Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tìm hiểu giá trị truyện đồng thoại tô hoài giai đoạn trước cách mạng tháng tám n...

Tài liệu Tìm hiểu giá trị truyện đồng thoại tô hoài giai đoạn trước cách mạng tháng tám năm 1945

.PDF
73
628
96

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC MẦM NON NGUYỄN THỊ THU HẰNG TÌM HIỂU GIÁ TRỊ TRUYỆN ĐỒNG THOẠI TÔ HOÀI GIAI ĐOẠN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học trẻ em HÀ NỘI – 2017 Â TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC MẦM NON NGUYỄN THỊ THU HẰNG TÌM HIỂU GIÁ TRỊ TRUYỆN ĐỒNG THOẠI TÔ HOÀI GIAI ĐOẠN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học trẻ em Ngƣời hƣớng dẫn khoa học ThS. TRẦN THỊ MINH HÀ NỘI – 2017 LỜI CẢM ƠN Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, các thầy cô giáo khoa Giáo dục Mầm non đã giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình học tập tại trường và tạo điều kiện cho em thực hiện tốt khóa luận tốt nghiệp đại học. Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo - Th.S Trần Thị Minh - người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận với đề tài: “Tìm hiểu giá trị truyện đồng thoại Tô Hoài giai đoạn trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945”. Hà Nội, ngày tháng 04 năm 2017 Sinh viên Nguyễn Thị Thu Hằng LỜI CAM ĐOAN Để hoàn thành khóa luận này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, chúng tôi đã nhận được sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo - Th.S Trần Thị Minh và các thầy cô trong khoa Giáo dục Mầm non. Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Kết quả nghiên cứu là trung thực và không trùng với kết quả của các tác giả khác. Hà Nội, ngày tháng 04 năm 2017 Sinh viên Nguyễn Thị Thu Hằng MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2 3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 5 5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 5 6. Cấu trúc khóa luận ........................................................................................ 5 Chƣơng 1. GIÁ TRỊ NỘI DUNG TRUYỆN ĐỒNG THOẠI TÔ HOÀI GIAI ĐOẠN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945................. 6 1.1. Bức tranh thiên nhiên sinh động, phong phú ............................................. 6 1.2. Hiện thực cuộc sống con người................................................................ 13 1.2.1. Bi kịch về cái đói ................................................................................... 13 1.2.2. Cuộc đời lam lũ của người dân quê sau lũy tre làng ............................ 15 1.2.3. Hồi chuông báo động về những tính cách, lối sống đáng phê phán .... 18 1.2.4. Hoài bão về một cuộc sống tươi đẹp, tự do .......................................... 21 1.3. Những tình cảm cao đẹp .......................................................................... 23 1.3.1. Tình mẫu tử ........................................................................................... 23 1.3.2. Tình vợ chồng ........................................................................................ 25 1.3.3. Tình bạn................................................................................................. 27 Chƣơng 2. GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT TRUYỆN ĐỒNG THOẠI TÔ HOÀI GIAI ĐOẠN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 .............. 31 2.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ................................................................. 31 2.1.1. Nghệ thuật nhân cách hóa .................................................................... 31 2.1.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật thông qua miêu tả ngoại hình, hành động . 33 2.1.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật dựa trên những chi tiết về phong tục ... 36 2.1.4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật thông qua ngôn ngữ ............................. 