuyên bố chính thức khi các trường hợp loại trừ nói trên xảy ra, việc doanh nghiệp bảo hiểm có được áp dụng điều khoản loại trừ hay không trên cơ sở đánh giá mức độ ảnh hưởng. 2. Thắt chặt hơn trong các quy định về hoạt động kê khai thông tin. Để tránh những tranh chấp xảy ra trong việc thực hiện quy định của pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin, theo chúng tôi, trước khi giao kết hợp đồng, các bên cần thiết phải lập biên bản ghi rõ những nội dung mà doanh nghiệp bảo hiểm yêu cầu cũng như những thông tin mà bên mua bảo hiểm cung cấp cho doanh nghiệp bảo hiểm. Bởi lẽ, tham gia vào quan hệ kinh doanh bảo hiểm còn có các chủ thể trung gian đó là các đại lý bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, nếu các chủ thể này - vì quyền lợi của mình mà không chú trọng đến việc thực hiện quy định của pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin - có thể gây bất lợi cho doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm. 3. Đối với hoạt động giải thích hợp đồng bảo hiểm. Thứ nhất, HĐBH cần đảm bảo một yếu tố rằng tất cả các điều khoản được nêu phải rõ ràng, dễ hiểu cho bên mua bảo hiểm. Cần phổ biến rộng rãi về quyền được giải thích hợp đồng bảo hiểm trước khi giao kết HĐBH đến quần chúng. Việc được giải thích HĐBH không những giúp người mua bảo hiểm hiểu rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của mình mà còn làm giảm bớt sự đối kháng lợi ích của hai bên khi xảy ra tranh chấp. Thứ hai, bên mua bảo hiểm hoă ̣c có nhu cầu mua bảo hiểm cần được tiếp cận và nâng cao hiểu biết trong lĩnh vực bảo hiểm. Bởi HĐBH là loại hợp đồng khó hiểu do tính chất vốn có của nó. Bên bán bảo hiểm phải cung cấp đủ thông tin liên quan đến sản phẩm bảo hiểm của công ty mình và đại lí bảo hiểm cần làm đúng vai trò với 19 khách hàng, không được có những hành vi làm sai lệch thông tin với khách hàng về sản phẩm bảo hiểm dẫn đến các tranh chấp không đáng có. 4. Nâng cao công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật về hợp đồng bảo hiểm. - Việc thông tin và giáo dục về bảo hiểm cũng như pháp luật bảo hiểm cần được tăng cường và phổ biến rộng rãi (các phương tiện thông tin đại chúng, biên sọan và xuất bản các ấn phẩm có liên quan, biên sọan từ điển bảo hiểm...). - Tạo điều kiện khuyến khích mạng lưới trung gian bảo hiểm phát triển dưới hình thức môi giới bảo hiểm, đại lý độc lập để giúp người dân tiếp cận bảo hiểm một các dễ dàng và bảo vệ quyền lợi của người mua bảo hiểm. Ngoài ra, giữa cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp phải thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ để cùng nhau nắm bắt thông tin. Đồng thời, tăng cường công tác giám sát, cưỡng chế của cơ quan quản lý đối với hoạt động bảo hiểm. Cần phối hợp với Hiệp hội Bảo hiểm thực thi những quy tắc đạo đức nghề nghiệp, đào tạo nguồn nhân lực. Và Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam cần thường xuyên mở các đợt tập huấn nâng cao kiến thức pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo hiểm cho các học viên là cán bộ của các doanh nghiệp bảo hiểm. C. KẾT THÚC. Trong bối cảnh Việt Nam đang tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, từng bước phải mở cửa thị trường theo các hiệp định và cam kết quốc tế, ngành bảo hiểm đang đứng trước thách thức và cơ hội mới. Vì vậy, việc hạn chế những tranh chấp trong hợp đồng bảo hiểm là vấn đề cấp thiết. Để giải quyết được vấn đề cần sự phối hợp của các ban ngành, các cơ quan quản lý có thẩm quyền và sự nhập cuộc của nhà nước. Từ đó, thúc đẩy ngành bảo hiểm phát triển bền vững và vững mạnh hơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan