LỜI MỞ ĐẦU
Quyền hiến xác, bộ phận cơ thể là một quyền nhân thân vô cùng quan trọng. Nó
thể hiện được tính nhân đạo nhân văn sâu sắc của pháp luật nước ta. Đây là một
quyền năng đặc biệt lần đầu tiên được quy định chính thức tại điều 34 bộ luật dân sự
Việt Nam 2005. Đó là một bổ sung quan trọng nhằm mục đích phục vụ việc nghiên
cứu khoa học đặc biệt là ngành y phục vụ giảng dạy và chữa bệnh cứu người. Tuy
nhiên việc áp dụng luật hiến xác trong thực tế còn gặp nhiều khó khăn và gây nhiều
tranh cãi. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề nên nhóm em đã chọn nghiên
cứu đề tài “ Tìm hiểu 03 vụ việc liên quan đến việc tranh chấp về quyền hiến xác
và bộ phận cơ thể sau khi chết” nhằm làm sáng tỏ một phần vấn đề đó trong thực tế.
NỘI DUNG
I.
Cơ sở lí luận chung về quyền hiến xác,bộ phận cơ thể sau khi chết.
Trên thực tế ta đã chứng kiến nhiều ca ghép nội tạng thành công đã cứu giúp rất
nhiều người dành lại sự sống. Tuy nhiên trước đây do trình độ khoa học chưa phát
triển nên vấn đề hiến xác chưa được quan tâm. Mãi đến năm 1989 luật bảo vệ sức
khỏe nhân dân ra đời có đề cập đến vấn đề hiến xác nhưng chỉ dừng lại ở việc quy
định các trường hợp bác sĩ sẽ tiến hành lấy mô và bộ phận cơ thể người mà chưa quy
định rõ quyền và thủ tục cho chủ thể hiến.
Hiến xác, bộ phận cơ thể được chính thức trở thành một quyền nhân than quan
trọng khi được quy định rõ ràng tại điều 33, 34 Bộ luật dân sự Việt năm 2005. Để
tăng cường hành lang pháp lí nhằm bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật cũng như
quyền lợi tối đa của chủ thể hiến. Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản pháp luật
điều chỉnh về việc hiến xác, hiến bộ phận cơ thể người mà tiêu biểu là Luật Hiến, lấy,
ghép mô, bộ phận cơ thể và hiến, lấy xác năm 2006, trong đó có quy định cụ thể về
điều kiện hiến xác; bộ phận cơ thể khi còn sống cũng như điều kiện hiến mô, bộ phận
cơ thể sau khi chết.
1. Một số khái niệm.
- Bộ phận cơ thể người là một phần của cơ thể được hình thành từ nhiều loại mô
khác nhau để thực hiện các chức năng sinh lý nhất định.
1
- Hiến mô, bộ phận cơ thể người là việc cá nhân tự nguyện hiến mô, bộ phận cơ
thể của mình khi còn sống hoặc sau khi chết.
2. Các quy định về chủ thể hiến.
Theo quy định tại Điều 5 Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến
lấy xác “ Người từ đủ mười tám trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền
hiến mô, bộ phận cơ thể mình khi còn sống, sau khi hiến xác”.
Các quy định của pháp luật về điều kiện cho chủ thể hiến tập trung vào hai tiêu chí
là điều kiện tuổi và năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
Điều kiện sức khỏe của chủ thể hiến không được quy định một cách rõ ràng vì trên
thực tế điều đó cũng không cần thiết vì thường khi người đó gặp vấn đề về sức khỏe
thì họ mới nghĩ đến việc hiến xác. Nếu với mục đích là dùng cho nghiên cứu khoa học
thì điều kiện sức khỏe của chủ thể hiến là không quan trọng, chỉ khi nào mục đích là
chữa bệnh cứu người thì người hiến không được mắc các bệnh truyền nhiễm như
HIV, viêm gan B,…
Điều kiện về tuổi và năng lực hành vi, pháp luật quy định hai trường hợp:
- Nếu một người đăng kí hiến sau khi chết khi họ phải thỏa mãn yêu cầu về độ
tuổi và năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật ( theo điều 5 luật
75/2006).
- Nếu một người không đăng kí hiến bộ phận cơ thể sau khi chết thì cơ bản sẽ
không có cuộc phẫu thuật nào để lấy bộ phận cơ thể họ. Tuy nhiên, ngoại lệ vẫn có
thể được áp dụng đối với những chủ thể này nếu có sự đồng ý bằng văn bản của cha
mẹ hoặc người giám hộ của người đó hoặc vợ hoặc chồng, hoặc đại diện các con đã
thành niên của người đó. Bất kì ai cũng có thể trở thành chủ thể hiến nếu thuộc các
trường hợp trên mà không chịu bất kì một áp lực nào.
3. Quy định về trình tự thủ tục hiến.
Do hiến xác và các bộ phận là một quyền nhân thân quan trọng nên việc hiến các
chủ thể phải tuân thủ nghiêm ngặt theo các quy định của pháp luật. Theo khoản 1,
Điều 12 luật hiến xác 2006 quy định:“ Người có đủ điều kiện quy định tại Điều 5 của
Luật này có quyền bày tỏ nguyện vọng hiến mô, bộ phận cơ thể của mình với cơ sở y
tế”.
2
Sau khi được thông báo về trường hợp hiến mô, bộ phận cơ thể người, trung tâm
điều phối quốc gia về ghép bộ phận cơ thể người có trách nhiệm thông báo cho cơ sở
y tế quy định tại Điều 16 luật này để tiến hành các thủ tục đăng kí cho người hiến.
Khi nhận thông báo của Trung tâm điều phối quốc gia về ghép bộ phận cơ thể
người, cơ sở y tế quy định tại Điều 16 luật 75/2006 này có trách nhiệm như sau:
- Trực tiếp gặp người hiến để tư vấn về các thông tin có liên quan đến hiến, lấy
mô, bộ phận cơ thể người.
- Hướng dẫn việc đăng kí hiến theo mẫu đơn, thực hiện việc kiểm tra sức khỏe
cho người hiến.
- Cấp thẻ đăng kí hiến mô, bộ phận cơ thể người sau khi chết.
Như vậy, việc đăng kí hiến mô, bộ phận cơ thể người sau khi chết có hiệu lực kể từ
người đăng kí được cấp thẻ đăng kí hiến. trường hợp muốn thay đổi hoặc hủy bỏ đơn
đăng kí hiến mô, bộ phận cơ thể ở người sau khi chết hoặc hiến xác thì người đã đăng
kí hiến gửi đơn đề nghị thay đổi hoặc hủy bỏ đến cơ sở y tế hoặc cơ sở tiếp nhận và
bảo quản xác của người hiến tiếp nhận đơn đăng kí hiến.
4. Các nguyên tắc về việc hiến mô, bộ phận cơ thể và xác sau khi chết (Điều 4
luật 75/2006)
a) Nguyên tắc tự nguyện.
Đây là một nguyên tắc quan trọng hàng đầu và là điều kiện cần thiết cho hoạt động
hiến xác và các bộ phận cơ thể. Xuất phát từ việc hiến xác,bộ phận cơ thể là một
quyền nhân thân quan trọng gắn liền với con người nên trong hoạt động này nhất thiết
phải có sự đồng ý của các chủ thể hiến trên cơ sở tự nguyện một cách hoàn toàn. Có
nghĩa là: quyết định hiến xác, bộ phận cơ thể của cá nhân phải được đưa ra trong tình
trạng hoàn toàn bình thường, minh mẫn, sáng suốt không chịu bất cứ một áp lực bên
ngoài tác động vào.
b) Nguyên tắc vì mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa
học.
3
Do hoạt động hiến xác, bộ phận cơ thể người là một hoạt động xuất phát trên tinh
thần tự nguyện nhằm hướng tới mục đích nhân đạo cao cả là phục vụ cho nghiên cứu
khoa học và chữa bệnh cứu người nên bên cạnh pháp luật căn cứ vào sự tự nguyện
của chủ thể hiến thì phải có những quy định khắt khe trong việc tiến hành nhận xác và
các bộ phận cơ thể. Tức là không thể tự ý xâm hại đến cơ thể một người một cách tùy
tiện mặc dù họ đã đồng ý hiến. Sự can thiệp này chỉ hợp pháp khi mục đích của nó
mang tính nhân đạo, phục vụ cho lợi ích cộng đồng và được tiến hành trên tinh thần
phi lợi nhuận.
c) Nguyên tắc phi lợi nhuận (không nhằm mục đích thương mại)
Nội dung của nguyên tắc này là không trả tiền cho việc hiến bộ phận cơ thể người.
Chủ thể hiến không có quyền đòi hỏi bất kì sự trả giá nào cũng như phép nhận thù lao
dưới bất kì hình thức nào từ hành vi hiến xác, các bộ phận cơ thể của mình. Người
được nhận để được cấy ghép, sử dụng trong nghiên cứu giảng dạy không phải trả bất
cứ một khoản chi phí nào cho chủ thể hiến. Có thể lí giải cho nguyên tắc này dựa trên
hai điểm. Thứ nhât, xác và bộ phận cơ thể là các yếu tố gắn liền với con người, nên
quyền hiến xác, bộ phận cơ thể là một quyền nhân thân quan trọng được pháp luật
thừa nhận và bảo vệ. Chính vì vậy xác người và bộ phận cơ thể không phải là tải sản
có thể đem trao đổi trong giao dịch dân sự để định đoạt giá cả. Thứ hai, chủ thể hiến
dự trên tinh thần tự nguyện hoàn toàn không đòi hỏi bất cứ một lợi ích nào cho nghĩa
cử của mình. Việc pháp luật quy định nguyên tắc này đã tạo một thành trì chống lại
mọi hành vi vi phạm có tổ chức đối với xác và bộ phận cơ thể người đặc biệt là hoạt
động buôn bán nội tạng người xuyên quốc gia. Đây là một nguyên tắc cơ bản bao
trùm ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam.
d) Nguyên tắc vô danh
Nội dung của nguyên tắc này là mọi thông tin về người hiến nhận, đều phải được
tuyệt đối giữ bí mật, trừ trường hợp có sự thỏa thuận giữa hai bên theo quy định của
pháp luật. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo sự ổn định các mối quan hệ xã hội, tránh
mọi hoạt động thương mại trao đổi giữa các chủ thể đồng thời bảo vệ tuyệt đối đời
sống riêng tư cá nhân.
Mặc dù nhà nước đã cố gắng hoàn thiện hệ thống pháp luật về vấn đề này nhưng
trên thực tế đời sống việc áp dụng các quy định lại có những bất cập, tranh chấp xung
4
quanh việc hiến xác và các bộ phận cơ thể. Dưới đây là 03 vụ việc xảy ra có liên quan
đến việc tranh chấp về quyền hiến xác, bộ phận cơ thể con người sau khi chết mà
nhóm em tìm hiểu để làm rõ hơn về các quy định của pháp luật đối với thực tế xã hội.
II.
Ba vụ việc liên quan đến việc tranh chấp về quyền hiến xác và bộ phận
cơ thể sau khi chết.
1. Vụ việc thứ nhất:
a, Tóm tắt vụ việc:
Ông Nguyễn Văn Phong, sinh năm 1947, từng sinh sống tại quận Phú Nhuận,
thành phố Hồ Chí Minh. Ông là cán bộ về hưu, sống một mình tại Việt Nam. Ông có
một người con trai tên Nguyền Văn Minh sinh năm 1970 hiện đang cùng vợ định cư
bên nước Nga. Do điều kiện làm việc ở xa nên mỗi năm anh Minh chỉ về thăm ông
Phong được 1 lần. Ngày 23 tháng 6 năm 2009 ông có đến tại bệnh viện Chợ Rẫy,
201B Nguyễn Chí Thanh, Quận 5 để xin được hiến xác cho y bệnh viện sau khi chết.
Và sau đó ông đã làm các bước thủ tục cần thiết theo quy định và đã được cấp thẻ
hiến xác. Ngày 4/09/2010, ông Phong bị phát hiện ung thư giai đoạn cuối và chuyển
vào đang tại bệnh viện Chợ Rẫy. Trước khi ông Phong chết, Bệnh viện Chợ Rẫy đã
gửi giấy về cho gia đình ông Phong đồng thời tìm cách liên lạc với con trai ông Phong
là anh Nguyễn Văn Minh để nói về việc hiến xác của ông Nguyễn Văn Phong. Ngày
23/11/2010 do bệnh tình quá nặng nên ông Phong đã mất tại bệnh viện Chợ Rẫy. Để
thực hiện di nguyện hiến xác của ông Phong bệnh viện Chợ Rẫy đã tiến hành các thủ
tục cần thiết theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên khi nghe tin ông Nguyễn Văn
Phong mất, anh Nguyễn Văn Minh đã cùng gia đình về chịu tang bố. Anh Nguyễn
Văn Minh muốn đem tử thi của ông Phong đi hỏa thiêu để mang sang Nga thờ cúng.
Tại thời điểm hiện tại, bệnh viện Chợ Rẫy đã làm xong thủ tục hiến xác cho ông
Phong và chuẩn bị nhận xác ông để bảo quản phục vụ nghiên cứu nên không chấp
nhận yêu cầu của anh Minh. Vì muốn nhận lại tử thi của ông Nguyễn Văn Phong,
ngày 30/11/2011 anh Nguyễn Văn Minh đã làm đơn khởi kiện bệnh viện Chợ Rẫy lên
tòa án quận Phú Nhuận Với lí do, theo anh lúc bố anh còn sống anh chưa từng biết bố
anh(tức ông Phong) có ý định hiến xác. Anh vô cùng bức xúc và mong muốn cơ quan
có thẩm quyền giải quyết vụ việc này để anh có thể tiến hành ma chay, phúng viếng
cho người cha theo đúng nghi thức cổ truyền dân tộc.
5
b, Nội dung giải quyết:
Như vậy nơi xảy ra vụ tranh chấp là tại quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh.
Bên nguyên đơn là anh Nguyễn Văn Minh con trai của ông Nguyễn Văn Phong,
hiện đang công tác tại nước ngoài
Bên bị đơn là bệnh viện Chợ Rẫy (địa chỉ 201B, Nguyễn Chí Thanh, Quận 5,
thành phố Hồ Chí Minh) nơi tiếp nhận thủ tục hiến xác của ông Nguyễn Văn Phong.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ trực tiếp liên quan: ông Nguyễn Văn Phong, sinh
năm 1947, từng sống tại quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh.
Quyết định của tòa án:
Sau một thời gian xem xét và tiến hành điều tra vụ tranh chấp tòa án nhân dân
quận Phú Nhuận đã ra quyết định đối với vụ việc trên như sau:
Thứ nhất, tòa chấp nhận đơn kiện của anh Nguyễn Văn Minh với bệnh viện Chợ
Rẫy. Và giải quyết vụ án theo di nguyện của ông Nguyễn Văn Phong.
Thứ hai, tòa quyết định bệnh viện Chợ Rẫy vẫn có quyền tiếp tục hoàn thành thủ
tục hiến xác cho ông Phong đồng thời nhanh chóng tiếp nhận xác ông Nguyễn Văn
Phong để làm công tác bảo quản xác theo đúng quy trình của khoa học.
Thứ ba, bệnh viện Chợ Rẫy phải kết hợp với gia đình anh Nguyễn Văn Minh tổ
chức lễ truy điệu cho ông Phong theo khoản 2 điều 24: “Kinh phí tổ chức tang lễ và
mai táng di hài do ngân sách nhà nước chi trả theo quy định của Bộ trưởng Bộ tài
chính” . Mặt khác ông Phong được truy tặng kỉ niệm chương về sức khỏe cộng đồng
của Bộ trưởng bộ Y Tế theo điều 25 luật 75/2006.
c, Nhận xét của nhóm về cách giải quyết của tòa án nhân dân quận Phú
Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh:
Nhóm chúng em đồng ý với cách giải quyết của tòa án quận Phú Nhuận. Phân tích
vụ việc ta nhận thấy phán quyết của tòa án Phú Nhuận là hoàn toàn chính xác khi
đồng ý cho bệnh viện Chợ Rẫy có quyền sử dụng tử thi của ông Nguyễn Văn Phong
phục vụ cho việc chữa bệnh cứu người và nghiên cứu khoa học vì đã thỏa mãn các
yêu cầu của pháp luật.