39 2.1.4.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật thông qua ngôn ngữ người kể chuyện... 39 2.1.4.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật thông qua ngôn ngữ nhân vật ........... 41 2.1.5. Nghệ thuật xây dựng nhân vật thông qua miêu tả tâm lí ...................... 44 2.2. Giọng điệu nghệ thuật .............................................................................. 48 2.2.1. Giọng trữ tình ........................................................................................ 48 2.2.2. Giọng hài hước...................................................................................... 50 2.2.3. Giọng châm biếm .................................................................................. 51 2.3. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện................................................... 53 KẾT LUẬN .................................................................................................... 57 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 59 PHỤ LỤC MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Truyện đồng thoại là một thể loại đã có quá trình phát triển lâu dài, đạt được nhiều thành tựu trong dòng văn học Việt Nam hiện đại. Truyện đồng thoại thường xuyên xuất hiện trong không gian gia đình và lớp học, nó trở thành người bạn thân thiết của tuổi thơ, là nguồn dinh dưỡng tinh thần không thể thiếu trong quá trình trưởng thành của mỗi con người. Với các nhà văn, truyện đồng thoại là một mảnh đất màu mỡ cho họ thỏa sức sáng tạo. Thế kỉ XX đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của nền văn học hiện đại Việt Nam nói chung đặc biệt là dòng văn học hiện thực giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 nói riêng. Những hoàn cảnh đặc biệt của xã hội trong giai đoạn này đã làm xuất hiện đông đảo các nhà văn trẻ đi sâu khai phá, lột tả hiện thực xã hội đương thời với nhiều phương diện, khía cạnh khác nhau. Tô Hoài là một trong các nhà văn trẻ tiêu biểu ấy. Các chặng đường sáng tác của nhà văn gắn bó chặt chẽ với từng bước đi và có đóng góp xuất sắc cho nền văn học hiện đại nước nhà. Thành công trên nhiều thể loại khác nhau như: truyện ngắn, truyện dài, hồi kí, bút kí, tiểu thuyết… nhưng có thể nói những sáng tác trong mảng truyện đồng thoại đã gây được tiếng vang lớn cho Tô Hoài và để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong lòng bạn đọc, nhất là bạn đọc tuổi thơ. Tuy nhiên, qua quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy rằng mảng truyện đồng thoại Tô Hoài giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 vẫn chưa được nghiên cứu thấu đáo và hoàn chỉnh. Vấn đề này vẫn còn những khoảng trống có thể nghiên cứu, bổ sung đầy đủ hơn. Bên cạnh đó, là một giáo viên mầm non trong tương lai cùng với lòng say mê văn chương, tôi muốn thông qua kết quả nghiên cứu của đề tài này giúp các em hiểu và cảm nhận được cái hay, cái đẹp cũng như những bài học sâu sắc trong mỗi câu chuyện đồng thoại. 1 Xuất phát từ những lí do trên, tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Tìm hiểu giá trị truyện đồng thoại Tô Hoài giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945”. Với đề tài này, chúng tôi muốn có được cách tiếp cận đúng đắn với mảng truyện đồng thoại Tô Hoài đồng thời khẳng định tài năng sáng tạo của nhà văn. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Tuy xuất hiện cùng với quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam vào những năm đầu thế kỉ XX và gây được tiếng vang lớn với tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí (Tô Hoài) nhưng lúc này truyện đồng thoại chưa được giới lý luận phê bình đương thời chú ý đến, hoặc có chăng chỉ được nhắc đến như một phần nhỏ trong quá trình sáng tác của các nhà văn nói chung cũng như sự nghiệp văn chương của tác giả Tô Hoài nói riêng. Từ đầu những năm 1960, khi sáng tác của Tô Hoài có vinh dự được đưa vào chương trình giảng dạy và học tập thì những công trình nghiên cứu về truyện của ông ngày càng xuất hiện nhiều hơn với các cấp độ khác nhau. Có thể kể tên một số công trình tiêu biểu của các tác giả sau. Nghiên cứu các tác phẩm của Tô Hoài, khi đi sâu phân tích nghệ thuật viết truyện trong mảng đồng thoại, giáo sư Phan Cự Đệ trong cuốn Nhà văn Việt Nam 1945 - 1975 đã đưa ra những nhận định của mình về tài năng của nhà văn: “Trong các truyện đồng thoại (Con mèo lười, Chim chích lạc rừng, Cá đi ăn thề), Tô Hoài đã phát huy nhân tố tưởng tượng, phần phong phú nhất trong tư duy của các em nhỏ. Truyện đồng thoại của Tô Hoài cũng là sự kết hợp giữa khả năng quan sát loài vật rất tinh tế với một bút pháp miêu tả giàu chất trữ tình và chất thơ. Thiên nhiên ở đây giàu màu sắc rực rỡ, âm thanh náo nức và luôn động rộn ràng, tươi vui, đúng như thị hiếu hàng ngày của tuổi thơ” [xem 1]. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh trong bài Khải luận (Tổng tập văn học Việt Nam, tập 30A) đã khẳng định tài năng viết truyện loài vật của Tô Hoài và 2 chỉ ra ý nghĩa xã hội của những sáng tác ấy: “Tô Hoài là một nhà văn có biệt tài viết về loài vật. Đặt vào hoàn cảnh bấy giờ, ta có thể hiểu được ông muốn nói gì với thanh niên qua câu chuyện vợ chồng gã Chuột Bạch (…) Tô Hoài muốn giục giã thế hệ trẻ bằng những lời tâm huyết của một chú Dế Mèn trước giờ đi xa (…) “O chuột” là một tập truyện độc đáo viết về loài vật. Phải coi đây là sở trường đặc biệt của Tô Hoài” [xem 7]. Nghiên cứu phương diện nội dung trong mảng truyện đồng thoại của Tô Hoài, tác giả Vân Thanh trong Truyện viết cho thiếu nhi dưới chế độ mới đã đưa ra nhận định của mình: “Thế giới loài vật là một nội dung đặc sắc và độc đáo trong văn xuôi Tô Hoài, sáng tác một nhân vật trong thế giới của các nhân vật nhỏ bé giữa thiên nhiên. Ở ngoài tuổi hai mươi, Tô Hoài bộc lộ khả năng đột xuất về nhiều mặt. Đó là khả năng hóa thân vào sự sống của nhân vật và đồng thời đưa lại thế giới nhân vật sự sống của con người” [10,13]. Trong lời giới thiệu cho Tuyển tập Tô Hoài, tác giả Hà Minh Đức đã bắt đầu từ những nhận xét về tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí: “Chú dế nhỏ bé mang bao tâm trạng có ý nghĩa xã hội rộng rãi, ước mơ đổi thay hoàn cảnh, ước mơ về một thế giới đại đồng xa xôi, ở đấy con người được sống trong hòa bình, bình đẳng. Tác phẩm đã thể hiện được thành công chủ đề xã hội thông qua câu chuyện về thế giới cỏ cây, loài vật. Những sự việc cụ thể, những mẩu truyện hồn nhiên với tính chất tuổi thơ trong tác phẩm lại luôn mở ra những liên tưởng phong phú với người lớn về mặt xã hội” [xem 2]. Khi tìm hiểu về Dế Mèn phiêu lưu kí, tác giả Trần Hữu Tá trong Văn học Viêt Nam 1945 - 1975, tập II đã viết: “Dế Mèn phiêu lưu kí là một thành công xuất sắc của Tô Hoài, khẳng định tiếng nói đặc sắc cũng như vị trí văn học độc đáo của ông trong văn học đương thời cũng như trong lịch sử văn học lâu dài sau này. Mỗi đối tượng độc giả - người lớn và trẻ nhỏ - đều có thể tìm thấy ở Dế Mèn phiêu lưu kí những thích thú riêng. Tuổi thơ bị lôi cuốn bởi cốt truyện lí thú lạ lùng, giàu kịch tính, pha trộn cả hiện thực và huyền thoại, 3 bởi thế giới loài vật bé nhỏ gần gũi: chàng Dế Mèn hùng dũng, đường hoàng đáng yêu; anh Dế Trũi cần cù, chung thủy; bác Xiến Tóc trầm lặng chán đời; các chị Cào Cào ồn ào duyên dáng; cô Nhà Trò yếu đuối đáng thương; võ sĩ Bọ Ngựa kiêu căng ngạo mạn; lão Cóc huênh hoang dở hơi; Ếch Cốm Đại vương khệnh khạng thông thái giả… ngần ấy con vật, đông đúc nhốn nháo mà sinh động, quen thuộc đấy mà sao vẫn làm ta ngỡ ngàng” [xem 9]. Tác giả Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn Việt Nam hiện đại đã góp thêm tiếng nói của mình về phương diện nội dung và nghệ thuật khi nghiên cứu các tác phẩm truyện đồng thoại của nhà văn Tô Hoài: “Truyện ngắn của Tô Hoài không những đặc biệt về lời văn, về cách quan sát, về lối kết cấu, mà còn đặc biệt cả về những đầu đề do ông lựa chọn nữa (…) Truyện của ông có những tính chất nửa tâm lý, nửa triết lý, mà các vai lại là loài vật. Mới nghe, tưởng như những truyện ngụ ngôn, nhưng thật không có tính cách ngụ ngôn chút nào: ông không phải một nhà luân lý, truyện của ông không để răn đời. Nó là những truyện tả chân về loài vật, về cuộc sống của loài vật, tuy bề ngoài có vẻ lặng lẽ, nhưng phần trong có lắm cái “ồn ào”, vui cũng có mà buồn cũng có” [xem 8]. Qua những ý kiến trên chúng tôi nhận thấy, dù đứng dưới góc độ nào các nhà nghiên cứu cũng đều hướng tới khẳng định giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật truyện đồng thoại trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Tô Hoài; dù quy mô các công trình nghiên cứu ở cấp độ nào cũng đều đi đến khẳng định vị trí của những truyện đồng thoại cũng như tên tuổi của nhà văn Tô Hoài trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại nói chung và văn học thiếu nhi nói riêng. Cho đến nay, những tác phẩm truyện đồng thoại của ông vẫn giữ sức sống lâu bền trong lòng các em nhỏ bao thế hệ. Vì vậy, với đề tài này, khóa luận mong muốn góp thêm một tiếng nói mới nhằm phát hiện những nét đặc sắc trong truyện đồng thoại Tô Hoài giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 nhìn từ phương diện nội dung và 4 nghệ thuật. Hi vọng, đây sẽ là đề tài có ý nghĩa đối với những ai quan tâm tới truyện đồng thoại nói chung và truyện đồng thoại Tô Hoài nói riêng. 3. Mục đích nghiên cứu - Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật trong truyện đồng thoại Tô Hoài giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 - Qua đó, thấy được ý nghĩa của truyện đồng thoại Tô Hoài đối với việc giáo dục trẻ thơ. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu - Giá trị nội dung của truyện đồng thoại Tô Hoài giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 - Giá trị nghệ thuật của truyện đồng thoại Tô Hoài giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 4.2. Phạm vi nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, chúng tôi khảo sát những tác phẩm sau: - Dế Mèn phiêu lưu kí, (NXB Kim Đồng, 2001) - Truyện đồng thoại, (NXB Kim Đồng, 2005) - Những truyện hay viết cho thiếu nhi, (NXB Kim Đồng, 2012) 5. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp thống kê. - Phương pháp phân tích tác phẩm văn học. - Phương pháp so sánh văn học. 6. Cấu trúc khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, Nội dung của khóa luận được triển khai trong 2 chương: Chương 1: Giá trị nội dung truyện đồng thoại Tô Hoài giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Chương 2: Giá trị nghệ thuật truyện đồng thoại Tô Hoài giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. 5 NỘI DUNG Chƣơng 1 GIÁ TRỊ NỘI DUNG TRUYỆN ĐỒNG THOẠI TÔ HOÀI GIAI ĐOẠN TRƯ C CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 Ớ 1.1. Bức tranh thiên nhiên sinh động, phong phú Bước chân vào thế giới truyện đồng thoại Tô Hoài, ngoài những xúc cảm trào dâng theo nỗi niềm của từng nhân vật, độc giả còn được đắm mình vào trong bức tranh thiên nhiên bốn mùa vừa gần gũi, giản dị vừa hùng vĩ, nên thơ. Thời khắc khi xuân sang, thiên nhiên mang trong mình một vẻ đẹp tươi xanh, nõn nà. Vẻ đẹp ấy cũng hiện lên mơn mởn trong bức tranh xuân mà Tô Hoài dệt lên trong thiên đồng thoại Dế Mèn phiêu liêu ký. Trong cuộc phiêu lưu kỳ thú và đầy mạo hiểm của mình, Dế Mèn cất bước hiên ngang vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để được khám phá và trải nghiệm những điều mới lạ của thế giới đó đây. Tấm thân dạn dày trong gió sương đã có lúc thả mình trong tiết xuân thơ mộng: “Những ngày xuân mới bắt đầu chim hót ơi ới đầu cành. Ánh nắng lụa nõn nà phủ trên thân cây. Những vạt cỏ trở lại non tươi xanh mởn khắp mặt đất, cỏ xuân nhấm ngọt như đường phèn” [xem 3]. Qua