Theo quy định tại Điều 5 luật số 75/2006 về việc hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ
thể người, hiến xác sau khi chết quy định “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên, có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn
sống, sau khi chết và hiến xác.” Việc ông Nguyễn Văn Phong đăng kí thủ tục hiến
xác đáp ứng mọi điều kiện do pháp luật đặt ra đối với chủ thể hiến xác và các bộ phận
6
cơ thể. Thời điểm ông Phong đăng kí hiến xác với bệnh viện Chợ Rẫy vào ngày
23/6/2009 tức là trước thời điểm ông mắc bệnh ung thư và chết là hơn một năm. Điều
đó chứng tỏ rằng lúc ông đề đạt trình bày nguyện vọng hiến xác của mình trên cơ sở
tự nguyện với đủ điều kiện về tuổi và năng lực hành vi dân sự, đặc biệt khi kí các thủ
tục đăng kí hiến xác ông Phong không chịu bất cứ một áp lực từ phía bên ngoài tác
động vào. Tại Điều 34 bộ luật Dân sự 2005 quy định “ Quyền hiến xác, bộ phận cơ
thể sau khi chết. Cá nhân có quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của mình sau khi chết vì
mục đích chưa bệnh cho người khác hoặc nghiên cứu khoa học. Việc hiến và sử dụng
xác, bộ phận cơ thể được thực hiện theo quy định của pháp luật.” Như vậy theo quy
định của bộ Luật Dân sự đã nhấn mạnh hiến xác sau khi chết là một quyền nhân thân
quan trọng. Chính vì vậy quyết định hiến xác dựa trên tinh thần tự nguyện của mỗi
chủ thể. Tham chiếu vào sự việc trên ta thấy ông Nguyễn Văn Phong đã chủ động đến
bệnh viện Chợ Rẫy xin làm thủ tục hiến xác. Điều đó chứng tỏ trước khi quyết định
hiến xác ông Phong đã có sự tìm hiểu về quy định về hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi
chết. Ông Phong đã có một sụ chuẩn bị khá kĩ càng về tâm lí trước khi quyết định
hiến xác. Mặt khác giữa ông Nguyễn Văn Phong và bệnh viện Chợ Rẫy đã có những
thỏa thuận về mặt thủ tục pháp lí thông qua tình tiết ông Phong đã hoàn thành tất cả
thủ tục hiến xác của mình sau khi chết. Từ thời điểm ngày 23/6/2009 đến ngày
23/11/2011 ông Nguyễn Văn Phong không làm thủ tục thay đổi, hủy bỏ việc hiến mô
bộ phận cơ thể, hiến xác sau khi chết. Điều đó chứng tỏ ông Phong đã quyết tâm hiến
xác cho bệnh viện Chợ Rẫy nhằm mục đích phục vụ chữa bệnh cứu người và nghiên
cứu khoa học.
Bên cạnh đó, trước thời điểm ông Phong chết bệnh viện Chợ Rẫy đã gửi mẫu đơn
đăng kí hiến xác của ông Phong về gia đình và tìm cách liên lạc với anh Nguyễn Văn
Minh – con trai của ông Phong biết về tình trạng sức khỏe của ông Phong. Tuy nhiên
anh Minh và gia đình không hề có một hành động phản hồi phúc đáp lại bệnh viện
Chợ Rẫy. Việc anh Minh đòi xin lại tử thi của ông Phong xuất phát từ truyền thống
gia đình người Việt từ lâu đời nhưng lại không phù hợp với quy định của pháp luật và
di nguyện người của người chết là ông Phong. Xuất phát từ việc hiến xác sau khi chết
là một quyền nhân thân gắn liền với con người, do chính cá nhân đó xác lập và không
thể chuyển giao quyền đó cho bất kì ai và không hề bị lệ thuộc vào một chủ thể hoặc
một yếu tố bên ngoài tác động vào. Việc đăng kí hiến xác sau khi chết của ông
Nguyễn Văn Phong được xác lập hoàn toàn trên sự tự nguyện mà không liên quan đến
ý chí của bệnh viện. Bệnh viện một mặt đã hoàn thành thủ tục cần thiết cho ông
7
Phong theo quy định của luật định măt khác còn liên lạc với người nhà của ông Phong
để giải trình về trường hợp của ông phong đẻ tránh sự tranh chấp về sau. Từ những
phân tích trên nhóm chúng em hoàn toàn đồng ý với phán quyết của tòa vì bên cạnh
quyết định tính đúng đắn của pháp luật cũng như nêu cao sự cống hiến từ nghĩa cử
cao đẹp của ông Phong.
2. Vụ việc thứ hai:
a, Tóm tắt vụ việc:
Nữ y tá Nguyễn Thị Phương Thanh sinh năm 1960, công tác tại bệnh viện Việt
Nam- Ba Lan, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Y tá Nguyễn Thị Phương Thanh có
nguyện vọng được hiến xác cho bệnh viện Việt Nam- Ba Lan sau khi chết nhằm mục
đích cứu chữa cho các bệnh nhân đang cần ghép mô và nội tạng. Tuy nhiên ngày
23/09/2009 do bị nhồi máu cơ tim nên y tá Nguyễn Thị Phương Thanh đã chết tại
Khoa hồi sức cấp cứu tại bệnh viện. Trước khi chết, y tá Nguyễn Thị Phương Thanh
không kịp hoàn tất thủ tục hiến xác của mình với bệnh viện VN-BL mà chỉ kịp trăn
trối về nguyện vọng hiến xác với các đồng nghiệp tai phòng cấp cứu bệnh viện VNBL. Ngày 25/09/2009 bệnh viện VN-BL tiến hành nhận xác bà Nguyễn Thị Phương
Thanh để làm thủ tục hiến xác và bảo quản tử thi. Tuy nhiên gia đình bà Nguyễn Thị
Phương Thanh phản đối kịch liệt, không cho bệnh viện đem xác bà Thanh đi. Theo
gia đình bà Thanh, họ không hề biết ý định hiến xác của bà Thanh cũng như không
thấy một giấy tờ chứng nhận cho việc bà Thanh đăng kí hiến xác sau khi chết. Vì
muốn giữ lại thi thể của bà Thanh để tiến hành thủ tục mai táng, gia đình bà Thanh đã
viết đơn kiện bệnh viện VN-BL lên tòa án Nhân dân thành phố Vinh.
b, Nội dung giải quyết:
Như vậy vụ tranh chấp diễn ra tai thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An liên quan đến
quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết
Bên nguyên đơn là gia đình bà Nguyễn Thi Phương Thanh.
Bên bị đơn là bệnh viện Việt Nam- Ba Lan – đơn vị trực tiếp tiếp nhận xác của bà
Thanh sau khi chết.
Chủ thể liên quan trực tiếp tới vụ việc là bà Nguyễn Thi Phương Thanh, sinh năm
1960. từng là y tá công tác tại Bệnh viện VN-BL.
Quyết định của tòa án:
8
Tòa án nhân dân thành phố Vinh chấp nhận đơn kiện của gia đình bà Nguyễn Thị
Phương Thanh với bệnh viện Việt Nam- Ba Lan về vụ việc tranh chấp di hài của bà
Thanh.
Thứ hai, căn cứ vào điểm c khoản 2 điều 20 luật số 75/2006:” Trường hợp không
có thể hiến mô, bộ phận cơ thể, người sau khi chết thì việc lấy phải được sự đồng ý
bằng văn bản của cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó hoặc vợ chồng hoặc đại
diện các con đã thành niên của người đó”, tòa quyết định cho gia đình bà Nguyễn Thị
Phương Thanh nhận lại xác của bà Thanh để tiến hành ma chay, chôn cất theo đúng lễ
nghi truyền thống.
c, Ý kiến của nhóm về cách giải quyết của tòa án thành phố Vinh:
Mặc dù tòa án thành phố Vinh đã giải quyết hoàn toàn phù hợp với các quy định
của pháp luật, nhưng theo nhóm chúng em tòa án nên đồng ý cho y tá Nguyễn Thị
Phương Thanh thực hiện được nguyện vọng của mình là sau khi chết được hiến xác
cho y học. Bởi vì:
Thứ nhất, theo quy định tại điều 5, luật số 75/2006 về hiến, lấy, ghép mô, bộ phận
cơ thể, và hiến xác sau khi chết đã quy định “ Người từ đủ mười tám tuổi trở lên, có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn
sống, sau khi chết và hiến xác”. Y tá Nguyễn Thị Phương Thanh có đủ điều kiện về
độ tuổi và có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Tại điều 33 Bộ luật dân sự năm 2005
quy định: “Cá nhân có quyền hiến bộ phận cơ thể của mình vì mục đích chữa bệnh
cho người khác hoặc nghiên cứu khoa học.” Hơn nữa theo quy định tại Điều 34, bộ
luật Dân sự đã nhấn mạnh quyền hiến xác là một quyền nhân thân gắn liền với chủ thể
được xác lập phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí của chủ thể, quyền này không bao giờ
được chuyển nhượng hoặc được xác lập theo sự điều khiển sắp đạt của người khác. Ở
đây, nữ y tá Nguyễn Thị Phương Thanh có nguyện vọng hiến xác trong điều kiện
hoàn toàn khỏe mạnh, minh mẫn không chịu bất kì một tác động nào từ bên ngoài tác
động vào. Ý định hiến xác sau khi chết của bà Thanh là hoàn toàn tự nguyện nhằm
mục đích nhân đạo cứu người. Hiện nay, ở nước ta có rất nhiều người đang cần ghép
bộ phận cơ thể để được cứu sống. Theo con số thống kê của Vụ pháp chế, Bộ Y tế
cho biết: Nhu cầu được ghép mô, bộ phận cơ thể người rất lớn và ngày càng
tăng. Cả nước hiện có 5000-6000 người suy thận mãn cần được ghép thận.
Thứ hai, xét về điều kiện ngoại cảnh tác động lên vụ việc là việc bà Thanh qua đời
đột ngột do nhồi máu cơ tim nên không kịp hoàn tất thủ tục pháp lí liên quan đến việc
9
hiến xác của bà Thanh. Trên thực tế bệnh viện Việt Nam- Ba Lan không thể đưa ra
bất cứ một giấy tờ pháp lí nào có thể chứng minh cho việc bà Thanh đã đăng kí hiến
xác sau khi chết. Bởi theo quy định tại điều 19 luật số 75/2006 quy định về trình tự
thủ tục hiến xác “Điều 19. Thủ tục đăng ký hiến xác.”
1. Người có đủ điều kiện quy định tại Điều 5 của Luật này có quyền bày tỏ nguyện
vọng hiến xác với cơ sở y tế.
2. Khi nhận được thông tin của người có nguyện vọng hiến xác, cơ sở y tế có trách
nhiệm thông báo cho cơ sở tiếp nhận và bảo quản xác của người hiến quy định tại
Điều 23 của Luật này.
3. Khi nhận được thông báo về trường hợp hiến xác, cơ sở tiếp nhận và bảo quản
xác của người hiến có trách nhiệm sau đây:
a) Trực tiếp gặp người hiến để tư vấn về các thông tin có liên quan về hiến xác;
b) Hướng dẫn việc đăng ký hiến theo mẫu đơn;
c) Cấp thẻ đăng ký hiến xác cho người hiến.
4. Việc đăng ký hiến xác có hiệu lực kể từ khi người đăng ký được cấp thẻ đăng ký
hiến.
5. Bộ trưởng Bộ Y tế quy định mẫu đơn đăng ký hiến xác; việc tư vấn cho người
hiến xác.
Pháp luật nước ta quy định rất chặt chẽ về thủ tục trình tự cho việc hiến xác nhằm
bảo vệ tối đa quyền lợi của người tham gia hiến xác đồng thời tạo một hành lang pháp
lí an toàn ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật. Điều bất lợi trong vụ việc này là
bà Thanh chưa kí xác nhận một thủ tục hiến xác nào với bệnh viện Việt Nam- Ba
Lan, cũng như bà Thanh chưa bao giờ nói cho gia đình mình về ý định hiến xác của
mình. Chính chi tiết này đã làm phát sinh tranh chấp giữa các chủ thể có liên quan.
Tuy nhiên bên cạnh nhìn nhận vấn đề theo cách trên ta có thể nhìn nhận vấn đề một
cách tổng quan hơn. Hiến xác là một di nguyện trước khi chết của bà Thanh tuy nhiên
do hoàn cảnh điều kiện khách quan mà bà Thanh đã không cụ thể hóa được ý nguyện
của mình thành các căn cứ pháp lí thực tế như đơn xin hiến xác sau khi chết... Vấn đề
10
đặt ra ở đây liệu nên chăng cách giải quyết của tòa còn chưa thỏa đáng được một số
vấn đề nêu trên. Vẫn biết phải căn cứ vào các chứng cứ pháp lí, những quy định của
pháp luật để dẫn tới quyết định một vụ việc. Trong khi còn rất nhiều người cần được
cứu sống, nhiều trường Đại học Y thiếu xác người để phục vụ cho việc giảng dạy và
nghiên cứu khoa học, vậy tại sao chúng ta lại bỏ phí những cơ hội có thể mang lại sự
sống, và việc nghiên cứu giảng dạy sẽ tốt hơn.
3. Vụ việc thứ ba.
a) Tóm tắt vụ việc: Em Nguyễn Văn Đức (sinh năm 1989, trú tại xã Nghi Phong,
huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An), sinh ra lành lặn như những đứa trẻ cùng trang lứa.
Tuy nhiên, khi em lên lớp 5, một sáng kia thức dậy, toàn thân em đau buốt, không thể
đi lại được. Bố mẹ đưa em vào bệnh viện huyện để khám thì phát hiện em bị giãn dây
chằng vùng xương chậu. Mặc dù, đã hết sức chạy chữa, nhưng bệnh tình của Đức
ngày càng nặng. Sau đó, em được bố mẹ đưa đến một bệnh viện ở Hà Nội và được
chuẩn đoán lao xương. Càng chữa trị, bệnh tình của Đức càng nặng hơn. Từ những
cơn đau vùng xương chậu đã bắt đầu lan xuống đầu gối, rồi đến cổ chân và toàn thân.
Đức được chuyển xuống bệnh viện Lao- phổi Nghệ An điều trị từ năm 2008. Tại
đây, Đức được các bác sĩ chuẩn đoán: Viêm đa khớp, viêm xương. Hơn mười năm
nay nằm bất động tại chỗ, tất cả các công việc vệ sinh cá nhân, ăn uống đều từ bàn tay
của mẹ. Nhưng may mắn là đầu óc của Đức vẫn tỉnh táo. Trong thời gian điều trị, em
có đưa ra nguyện vọng và bàn bạc với mẹ về vấn đề hiến các bộ phận khỏe mạnh của
cơ thể mình cho bệnh viện để giúp đỡ những người khác. Mẹ em đồng ý và bệnh viện
Lao-phổi Nghệ An đã tiến hành các thủ tục cho em. Đến ngày 9/4/2009, Đức hoàn
thành các thủ tục hiến các bộ phận cơ thể và nhận được thẻ. Một năm sau, khi sức
khỏe ngày càng yếu, Đức thay đổi ý định, em muốn mình khi chết đi vẫn lành lặn,
được hỏa táng và trở về ngôi nhà của mình với bố mẹ. Ngày 10/9/2010, Đức cùng mẹ
viết đơn hủy bỏ việc hiến bộ phận cơ thể gửi cho bệnh viện Lao- phổi Nghệ An. Hơn
một tuần sau, ngày 21/9/2010, Đức qua đời; trong khi đó, bệnh viện Lao- phổi Nghệ
An vẫn chưa thông báo cho Trung tâm điều phối quốc gia về ghép bộ phận cơ thể
người về việc hủy bỏ đơn đăng ký bộ phận cơ thể ở người sau khi chết của Đức. Bố
mẹ Đức định đưa di hài em về chôn cất thì không được sự đồng ý của bệnh viện Laophổi Nghệ An với lí do: Đức chưa hoàn thành thủ tục hủy hiến bộ phận cơ thể.
11
Bố mẹ Đức vì muốn mai táng em nên viết đơn kiện bệnh viện Lao- phổi Nghệ An
rồi gửi lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An.
b) Nội dung giải quyết.
Như vậy, vụ tranh chấp diễn ra tai tỉnh Nghệ An liên quan đến quyền hiến xác, bộ
phận cơ thể sau khi chết.
Bên nguyên đơn là gia đình em Nguyễn Văn Đức
Bên bị đơn là bệnh viện Lao – phổi Nghệ An.
Chủ thể liên quan trực tiếp tới vụ việc là em Nguyễn Văn Đức, sinh năm 1989.
Quyết định của tòa án:
Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An chấp nhận đơn kiện của gia đình em Nguyễn Văn
Đức với bệnh viện Lao- phổi Nghệ An về việc tranh chấp di hài em Đức.