những áng văn miêu tả của Tô Hoài, các em như được đắm mình trong một mùa xuân đậm đà phong vị nên thơ, ngạt ngào hương sắc. Để khắc họa vẻ đẹp của mùa xuân, Tô Hoài còn mượn tiếng ca của những cô bướm vàng, bướm trắng, bướm hồng, bướm nhung đang tung tăng bay lượn để viết lên bản nhạc thánh thót, rộn ràng ngân vang trời đất: “Cảnh như vẽ Gió hây hây Đào mỉm miệng 6 Liễu giương mày Bướm nhặng bay Trong bụi Oanh vàng ríu rít Đầu nhà Chim én nhỏ hát hay” [ xem 3] Không chỉ có trong Dế Mèn phiêu lưu kí, khung cảnh mùa xuân cũng được hiện nhiều lần trong các trang đồng thoại khác như Dê và Lợn. Bức tranh xuân đầu tiên xuất hiện khi chú Dê vừa trải qua một biến cố lớn của cuộc đời: “Cu Xược đã đem mẹ Dê đi chọc tiết làm thịt rồi”. Trong nỗi đau quặn thắt của Dê, khung cảnh mùa xuân thật ảm đạm, lạnh lẽo: “ Độ ấy đương là mùa xuân. Nhưng chưa có mưa tới. Cỏ cây đã trút hết lá vàng cho mùa đông năm cũ bây giờ cây cối đứng đợi nước trời, chưa thể trổ được một tấm lá nhỏ. Các bụi tre không lá, trơ những cành rong như bộ xương cá. Cánh đồng khát nước , đất thì nẻ mà cỏ thì cằn” [5,162]. Mùa xuân nơi đây như héo hon, cằn cỗi theo từng tiếng lòng của Dê. Dê ngao ngán nghĩ về một nơi “Chỉ rặt những cỏ cằn, lá úa, những sự trói buộc và những thằng Xược quái ác như ở đây” [5,164]. Trước nỗi chán chường ấy, trong lòng Dê nhen nhóm ý tưởng bỏ trại mà đi để đến một nơi tươi đẹp. Đó chính là: “Ở bên kia đồi, mặt trời hạ xuống, dáng nắng bừng vàng ánh lên một thung lũng xanh mờ. Ở chỗ ấy, cỏ hẳn tốt lắm, cỏ hẳn xanh lắm” [5,165]. Khung cảnh mùa xuân trên mảnh đất mà Dê đang mơ tưởng ở bên kia đồi sao hùng vĩ, nên thơ đến thế. Đó chính là thời khắc chuyển giao giữa ngày và đêm. Bước chuyển mình ấy đã tạo nên một bức tranh xuân kì vĩ, căng tràn nhựa sống. Quyết tâm chạy trốn tới vùng trời mơ ước ấy, Dê vận động người bạn Lợn Ỉn cùng đồng hành với mình. Khi thuyết phục bạn, một lần nữa, hình ảnh mùa xuân bên kia đồi lại hiện lên lấp lánh trong mắt Dê: “Chiều hôm qua, tôi 7 nhìn sang thấy ánh nằng bừng trong cỏ lá xanh rờn và nước ao đầm sáng loáng, hình như bên ấy đương có mùa xuân” [5,170]. Trong khi Dê và Lợn đang sống trong một thế giới tù hãm, sự sống không thể nảy sinh thì khung cảnh bên kia đồi cứ ngồn ngộn xanh rờn như reo vui, gọi mời. Những bất công như giam cầm cả mùa xuân nơi đây khi muôn loài đợi chờ mỏi mòn chưa có lấy một cơn mưa để nhen nhóm sự sống mới. Nơi tự do bên kia đồi mới “đương có mùa xuân”. Trong con mắt Dê, cuộc sống, khung cảnh bên kia đồi mới đẹp tươi đến nhường nào! Cuối cùng thì một cuộc chạy trốn vội vã, đầy hi vọng đã diễn ra giữa Dê, Lợn cùng với Mèo - kẻ cuối cùng lại là một tên phản bội. Trên con đường hối hả tìm đến vùng trời mơ ước, khung cảnh mùa xuân tươi đẹp nơi họ đang đứng như tiếp thêm động lực để họ vững tin tiếp tục cuộc hành trình đầy mạo hiểm: “Gió thổi hiu hiu. Cái gió mát và nhẹ của những đêm cuối xuân. Những cây sồi cao, lá nhỏ reo lên, tiếng lá lách chách vui vui. Sát mặt cỏ, những cây sồi cũng lên tiếng lạt sạt nghe lạ tai. Ông giăng đã lên cao trên đỉnh đầu, tỏa ánh sáng lấp lánh trong chòm lá sồi. Xa xa, những ngọn đồi chập chững ưỡn lưng lên trên vòm trời xám, giát vài ánh sao lóng lánh. Ông giăng đêm mười sáu tròn vành vạnh” [5,188]. Trong phút nghỉ chân sau chặng đường dài, Dê thư thái tắm ánh trăng vàng và thưởng thức bản hòa tấu rộn ràng, nhộn nhịp đang cất lên du dương từ cây cỏ. Dê say sưa cảm nhận một mùa xuân tươi vui, tràn trề nhựa sống khác hẳn chốn nông trại. Bên cạnh những ngày xuân thơ mộng, ngòi bút của Tô Hoài còn khắc họa thiên nhiên mùa hạ một cách ấn tượng khiến độc giả vô cùng thích thú. Đến với tác phẩm Một cuộc bể dâu, độc giả như được trải qua từng cung bậc của cái nắng đặc trưng khi mùa hạ tới qua những câu văn vô cùng chân thực mà sinh động của ông: “Có những buổi trưa, những buổi trưa hè, nắng to. Ngoài vườn cây cối đứng chịu tội trong ánh nắng lửa. Những mảnh lá mướp 8 to bản đều cụp uốn xuống, để lộ ra những cánh hoa màu vàng gắt. Có tiếng vỗ cánh sè sè của những con ong bò vẽ đen bóng, bay rập rờn trong bụi cây tranh” [5, 231]. Với các chất liệu tự nhiên như cây, hoa, ong… Tô hoài đã nhào nặn nên một bức tranh mùa hạ đặc trưng, không bị pha loãng, hòa tan với bất cứ khung cảnh thiên nhiên nào. Tiết trời mùa hạ như rũ bỏ hoàn toàn cái nắng, cái nóng vốn có, ngập tràn không gian hùng vĩ những gió và mây để gọi “mưa ào ạt đến” : “ Mây đến rồi mây đi, mây đến mây lại đi, các tảng mây chuyển vùn vụt. Ấy thế rồi gió nổi lên dạt dào trong các lũy tre” [ 5, 236- 237]. Với sự quan sát tỉ mỉ và tài năng độc đáo của mình, Tô Hoài đã miêu tả bức tranh mùa hạ với tất cả sắc thái đặc trưng của nó, mang đến cho bạn đọc cảm giác gần gũi cũng như cảm nhận đa chiều về bức tranh thiên nhiên quen thuộc trong cuộc sống. Xuân về - hè tới - thu sang, bức tranh mùa thu xinh đẹp dịu dàng nghiêng mình trong từng trang đồng thoại của Tô Hoài. Ông dẫn người đọc bước vào những ngày đầu thu trong veo, thơ mộng: “Mùa thu mới chớm nhưng nước đã trong vắt. Trông thấy cả hòn cuội trắng tinh nằm dưới đáy. Nhìn lại bên ven sông, phong cảnh đổi thay đủ điều ngoạn mục. Cỏ cây và những làng gần núi xa luôn luôn mới” (Dế Mèn phiêu lưu kí, trang 53). Trong thế giới thiên nhiên kì vĩ, tráng lệ của thiên truyện, ta vô tình bắt gặp một ngày chớm thu trong trẻo đến thế qua hình ảnh dòng nước. Tô Hoài đã đặt một hòn cuội trắng tinh nổi bần bật dưới đáy để lột tả dòng nước với vẻ đẹp tinh khôi, thanh khiết ấy. Khung cảnh tươi đẹp ven sông như thổi một làn gió tươi vui vào bức tranh mùa thu có phần lặng lẽ. Đôi chân Mèn cứ ngang tàng bước đi mặc cho gió sương có làm bờ vai rám nắng. Đến một ngày, Mèn ngỡ ngàng nhận ra đất trời lại đã sang thu: “Chẳng còn mấy ngày nữa thì mùa xuân hết. Rồi mùa hạ qua đi, bây giờ hoa sen trong đầm nước đã tàn rồi. Lá ngàn xanh ngắt bắt đầu úa đỏ.Trời đã ngả 9 sang mùa thu” (Dế Mèn phiêu lưu kí, trang 103). Nếu như ngày trước mùa thu được cảm nhận qua dòng nước trong vắt thì giờ đây sắc lá úa đỏ lại gọi mùa thu sang. Màu lá úa đỏ đặc trưng cũng chính là chất liệu để Tô Hoài khắc họa thiên nhiên mùa thu trong tác phẩm Võ sĩ Bọ Ngựa: “Bấy giờ đã vào giữa mùa thu. Nắng dịu dàng xuống màu vàng. Bãi cỏ bắt đầu xơ xác và cằn lại. Những chiếc lá hồng đã úa đỏ” [5, 43]. Bức tranh mùa thu hiện lên có phần ảm đạm bởi sự cằn cỗi của bãi cỏ và màu úa đỏ của những chiếc lá hồng hiu quạnh. Chỉ có ánh nắng mùa thu vẫn dịu dàng, chan hòa như thế. Tạm biệt bức tranh giữa thu đượm buồn trong Võ sĩ Bọ Ngựa, ta cùng nhau đi đến cuối mùa thu trong Ba anh em: “Một ngày cuối thu kia, gió thổi hiu hiu. Nền trời có mây trắng bay. Ngoài lũy lá tre rụng ào ào. Thực là một ngày thu êm và đẹp” [5, 132]. Trong tiết trời cuối thu vạn vật ánh lên một vẻ đẹp thật trong lành và êm ả. Theo dòng tuần hoàn của thiên nhiên, mùa thu êm dịu rồi cũng qua đi để một mùa đông băng giá tràn về. Tô Hoài đã phác họa bức tranh mùa đông đậm đà phong vị đặc trưng để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc: “Thế là mùa rét đã tới. Cánh đồng vắng ngắt, màu xám trên trời và màu xám dưới đất đã liền vào nhau ở giữa có gió suốt đêm ngày. Trẻ con ra ngoài đồng thì lạnh tai và đỏ hắt mũi. Rét quá, rúm cả chân” (Dế Mèn phiêu lưu kí, trang 87). Bức tranh mùa đông hiện ra với vẻ u ám, ảm đạm đến não nề. Trong khi Dế Mèn và cư dân miền Cỏ May vẫn chưa tìm thấy một nơi ẩn náu an toàn, ấm áp thì cái lạnh giá của mùa đông lại càng như khắc nghiệt hơn: “Ngoài đồng, mây đen cuồn cuộn, gió thổi tan tác, mặt đất và gió lùa cái giá buốt vào tận ruột gan, không ai muốn cất bước” (Dế Mèn phiêu lưu kí, trang 88). Bức tranh mùa đông như thử thách, tôi luyện ý chí sắt đá của Dế Mèn, để cuối cùng, Mèn đã gan góc vượt qua tất cả và thực hiện lí tưởng cao đẹp về một thế giới đại đồng. 10 Đối lập