Thứ hai, căn cứ theo khoản 3 điều 20 Luật số 75/2006/QH11: “Việc thay đổi hoặc
hủy bỏ đơn đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể ở người sau khi chết, hiến xác có hiệu
lực kể từ khi cơ sở y tế hoặc cơ sở tiếp nhận và bảo quản xác của người hiến nhận
đơn thay đổi hoặc hủy bỏ đơn đăng ký.”, tòa quyết định cho gia đình em Nguyễn Văn
Đức nhận lại di hài của em để tiến hành ma chay, chôn cất theo đúng lễ nghi truyền
thống.
Thứ ba, tòa yêu cầu bệnh viện Lao- phổi Nghệ An kiểm điểm về hành vi của mình,
có hành động xin lỗi và bồi thường cho gia đình em Nguyễn Văn Đức.
c, Ý kiến của nhóm về cách giải quyết của tòa án tỉnh Nghệ An:
Nhóm chúng em đồng ý với cách giải quyết của tòa án tỉnh Nghệ An. Phân tích vụ
việc ta nhận thấy phán quyết của tòa án là hoàn toàn chính xác khi đồng ý cho gia
đình em Nguyễn Văn Đức nhận lại thi thể của em.
Thứ nhất, việc em Đức gửi đơn đăng kí hiến bộ phận cơ thể là phù hợp với pháp
luật. Điều 5 Luật số 75/2006/QH11 quy định :” Người từ đủ mười tám tuổi trở lên, có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn
sống, sau khi chết và hiến xác.” Ở đây, em Đức đã 19 tuổi (tính theo ngày đăng kí),
và có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Tại điều 34 bộ luật Dân sự 2005 quy định “
Quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết. Cá nhân có quyền hiến xác, bộ phận cơ
thể của mình sau khi chết vì mục đích chưa bệnh cho người khác hoặc nghiên cứu
khoa học. Việc hiến và sử dụng xác, bộ phận cơ thể được thực hiện theo quy định của
12
pháp luật.” Như vậy theo quy định của bộ Luật Dân sự đã nhấn mạnh hiến bộ phận
cơ thể sau khi chết là một quyền nhân thân quan trọng. Chính vì vậy quyết định hiến
xác dựa trên tinh thần tự nguyện của mỗi chủ thể. Tương tự như việc hủy bỏ việc hiến
bộ phận cơ thể của Đức.
Thứ hai, theo khoản 1 điều 20 của Luật, “Trường hợp muốn thay đổi hoặc hủy bỏ
đơn đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể ở người sau khi chết hoặc hiến xác thì người đã
đăng ký hiến gửi đơn đề nghị thay đổi hoặc hủy bỏ đến cơ sở y tế hoặc cơ sở tiếp
nhận và bảo quản xác của người hiến đã tiếp nhận đơn đăng ký hiến.” Ngày
10/9/2010, Đức cùng mẹ đã gửi đơn tới bệnh viện Lao- phổi Nghệ An. Khi nhận được
đơn này, theo khoản 2 điều 20 quy định:
“Cơ sở y tế hoặc cơ sở tiếp nhận và bảo quản xác của người hiến quy định tại
khoản 1 Điều này có trách nhiệm sau đây:
a) Tiếp nhận đơn thay đổi hoặc hủy bỏ đơn đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể ở
người sau khi chết, hiến xác của người đã đăng ký hiến;
b) Cấp lại thẻ hoặc thu hồi thẻ đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể ở người sau khi
chết, hiến xác cho người đăng ký hiến nếu người đó đã được cấp thẻ;
c) Trong thời gian hai ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận đơn, thông báo cho
Trung tâm điều phối quốc gia về ghép bộ phận cơ thể người về việc thay đổi, hủy
bỏ đơn đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể ở người sau khi chết.”
Trên thực tế, sau 11 ngày kể từ ngày nhận được đơn, bệnh viện vẫn chưa có thông
báo cho Trung tâm điều phối quốc gia. Việc làm của bệnh viện là chậm trễ và không
theo đúng quy định của pháp luật.
Hơn nữa, khi người nhà em Đức có yêu cầu xin đưa thi thể em về mai táng thì bị
bệnh viện từ chối với lí do: em Đức chưa hoàn thành việc hủy thủ tục hiến bộ phận cơ
thể. Nhưng theo khoản 3 điều 20, “Việc thay đổi hoặc hủy bỏ đơn đăng ký hiến mô,
bộ phận cơ thể ở người sau khi chết, hiến xác có hiệu lực kể từ khi cơ sở y tế hoặc cơ
sở tiếp nhận và bảo quản xác của người hiến nhận đơn thay đổi hoặc hủy bỏ đơn
đăng ký.”
Như vậy, tại vụ việc này, bệnh viện Lao – phổi Nghệ An đã không thi hành đúng
luật, gây thiệt hại về tinh thần cho gia đình em Nguyễn Văn Đức. Chính vì thế, quyết
định trả di hài cho người nhà em Đức là hoàn toàn đúng và việc bệnh viện phải có sự
bồi thường cho gia đình em là xác đáng. Từ vụ việc này, phải thừa nhận rằng, luật số
13
75/2006/QH11 chưa có hệ thống chế tài xử lí khi các cơ quan y tế tiếp nhận việc hiến
xác, bộ phận cơ thể làm sai. Đây thực sự là vấn đề đáng lưu tâm hiện nay.
III. Những giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền hiến
xác bộ phận cơ thể sau khi chết.
Từ việc tìm hiểu ba vụ việc trên, nhóm chúng em nhận thấy trên thực tế, luật pháp
chưa thể giải quyết được xác đáng các vụ việc liên quan đến vấn đề tranh chấp quyền
hiến xác, hiến bộ phận cơ thể. Để khắc phục những hạn chế, bổ sung những thiếu sót
những quy định của pháp luật về vấn đề này, nhóm chúng em xin đưa ra những ý kiến
như sau:
1. Về chủ thể hiến:
- Về độ tuổi: Để mở rộng chủ thể có quyền đăng ký hiến bộ phận cơ thể sau khi
chết, pháp luật nên cho phép người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể đăng ký hiến
sau chết nếu được sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ hoặc người giám hộ; hoặc
được đăng ký những văn bản chỉ có giá trị tham khảo, nó sẽ thực sự có hiệu lực khi
người hiến tròn 18 tuổi.
2. Về trình tự, thủ tục:
- Cần sớm có quy định về trình tự, thủ tục đối với việc hiến xác, hiến bộ phận cơ
thể người cho mục đích nghiên cứu khoa học cũng như đối với tổ chức nhận xác bộ
phận cơ thể người để nghiên cứu khoa học.
- Về thủ tục đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể người sống; thủ tục đăng ký hiến
bộ phận cơ thể người hiến xác sau khi chết, theo chúng em, ở khoản 4 điều 12 cũng
như khoản 4 điều 18 Luật về trách nhiệm của cơ sở y tế là trực tiếp gặp người hiến để
tư vấn về các thông tin có liên quan là không khả thi, bởi số nhân viên của cơ sở y tế
là rất hạn chế.
- Điều a khoản 2 điều 17 của Luật có quy định:” Được chăm sóc, phục hồi sức
khoẻ miễn phí ngay sau khi thực hiện việc hiến bộ phận cơ thể người tại cơ sở y tế và
được khám sức khỏe định kỳ miễn phí” nhưng lại không có tiêu chuẩn của mức sức
khỏe cần đạt, vì vậy cần làm rõ hơn quy định về khám sức khỏe định kỳ bởi quy định
này quá chung chung, khó có thể thực hiện trên thực tiễn.
14
- Ngoài việc tôn vinh những người hiến xác, bộ phận cơ thể nên có sự động viên
tinh thần với những gia đình người hiến. Do vậy, điều 25 của Luật nên thay đổi.
- Điều 11 có quy định những điều cấm nhưng lại chưa có các chế tài đi kèm vì
thế cần có sự sửa đổi để chặt chẽ hơn.
- Việc xử lí các cơ quan y tế, cơ quan chức năng có thẩm quyền về việc hiến xác,
bộ phận cơ thể khi làm sai luật cũng chưa được nhắc đến trong các bộ Luật. Chính vì
thế, chế tài xử phạt đối với các cơ sở y tế khi làm sai cũng cần nhanh chóng được
công bố.
- Hướng dẫn các bệnh viện không được phép lấy, ghép bộ phận cơ thể người
người tham gia vào hệ thống hiến như những vệ tinh với các hoạt động chủ yếu: tuyên
truyền về việc hiến bộ phận cơ thể, cấp nhận đơn đăng ký hiến, chuyển đến đơn vị có
thẩm quyền.
- Trường hợp xác định chết não nên hướng dẫn cho phép người đứng đầu cơ sở y
tế, ghép bộ phận cơ thể được ủy quyền trong việc chỉ định nhóm chuyên gia xác định
chết não và công bố.
KẾT LUẬN
Ngày nay, việc hiến xác cho y học nghiên cứu là chuyện không còn hiếm. Người
tình nguyện làm đơn hiến thân mình cho khoa học sau khi chết ngày càng nhiều. Đây
là việc làm có ý nghĩa xã hội sâu sắc, đóng góp cho sự phát triển của y khoa, phục vụ
cuộc sống tốt đẹp hơn. Thế nhưng, không phải tất cả các vụ hiến xác đều diễn ra theo
quy luật chung của nó mà bên cạnh đó còn nhiều vướng mắc cần phải giải quyết. Qua
ba vụ việc mà chúng tôi đề cập ở bài viết này cho chúng ta một cái nhìn toàn diện về
vấn đề này. Tuy là còn nhiều rào cản từ phía gia đình và còn nhiều khó khăn khác
nhưng những quy định mà pháp luật đề ra cùng với ước nguyện của người hiến xác,
đã mang lại mầm sống cho đời, cho những người được sống có được niềm vui và
hạnh phúc.
15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập I và II, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2009.
Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội, 2009.
Bộ luật dân sự năm 2005 và các văn bản hướng dẫn.
Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006 và các
văn bản hướng dẫn.
16
MỤC LỤC
DANH MỤC
TRANG
LỜI NÓI ĐẦU
1
NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận chung về quyền hiến xác,bộ phận cơ thể sau khi chết.
1
1
1.
2.
3.
4.
Một số khái niệm
Các quy định về chủ thể hiến
Các quy định về trình tự thủ tục hiến
Các nguyên tắc về việc hiến mô, bộ phận cơ thể và xác sau khi chết
II. Ba vụ việc liên quan đến việc tranh chấp về quyền hiến xác và bộ
phận cơ thể sau khi chết.
1.
Vụ việc thứ nhất
a, Tóm tắt vụ việc
b, Nội dung giải quyết
c, Đánh giá của nhóm
2.
Vụ việc thứ hai
a, Tóm tắt vụ việc
b, Nội dung giải quyết
c, Đánh giá của nhóm
3.
Vụ việc thứ ba
a, Tóm tắt vụ việc
b, Nội dung giải quyết
c, Đánh giá của nhóm
III.
Những giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về
quyền hiến xác bộ phận cơ thể sau khi chết.
1.
Về chủ thế hiến
2.
Về trình tự, thủ tục hiến
KẾT LUẬN
17
1
2
2
3
5
5
5
6
6
8
8
8
9
11
11
12
12
14
14
14
15
18
- Xem thêm -