với những ngày đông lạnh lẽo trong Dế Mèn phiêu lưu kí là những ngày đông ấm áp đến ngọt ngào trong Võ sĩ Bọ Ngựa: “Một hôm, trời có nắng. Nắng mùa đông ấm áp, dịu dàng làm sao hai mẹ con hong cánh dưới mặt trời” [5, 73]. Dưới tiết trời ấy, mẹ Bọ Ngựa đã nhẹ nhàng chỉ ra những lầm lỗi mà cậu mặc phải trong những ngày mẹ vắng nhà. Bức tranh mùa đông với : “Ánh nắng rung rinh trong lá cây” [5, 74] như bị nhòe đi trong đôi mắt ngấn lệ của chú Bọ Ngựa khi đã nhận ra những lỗi lầm của mình. Nhà văn Tô Hoài đã vẽ nên một khung cảnh mùa đông giản dị mà chất chứa bao tình cảm cao đẹp, giúp độc giả vừa thưởng thức bức tranh thiên nhiên, vừa chiêm nghiệm những đạo lí sống ở đời. Với Đôi Ri Đá, độc giả lại có dịp chiêm ngưỡng bức tranh phong cảnh mùa đông với một vẻ đẹp rất khác: “Bấy giờ là đầu mùa đông. Ngoài ruộng, lúa chín vàng hây. Những bông thóc nếp mập và tươi ong óng, trĩu gù lưng xuống. Màu vàng san sát giải từ cánh đồng làng Nghĩa Đô mênh mông đến tận bờ tre làng Phú Gia” [5, 92]. Mùa đông trong đoạn văn được khắc họa bởi vẻ đẹp của cánh đồng lúa chín đang đến độ thu hoạch. Tông vàng chủ đạo như bao trùm cả đoạn văn, làm nên một vẻ đẹp giàu có, trù phú đối lập với mảnh đời của các nhân vật trong tác phẩm. Bên cạnh thiên nhiên bốn mùa tươi đẹp, ta còn bắt gặp trong những trang đồng thoại của Tô Hoài một thiên nhiên nhuốm màu tâm trạng. Đặt nhân vật trong không gian bức tranh thiên nhiên phảng phất tâm trạng của mình, Tô Hoài đã tạo nên một sự liên tưởng gần gũi, gắn bó giữa thiên nhiên và con người. Ta bắt gặp sự liên tưởng ấy trong các truyện đồng thoại của ông khi nhà văn đặt các nhân vật vào những hoàn cảnh quyết định số phận, sự đổi thay cuộc đời. Khát vọng được ra đi, khám phá những điều kì thú của thế giới đó đây ngày một lớn dần trong Dế Mèn sau cuộc trở về từ thế giới loài người. Đưa đôi mắt khát khao, cháy bỏng hướng ra xa, Mèn cảm thấy thiên nhiên thật bao la kì vĩ: “Khi hoàng hôn xuống, mặt nước phương trời bỗng sáng lên trong 11 giây lát gợi vẻ bao la khêu gợi vô hạn lòng giang hồ” [3, 48]. Miêu tả tâm trạng của “kẻ giang hồ”, Tô Hoài đã mượn bức tranh thiên nhiên lúc chiều tà, với khung cảnh hoàng hôn buông xuống huy hoàng rực rỡ, với mặt nước phương trời ngút ngàn, vô tận. Khung cảnh thiên nhiên được nhìn qua tâm trạng của kẻ giang hồ đang mang trí lớn càng trở nên hùng vĩ như giục giã đôi chân cất bước lên đường. Và rồi, cái ngày lên đường cũng đã đến, sát cánh bên Dế Mèn còn có người em Dế Trũi cùng chung chí hướng, nguyện một lòng sinh tử có nhau. Trong giờ phút dứt áo ra đi để khám phá thế giới ấy, Tô Hoài đã đặt nhân vật vào khung cảnh: “Hôm ấy, nước đầm trong xanh, những áng cỏ mượt rời rợi. Trời đầy mây trắng. Gió hiu hiu thổi như giục giã lòng kẻ ra đi” [3, 50]. Dường như trong niềm hân hoan, phấn khởi khi chí lớn được thực hiện, thiên nhiên được nhìn qua lăng kính của kẻ khao khát vùng vẫy biển khơi trở nên căng tràn nhựa sống, rạng rỡ sắc màu. Đó là màu xanh trong vời vợi của đầm nước, là sức sống ngồn ngộn của áng cỏ “mượt rời rợi”, là màu trắng tinh khôi của vầng mây lững lờ trôi trên bầu trời. Rõ ràng, bức tranh thiên nhiên cảnh vật như một lời thúc giục, động viên quyết tâm của “kẻ ra đi”. Thiên nhiên là động lực, là cảm hứng cho tâm trạng Mèn khi thực hiện quyết định lớn, làm nên bước ngoặt của cuộc đời. Thiên nhiên không phải lúc nào cũng đẹp tươi như thế và tâm trạng Dế Mèn không phải lúc nào cũng hân hoan như ngày cất bước ra đi. Trong cuộc hành trình đầy mạo hiểm, đã có lúc thiên nhiên ủ rũ, thê lương theo từng cơn sóng gió của Dế Mèn. Ngày Mèn từ biệt miền Cỏ May để ra đi tìm người em Dế Trũi, thiên nhiên ảm đạm hiện lên như chính nỗi lòng buồn bã của Dế Mèn: “Bấy giờ đã tàn mùa hoa may từ lâu, trên đồng bãi và bờ ruộng chỉ còn xám mờ những đám gốc rạ và gốc cỏ của trẻ chăn trâu đã nhổ lên, chất đống, để đốt sưởi. Đám khói cỏ xanh ngắt trong vòm trời gió buốt, càng đượm vẻ 12 thê lương” [3, 92]. Khung cảnh thiên nhiên như thay Dế Mèn nói lên nỗi lòng đau đáu về người em Dế Trũi. Không biết giờ này Trũi đang lưu lạc nơi phương trời nào? Trũi có được bình an hay đang là kẻ tù binh khốn khổ? Trũi và Mèn bao giờ mới có ngày hội ngộ? Tất cả nỗi niềm ấy cứ khắc khoải khôn nguôi, bao trọn không gian của một ngày đông buồn. Với sự quan sát tinh tế, tỉ mỉ và tâm hồn nhạy cảm của người nghệ sĩ, Tô Hoài đã dẫn các em tới chiêm ngưỡng những bức tranh thiên nhiên bốn mùa đậm đà phong vị đặc trưng mà nên thơ, sống động; giúp các em cảm nhận một thiên nhiên trĩu nặng những tâm tư, tình cảm của nhân vật. Những áng văn miêu tả đó cũng chính là yếu tố làm nên giọng điệu trữ tình trong các sáng tác của ông đồng thời khẳng định tài năng độc đáo của một nhà văn lớn. 1.2. Hiện thực cuộc sống con ngƣời 1.2.1. Bi kịch về cái đói Khai thác hình thức đồng thoại, Tô Hoài đã khắc họa một cách chân thực, đầy ám ảnh bi kịch về cái đói thông qua phận đời của những loài vật trong các tác phẩm như: Ba anh em, Dê và Lợn, Mèo già hóa cáo, Hai con ngỗng, Dế Mèn phiêu lưu kí… Trong các tác phẩm ấy, cái đói và miếng ăn tuy là câu chuyện của loài vật nhưng vẫn nằm trong mạch cảm hứng của con người bởi chúng đã được nhân cách hóa để trở thành một ẩn dụ của con người trong xã hội. Cũng như nhiều nhà văn đương thời, Tô Hoài quan niệm miếng ăn “là thử thách ghê gớm đã phân hóa tính cách theo hai thái cực hoặc mất cả nhân cách (...) hoặc trở thành những bậc trí thiện” [7, 272]. Chúng ta cùng nhau tìm hiểu xem Tô Hoài đã miêu tả bi kịch xót xa về cái đói và miếng ăn như thế nào ở thái cực thứ nhất - Do đói đến nỗi không còn biết trời đất là gì nữa nên sẵn sàng làm hại kẻ khác miễn là mình có ăn, điển hình cho tính cách này chính là gã Mèo xảo quyệt trong Ba anh em. Mèo bỏ nhà lang bạt đã mấy ngày nên đói lắm, trong cơn đói quằn quại ấy, Mèo trở về nhà và gặp Chó 13 Vện cùng Chó Đen đang rủ nhau bỏ trốn. Cái đói dường như đã lấy đi nhân cách của gã Mèo khiến gã u mê chỉ nghĩ đến việc được thưởng ăn ngon mà nhẫn tâm báo cho lão chủ trại biết cuộc chạy trốn của hai chú Chó. Kết cục hai chú Chó bị bắt về và tiếp tục hứng chịu những trận đòn roi đau đớn. Cũng vì miếng ăn mà hai con Mèo trong Mèo già hóa cáo đã bày trò lừa Chó Nhôm khiến Chó Nhôm bị ông chủ phết cho một trận nên thân. Ở thái cực thứ hai, người đọc bắt gặp trong Dế Mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài cái đói đã làm bừng sáng lên vẻ đẹp cao cả của hình tượng. “Qua ngày mười cả hai chúng tôi không đứa nào còn có thể đứng lên được. Cái đói ghê gớm cứ đánh liệt dần từng bộ phận trong người, bây giờ đến lúc nó làm dúm kheo lại, chân run lẩy bẩy lại phải nằm móp bụng xuống” [2, 56]. Trước tình thế éo le này, tấm lòng của Dế Trũi với Dế Mèn hiện ra cao cả, cảm động: “Chú cứ khẩn khoản chìa đôi càng lên mời tôi ăn”. Tấm lòng cao cả của Dế Trũi và hành động từ chối kiên quyết của Dế Mèn đã thắp sáng lung linh một tình bạn cao đẹp. Cái đói thực sự là một thử thách mà tình bạn của Dế Trũi và Dế Mèn được thử lửa càng thêm sâu sắc, bền chặt. Không làm tha hóa nhân cách, cũng không khiến nhân vật trở thành những bậc trí thiện, đôi khi cái đói đơn thuần hiện lên khắc khoải như một nấc thang tột cùng nỗi khổ của loài vật. Chẳng hạn như trong xóm đầm lầy của Đại vương Ếch Cốm trong Dế Mèn phiêu lưu ký, anh em Dế Mèn và Dế Trũi xót xa khi nhận ra “Nước hồ lâu mưa thì trong vắt, chỉ đẹp mắt mà không có thứ gì ăn, nên cư dân trong hồ đói lắm” [2, 61]. Đọc Chuột thành phố, chúng ta không khỏi bị ám ảnh về lũ chuột đói mèm phải ăn cả xà phòng, dây giày và thường xuyên uống nước lã. Từ việc miêu tả sự gian nan tranh đấu để kiếm miếng ăn của loài chuột, nhà văn đã đưa người đọc tiếp cận hình ảnh ngôi nhà mà ở đó “chĩnh gạo không, chai nước mắm không”. Sự hiện diện của cuộc sống con 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất