MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
6. Kết cấu cơ bản của bài tiểu luận
B. NỘI DUNG
Chương 1.
ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ XÃ HỘI TRUNG QUỐC THỜI XUÂN THU CHIẾN QUỐC - TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT
HỌC TUÂN TỬ
1.1. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ XÃ HỘI TRUNG QUỐC THỜI XUÂN THU - CHIẾN
QUỐC
1.2. TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TUÂN TỬ
Chương 2.
NỘI DUNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA TUÂN TỬ
1.1. NHỮNG THÀNH TỰU RỰC RỠ CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HOC TRUNG
QUỐC CỔ ĐẠI THỜI XUÂN THU - CHIẾN QUỐC
1.1.1. Trường phái Nho gia
1.1.2. Khổng Tử
1.1.3. Mạnh Tử
1.2.TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TUÂN TỬ
1.2.1. Đôi nét về Tuân Tử
1.2.2. Tư tưởng của Tuân Tử về thế giới quan
1.2.3. Tư tưởng của Tuân Tử về nhận thức luận
1.2.4. Tư tưởng của Tuân Tử về logic học
1.2.5. Tư tưởng của Tuân Tử về đạo đức
1.2.6. Tư tưởng của Tuân Tử về xã hội
1.2.7. Đánh giá tư tưởng của Tuân Tử
C. KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Triết học ra đời cả ở phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian tại
một số trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại như Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp.
Không giống với triết học Phương Tây, triết học phương Đông lại tập trung nghiên
cứu về đời sống, về cuộc sống nhân sinh của con người, gắn liền con người với tự
nhiên, thống nhất với tự nhiên, triết học gắn với con người và xã hội loài người, ít gắn với
khoa học tự nhiên. Hướng mắt nhìn về dòng chảy lịch sử triết học, có thể thấy triết học
phương Đông đã đặt nền móng đầu tiên cho các lĩnh vực khoa học-xã hội, nói đến phương
Đông phải nói đến hai nền văn minh Trung Quốc và Ấn Độ là hai trung tâm tư tưởng và
văn hóa lớn của thế giới cổ, trung đại. Nếu như ở Ấn Độ, xuất hiện những tư tưởng của
các trường phái triết học nhằm giải quyết được các học thuyết tư tưởng giải thoát của con
người, bao hàm cả thể xác lẫn linh hồn, trần gian và thiên đường, hơn nữa là giải thích
được nguồn gốc của thế giới là do các thần có quyền uy sáng tạo ra. Thì triết học Trung
Quốc lại chú trọng giải thích cho đạo đức, luân lý xã hội, đặt nặng vào tư tưởng “tu thân, tề
gia, trị quốc, bình thiên hạ”, giải thích thế giới bằng tự nhiên đó là do hiện tượng tương sinh
tương khắc lẫn nhau giữa âm và dương, giữa ngũ hành “kim, mộc, thủy, hỏa, thổ”.
Nói đến Trung Quốc - một quốc gia có vùng lãnh thổ rộng lớn và đông dân nhất thế
giới, có tầm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của văn minh nhân loại, nhờ đó nơi
đây đã sản sinh ra những triết gia kiệt xuất, mà tư tưởng học thuyết của họ có ý nghĩa quan
trọng mà từ thời cổ đại đã có ảnh hưởng rất lớn đến các nước phương Đông và lan rộng cả
đến các nước phương Tây, và cho đến ngày nay những tư tưởng ấy vẫn còn để lại dấu ấn
trên nhiều quốc gia và nhiều lĩnh vực. Trải qua bao thời kỳ từ thời kỳ Tam Hoàng rồi đến
nhà Hạ (2205 TCN), nhà Thương (1766 TCN), nhà Chu (1200 TCN), rồi đến thời Xuân
Thu Chiến Quốc (720 TCN). Có thể nói, ở mỗi thời kỳ mỗi giai đoạn thì lịch sử Trung
Quốc lại phát triển thêm theo một giai đoạn mới. Trong các thời kỳ đó, một thời kỳ để lại
nhiều dấu ấn và bước phát triển nhất cả về mặt kinh tế lẫn xã hội đó là thời kỳ Xuân Thu
Chiến Quốc (720 TCN), Xuân Thu, thời kỳ giao thời giữa hai chế độ xã hội - giai đoạn suy
vong của chế độ chiếm hữu nô lệ và sơ kỳ phong kiến đang lên. Những cuộc nội chiến kéo
dài diễn ra . Thời Xuân thu có 438 cuộc chiến phạt lẫn nhau giữa các thế lực chính trị, đó là
“ngũ bá đồ vương” sang thời Chiến quốc có “thất bá tranh hùng”. Những cuộc chiến tranh
như vậy đã làm đảo lộn các thiết chế, nghi lễ truyền thống nhà Chu; làm cho xã hội ở tình
trạng loạn lạc, phá hoại sức sản xuất hết sức nặng nề. Đương thời, Khổng Tử đã than rằng:
Vua không ra đạo vua, bề tôi không làm đúng đạo bề tôi, cha chẳng ra đạo cha, con chẳng
làm đúng đạo làm con. Còn Mạnh Tử thì nhận xét “Đánh nhau tranh thành thì giết người
thây chất đầy thành; đánh nhau giành đất thì giết người thây chất đầy đồng.” Xã hội lâm
vào cảnh loạn lạc, rối ren và chiến tranh xảy ra liên miên.
Điều kiện lịch sử ấy đòi hỏi giải thể chế độ nô lệ thị tộc nhà Chu để xây dựng chế độ
phong kiến nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, mở đường cho xã hội phát triển. Chính
thời đại lịch sử đầy biến động với những chuyển biến lớn lao động và toàn diện đó đã dẫn
tới những thay đổi sâu sắc ở nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, pháp luật… , sự quá
độ giao thời giữa hai chế độ, trong đó có trật tự lễ nghĩa, hình pháp, chuẩn tắc xã hội mới
hình thành còn non yếu; trước những vấn đề đã được đặt ra buộc các nhà tư tưởng đương
thời phải quan tâm, xuất hiện những trung tâm kẻ sĩ luôn tranh luận về trật tự xã hội cũ và
đề ra những hình mẫu cho một xã hội tương lai, những người tài giỏi đương thời tìm cách
lí giải, và tìm ra phương pháp để cứu đời, cứu người, “tu thần, tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ”. Lịch sử gọi đây là thời kỳ "Bách gia chư tử" (trăm nhà trăm thầy), "Bách gia tranh
minh" (trăm nhà đua tiếng). Chính trong quá trình ấy đã sản sinh ra những nhà tư tưởng lớn
và hình thành nên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh. Thời kỳ này đã làm nảy sinh
những nhà tư tưởng lớn với các học thuyết khác nhau với một trăm lẻ tám nhà triết học ,
mười một trường phái triết học trong đó có ảnh hưởng lớn nhất là ba phái Nho gia, Mặc
gia, Đạo gia. Có thể nói, Nho giáo đã phát triển qua nhiều thời đại khác nhau và ở thời đại
nào, nơi mà mình đứng chân, nó cũng đều để lại những dấu ấn, với tư tưởng của những cây
đại thụ tiêu biểu không thể không kể đến là Khổng Tử, Mạnh Tử và Tuân Tử. Nhìn về lịch
sử Trung Quốc cổ đại, ta thấy có một điểm khá thú vị. Tuân Tử cũng như Mạnh Tử, cả hai
đều là nhân vật lịch sử, thừa kế tư tưởng, phát triển học thuyết của đức thầy Khổng Tử,
nhưng kết cuộc thì khác nhau về tao ngộ. Nhưng trong lịch sử Trung quốc, Mạnh Tử đã
giành được một địa vị chỉ có dưới một nấc, so với Khổng Tử, sách của Mạnh Tử được liệt
vào mười ba kinh thư, mà tầng lớp trí thức cổ kim, ai nấy đều nên học hỏi theo truyền
thống. Còn sách của Tuân Tử thì trái lại, không được người đời coi trọng, thậm chí có chỗ
còn bị coi như “dị đoan”. Tuy rằng các nhà Nho, chính trị gia đời sau trong việc “trị quốc
an dân” nói chung ít nhiều đều có vân dụng phát huy tư tưởng kinh tế - chính trị xã hội của
ông.Vậy nội dung và đặc điểm tư tưởng của ông như thế nào, tại sao tư tưởng của ông dù
lãng quên thậm chí còn không được người đời coi trọng? Đó chính là nguyên nhân người
viết muốn chọn đề tài này, để làm rõ thêm nội dung và đặc điểm tư tưởng triết học của
Tuân Tử.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Có nhiều tài liệu viết về tư tưởng triết học của Tuân Tử dưới nhiều dạng như: lịch
sử, tư tưởng triết học v.v…nhưng đa số là những tài liệu nghiên cứu về tư tưởng triết học
của ông, là các công trình nghiên cứu dưới góc độ tư tưởng triết học, trong các công trình
đó cung cấp cho người đọc một cách đầy đủ về Tuân Tử, cũng như vai trò, vị trí trong
lịch sử tư tưởng Trung Quốc cũng như nền tinh hoa của nhân loại, điển hình như:
Lịch sử triết học phương Đông của PGS.TS Doãn Chính chủ biên, nhà xuất
bản chính trị quốc gia năm 2012.
Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc của PGS.TS Doãn Chính chủ biên,
nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 2009.
Đại cương triết học sử Trung Quốc của Phùng Hữu Lan, nhà xuất bản thanh
niên năm 1998.
Đại cương triết học Trung Quốc của Giản Chi - Nguyễn Hiến Lê, nhà xuất
bản thanh niên năm 2004.
Tư tưởng triết học Trung Quốc của Ôn Hải Minh, nhà xuất bản tổng
hợp TP Hồ Chí Minh năm 2012.
Lịch sử triết học của TS Nguyễn Hữu Vui, nhà xuất bản chính trị quốc
gia năm 1997.
Lịch sử triết học của TS Hà Tiên Sơn, nhà xuất bản trẻ năm 2003.
Có thể nói, các công trình đó thể hiện tư tưởng triết học của Tuân Tử qua các vấn đề
lớn như vấn đề nhận thức luận và triết lý đạo đức nhân sinh của ông gắn liền với quá trình
phát triển lịch sử tư tưởng Trung Quốc một cách khái quát nhất.
Vì vậy, dựa vào các công trình đã nghiên cứu ở trên, em xin tiếp tục kế thừa lại và
phát huy tư tưởng đó, đồng thời qua làm rõ thêm tư tưởng của Tuân Tử trong bài tiểu luận
của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu:
Từ sự trình bày và phân tích tư tưởng triết học của Tuân Tử, tiểu luận đi sâu vào
nghiên cứu tư tưởng của ông thông qua các tài liệu trên, từ đó đưa ra ý nghĩa và giá trị về tư
tưởng của ông trong thời kỳ bấy giờ.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Tiểu luận đi trình bày và phân tích những tiền đề nảy sinh tư tưởng triết học của Tuân
Tử, nội dung chính trong tư tưởng triết học của ông rồi rút ra đặc điểm. Từ đó thấy những
giá trị và ý nghĩa của ông trong nền văn minh của Trung Hoa nói riêng và phương Đông
nói chung.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Với mục đích nhiệm vụ nêu trên, em lấy thế giới quan và phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cơ sở lý luận, trong đó phương
pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng là phương pháp chung nhất cho quá trình nghiên cứu
kết hợp với các phương pháp tổng hợp, phân tích,diễn dịch, qui nạp,logic - lịch sử.. để làm
sáng tỏ nội dung của từng vấn đề.
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn.
Ý nghĩa khoa học: tiểu luận góp phần làm rõ nội dung cơ bản trong tư tưởng triết học
Tuân Tử qua các vấn đề quan điểm nhận thức luận, đạo đức nhân sinh, từ đó giúp người
đọc tìm sâu sắc và hệ thống tư tưởng triết học của Tuân Tử.
Ý nghĩa thực tiễn: thông qua những giá trị về tư tưởng của Tuân Tử để rút ra bài học
lịch sử góp phần vào việc giữ gìn và phát huy đạo bản sắc truyền thống văn hóa dân tộc
Việt Nam trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay.
6. Kết cấu cơ bản của tiểu luận.
Tiểu luận gồm 3 phần ( phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận) và danh mục
tài liệu tham khảo
MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
Chương 1.
NHỮNG TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TUÂN TỬ
1.1. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ XÃ HỘI TRUNG QUỐC THỜI XUÂN THU - CHIẾN
QUỐC.
Đây là thời kỳ xã hội loạn lạc, sự chuyển biến xã hội đặt ra vấn đề tề gia trị
quốc, đồ sắt phổ biến, xuất hiện tư hữu ruộng đất từ đó xuất hiện sở hữu tư nhân
ruộng đất phát triển như chế độ tỉnh điền, phá bỏ triệt để mầm mống xã hội địa chủ
phong kiến thúc đẩy chế độ phong kiến mạnh hơn trên lĩnh vực kinh tế. Ở đó
những ai có tiền, có đất và tư liệu sản xuất từ đó trở thành điền chủ, ai có sức lao
động thì làm thuê vì các lý do đó mà xã hội xuất hiện quan hệ sản xuất phong kiến.
Văn học phát triển mạnh, tư tưởng, học thuật phát triển, nghệ thuật, kiến trúc phát
triển như xây dựng cầu, luyện kim, thép, và dệt lụa cũng phát triển.
Xã hội Trung Quốc biến đổi hết sức toàn diện kinh tế, chính trị văn hóa tư
tưởng, chính sự biến chuyển đó tạo ra các chế độ luân lý đạo đức chuẩn mực. Đó là
bước chuyển từ nô lệ, công pháp nhà Tần suy tàn với chế độ phong kiến sơ kỳ, là
sự quá độ giao thời giữa hai chế độ trong đó trật tự lễ nghĩa, hình pháp, chuẩn tắc
xã hội mới hình thành còn non yếu. Vì sự giao thời tạo nên sự chuyển biến trong
xã hội rất lâu dài do đó câu hỏi lớn nhất cho tất cả các nhà cầm quyền, các nhà tư
tưởng lớn là các vấn đề như xã hội loạn lạc, đạo đức con người băng hoại, làm sao
xã hội được thịnh trị, con người vô đạo trở thành có đạo. Từ đó nhiệm vụ lịch sử
làm thế nào "tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ" và để trả lời cho câu hỏi đó ở
thời Xuân Thu - Chiến Quốc mà xã hội xuất hiện một loạt các tư tưởng, các trường
phái triết học "Trăm hoa đua nở, muôn chim cùng hót", gọi là thời kỳ "Bách gia
chư tử"1. Xuất hiện 108 nhà triết học với mười một trường phái triết học.
Ở thời kỳ này các nhà tư tưởng với các trường phái triết học đều có đặc điểm
chung là cùng tiếp thu một nền văn hóa, dựa trên một nền văn hóa trong lịch sử
nhất định, họ cùng giải quyết nhiệm vụ như nhau, có thể nói là nhiệm vụ cao cả đó
là "Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ". Tuy nhiên mỗi nhà triết học hay trường
phái triết học lại đưa ra phương pháp trị nước và giáo hóa con người khác nhau. Sở
dĩ như vậy là xuất phát từ những tư tưởng thế giới quan khác nhau, quan điểm triết
học, lý luận khác nhau, đại diện cho các đẳng cấp, các tầng lớp khác nhau. Ví dụ
như trường phái Nho gia thì đại diện cho quý tộc, bảo thủ, trường phái Mặc gia đại
diện cho tiểu tư hữu trong xã hội, còn trường phái Đạo gia đại diện cho qúy tộc do
biến chuyển của thời kỳ nên mất chỗ đứng trong xã hội và dẫn đến vô vi.
Tuy đây là thời kỳ xuất hiện nhiều trường phái triết học, nhưng một trong số
đó một trong những trường phái đó ảnh hưởng rất đặc sắc cho nền tư tưởng Trung
Hoa đó là trường phái Nho gia. Với Khổng Tử, Mạnh tử và Tuân Tử là các nhà tư
tưởng đại diện cho trường phái này.
1.2 TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN
Tuân Tử đã kế thừa và phát huy những quan điểm và tư tưởng quan trọng của
Khổng Tử như về thế giới quan, nhân sinh quan, biện chứng pháp, nhận thức luận,
luân lý xã hội... để xây dựng nên học thuyết của mình.
1
. PGS.TS.Doãn Chính: Đại cương lịch sử Trung Quốc,Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr 36.
Theo đó ông là người theo học thuyết của Khổng Tử, đề cao "nhân nghĩa", "lễ
nhạc" chủ trương "chính danh", trọng vương khinh bá ...2. Tuy nhiên tư tưởng của
Tuân Tử lại tương phản với Khổng Tử và Mạnh Tử cả về thế giới quan cũng như
tư tưởng về triết lý đạo đức, chính trị - xã hội. Và chính nhưng tư tưởng triết học
của ông về vương chế, pháp hành, chính danh, quân đạo ...không trở thành tiền đề
lý luận cho sự hình thành nên quan điểm triết học của ông mà còn trở thành tiền để
lý luận cho triết học Pháp gia sau này.
Chương 2.
NỘI DUNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA TUÂN TỬ
1.1. NHỮNG THÀNH TỰU RỰC RỠ CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HOC TRUNG
QUỐC CỔ ĐẠI THỜI XUÂN THU - CHIẾN QUỐC
1.1.1. Trường phái Nho gia
"Nho gia hay Nho giáo là những thuật ngữ bắt nguồn từ những chữ "nho".
Theo Hán tự chữ "nho" là chữ hội ý, gồm chữ "nhân" nghĩa là người đứng trước
chữ "chu" nghĩa là cần, chờ đợi. Nho gia còn gọi là nhà nho, người đã đọc thấu
sách thánh hiền, được thiên hạ cần để dạy bảo người đời ăn ở cho hợp luân thường
đạo lý. Trước thời Xuân Thu, nhà nho được gọi là "sĩ" chuyên học văn chương và
lục nghề góp phần trị vì đất nước. Đến đời Khổng Tử, ông đã hệ thống hóa những
tư tưởng và tri thức trước đây thành học thuyết, gọi là Nho gia hay Nho học. Người
ta cũng đã gắng học thuyết này với tên tuổi người đã sáng lập nên nó, gọi là Khổng
học"3. Nho giáo, cơ bản là một học thuyết về đạo xử thế của người quân tử: Tu
thân, tề gia trị quốc, bình thiên hạ. Tư tưởng Nho gia chiếm một vị trí đặc biệt
trong lịch sử tư tưởng Trung Hoa. Nó có ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt của đời
2
3
. PGS.TS.Doãn Chính: Lịch sử triết học phương Đông, Nxb. Chính trị quốc gia, sự thật, Hà Nội, 2012, tr, 341.
. PGS.TS.Doãn Chính: Lịch sử triết học phương Đông, Nxb. Chính trị quốc gia, sự thật, Hà Nội, 2012, tr, 252.
sống xã hội. Căn cứ vào những biến đổi trong nội dung của học thuyết mà trường
phái này được chia làm ba giai đoạn: Nho gia Tiền Tần, Hán Nho và Tống Nho.
Nho giáo đã phát triển qua nhiều thời đại khác nhau, mỗi giai đoạn đều có
người đại biểu cho nó trong đó giai đoạn Tiền Tần có các nhà tư tưởng là Khổng
Tử, Manh Tử và Tuân Tử được coi là những nhà đại nho phải nói đến thời kỳ này.
1.1.2. Khổng Tử
Là người đầu tiên của trường phái Nho gia, Khổng Tử đã đưa ra quan điểm
của mình về thế giới quan của con người và đạo đức con người. Từ đó đưa ra
những phương thức khuyên răng con người góp phần vào hoàn thiện đất nước.
Trong quan điểm về thế giới quan, Khổng Tử đã kế thừa xuất phát từ kinh Dịch.
Vạn vật trong vũ trụ sinh thành và biến hóa không ngừng, vạn vật làm vạn vật biến
hóa và ông gọi đó chính là đạo. Bắt nguồn từ "âm và dương"4 tạo thành một thể
thống nhất. Đạo chi phối con người là trung thứ, được biểu hiện trong bốn đức lớn:
Nhân, lễ, nghĩa, trí. Ông đưa ra quan niệm về thiên mệnh với nội dung phải biết
mệnh, phải sợ mệnh, phải sợ mệnh, phải biết chờ mệnh lệnh, "con người ta sống
chết có mệnh, giàu sang là do mệnh trời"5. Khổng Tử quan niệm về quỷ thần, "quỷ
thần là linh khí trời đất tạo thành, không nên xem thường nên kính trọng và nên
tránh xa"6.
Trong quan niệm về đạo đức và nhận thức, theo Khổng Tử con người nó là bẩm
thụ tinh khí của cha mẹ âm dương, trời đất mà thành và cái mà tinh khí âm dương
hội tụ về thể xác nhưng sở hữu có sự khác nhau về mức độ cao thấp thì ông gọi là
mệnh. Theo Khổng Tử bản tính con người ta sinh ra là tốt đẹp, thành thật,ngay
thẳng, ông nói: "nhân chi sơ, tính giả trực", được biểu hiện trong hệ thống các
. PGS.TS.Doãn Chính: Lịch sử triết học phương Đông, Nxb. Chính trị quốc gia, sự thật, Hà Nội, 2012, tr, 254.
.PGS.TS.Doãn Chính: Đại cương lịch sử Trung Quốc,Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr, 44.
6
.PGS.TS.Doãn Chính: Đại cương lịch sử Trung Quốc,Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr, 45.
4
5
phạm trù đạo đức của Khổng Tử như: "Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, dũng, trung, hiếu,
kính ... Trong đó nhân là phạm trù quan nhất, nhân chính là trung thứ, chính là đạo
làm người7". Để được nhân thì phải làm được nghĩa, nghĩa là trách nhiệm bổn phận
của mỗi người, không đòi hỏi tín toán. Trong trí và dũng, ông đề cao giáo dục để
giữ đạo hạnh con người, có giáo dục để hoàn thiện nhân, nghĩa, lễ, trí, tín từ đó
hoàn thiện đạo làm người, dũng là có ý chí, quả cảm, xã thân vì nghĩa để giữ đức
nhân thế mới là bậc quân tử, trượng phu.
Trong học thuyết về chính trị - xã hội, đây là nội dung quan trọng cốt lõi nhất
mang tính cấp bách của Trung Hoa thời Xuan Thu - Chiến Quốc. Để cải biến xã
hội Khổng Tử đã đưa ra học thuyết "nhân trị" và "chính danh định phận"8. Mỗi
người đều có khái niệm, công dụng bản tính nhất định, danh hợp với thật là chính
danh, theo đó chính danh là ngay thẳng, quân thần. Chính danh là khôi phục đạo
lý, xây dựng xã hội chuẩn mực nhất định, "vua phải huệ, tôi phải trung, cha phải
từ, con phải hiếu"9, theo ông xã hội không yên ổn muốn trị nước phải chính danh.
Trong chính danh Khổng Tử đề cao hai mối quan hệ vua - tôi, cha - con xem đây là
hai mối quan hệ chính trong xã hội. Trong việc trị nước cũng như tu thân, học đạo
sửa mình để đạt được "nhân" thì "lễ" cũng được Khổng Tử cũng rất chú trọng. Lễ
được mở rộng ra như trật tự xã hội, ngoài ra còn có nhạc, thi để cảm hóa người ta
theo chân - thiện - mỹ. Trên cơ sở đó mà ông đưa ra phạm trù của quân tử và tiểu
nhân.
Như vậy, tư tưởng triết học của Khổng Tử là một hệ thống hết sức phong phú sâu
sắc thống nhất xung quanh về các vấn đề thế giới và con người, về luân lý, đạo
đức, về chính trị xã hội. Ông đã cố gắng giải quyết những vấn đề lịch sử xã hội như
.PGS.TS.Doãn Chính: Đại cương lịch sử Trung Quốc,Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr, 52.
.PGS.TS.Doãn Chính: Lịch sử triết học phương Đông, Nxb. Chính trị quốc gia, sự thật, Hà Nội, 2012, tr, 264.
9
. PGS.TS.Doãn Chính: Lịch sử triết học phương Đông, Nxb. Chính trị quốc gia, sự thật, Hà Nội, 2012, tr, 265.
7
8
"tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ". Được xem là thành tựu rực rỡ nhất trong
triết lý nhân sinh và đạo đức con người.
1.1.3. Mạnh Tử
Là người kế tục của Khổng Tử, là người tiếp tục phát triển về tư tưởng thiên
mệnh, đưa ra những quan điểm về đạo đức, quan niệm về chính trị xã hội.
Trong quan niệm về thế giới, Mạnh Tử đã phát triển tiếp tục quan điểm của
Khổng Tử, ông cho rằng tất cả trong thế gian này đều là do mệnh trời, chính quyền
và bậc vua chúa đều do trời quyết định. Theo ông "từ tính khí, tâm tính con người
cho đến các nguyên tắc đạo đức, chân lý của đời sống xã hội cũng đều do trời phú,
đó là do số phận trời định sẵn"10. Mạnh tử cho rằng vạn vật đều có đầy đủ trong ta,
ta tự xét mình thành thực, đó chính là thế giới duy tâm chủ quan, chỉ cần hết lòng
hết dạ thì sẽ biết được bản tính của mình từ đó biết được bản tính của trời.
Về quan điểm về luân lý đạo đức con người, để trả lời cho câu hỏi bản tính
con người là gì ? Theo Mạnh Tử bản tính con người là thiện "nhân chi sơ, tính bản
thiện"11."Tính thiện theo Mạnh Tử bắt nguồn từ bón mối gọi là tứ đoan, biểu hiện
cho bốn đức: nhân, nghĩa lễ, trí"12. Ông cho rằng bản tính con người là thiện chính
là do trời sinh ra từ tâm của con người, nếu biết giữ gìn nuôi nấng thì sẽ lớn lên
không biết giữ gìn thì sẽ xấu đi, thể xác và tinh thần phải hòa vào nhau thì ta mới
tốt đẹp.
Về học thuyết chính trị - xã hội: Đó là trong quan điểm của Mạnh Tử về thiên
mệnh duy tâm và đẳng cấp xã hội, Mạnh Tử đề cao vai trò của trời và nhân chính
trong lịch sử. Ông chia xã hội ra hai loại người:"kẻ lao tâm, người lao lực"13.
. PGS.TS.Doãn Chính: Đại cương lịch sử Trung Quốc,Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr, 176.
. PGS.TS.Doãn Chính: Lịch sử triết học phương Đông, Nxb. Chính trị quốc gia, sự thật, Hà Nội, 2012, tr, 319.
12
. PGS.TS.Doãn Chính: Lịch sử triết học phương Đông, Nxb. Chính trị quốc gia, sự thật, Hà Nội, 2012, tr, 319.
13
.PGS.TS.Doãn Chính: Lịch sử triết học phương Đông, Nxb. Chính trị quốc gia, sự thật, Hà Nội, 2012, tr, 323.
10
11
Người lao lực phải sản xuất để phục vụ cho người lao tâm, người lao tâm là những
người quý tộc có thể trị vì, người lao lực phải phục tùng nuôi sống người lao tâm
"Đó là lẽ thường tình trong thiên hạ"14. Tư tưởng về nhân chính là tư tưởng đặc sắc
của Mạnh Tử, nhân chính là làm chính trị bằng chính nghĩa, nhân đức, tư tưởng
chính trị đó gọi là nhân chính. Khi xã hội bị loạn lạc người ta chạy theo lợi, do vậy
nhân chính là không chạy theo lợi. Ngoài ra ông còn đề cao bản dân, thân dân,
"dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh"15, có dân mới có nước, có nước mới có
vua, thậm chí ông còn cho rằng dân còn có khi còn quan trọng hơn vua. Mạnh Tử
đề cao nhân nghĩa, ông phản đối những điều tàn bạo, bất nhân bất nghĩa, lên án
những điều xấu đặc biệt là vua chúa, những người như dậy ông cho là tặc.
Như vậy, trong tư tưởng triết học của Mạnh Tử còn nhiều yếu tố duy tâm,
thần bí và mang tính chất tiên nghiệm luận. Tuy nhiên trong học thuyết của Mạnh
Tử cũng có nhiều quan điểm hết sức tiến bộ về tính thiện, phản ánh xu thế của lịch
sử trong thời kỳ chuyển biến lịch sử xã hội ở giai đoạn Xuân Thu - Chiến Quốc,
đặc biệt là thời Chiến Quốc.
1.2. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TUÂN TỬ
Như đã nói, cuối thời Chiến Quốc, trên cơ sở của sự phát triển của tự nhiên,
sự mở mang trên quy mô lớn các công trình thủy lợi, nền kinh tế nông nghiệp của
các nước đã đến đỉnh cao. Thủ công ngiệp tiếp tục phát triển, thành thị cũng đạt
đến đỉnh cao của sự phồn vinh. Giai cấp địa chủ phong kiến chiếm địa vị trong xã
hội. Nước Tần trở thành quốc gia hùng mạnh đang từng bước thôn tính các nước
khác, Tuân Tử là đại biểu của giai cấp địa chủ, vì vậy chính những thành tựu của
14
15
. PGS.TS.Doãn Chính: Lịch sử triết học phương Đông, Nxb. Chính trị quốc gia, sự thật, Hà Nội, 2012, tr, 323.
. PGS.TS.Doãn Chính: Lịch sử triết học phương Đông, Nxb. Chính trị quốc gia, sự thật, Hà Nội, 2012, tr, 324.
khoa học tự nhiên và vai trò tiến bộ của giai cấp địa chủ phong kiến lúc bấy giờ đã
là tiền đề nhận thức và xã hội quan trọng cho tư tưởng triết học của Tuân Tử.
1.2.1. Đôi nét về Tuân Tử
Cuối thời Chiến Quốc, trong cuộc chống lại những tư tưởng chống lại chủ
nghĩa duy tâm, trên cơ sở kế thừa tiếp thu cũng như có những phê phán nhiều tư
tưởng duy vật của các trường phái triết học trước kia và để phát triển triết học duy
vật cổ đại lên một trình độ cao hơn, mà nhà triết học Tuân Huống hay gọi là Tuân
Tử xuất hiện.
Tuân Tử (315 - 230 TCN), tên Huống, tự là Khanh, người nước Triệu. Tuân
Tử là một trong những Nho Gia lớn ở cuối thời Chiến Quốc. Đó là thời kỳ xã hội
Trung Hoa "như nước đổ cuồn cuộn", các trường phái triết học rất thịnh hành, các
triết gia đua nhau xuất hiện, khiến người ta gọi thời kỳ này là "Bách gia chư tử".
Nho giáo, Lão gia, Mặc gia là những trường phái triết học lớn có ảnh hưởng rộng
rãi ở Trung Quốc lúc bấy giờ. Các học thuyết về thế giơi quann, nhân sinh quan
khác nhau vừa kế tục vừa đấu tranh lẫn nhau tạo nên không khí sôi động đương
thời. Theo đó Tuân Tử đã là người theo học thuyết của Khổng Tử, đề cao "nhân
nghĩa", "lễ nhạc" chủ trương "chính danh", trọng vương khinh bá ...16. Tuy nhiên tư
tưởng của Tuân Tử lại tương phản với Khổng Tử và Mạnh Tử cả về thế giới quan
cũng như tư tưởng về triêt lý đạo đức, chính trị.
1.2.2. Tư tưởng của Tuân Tử về thế giới quan
Trong quan niệm về thế giới, mặc dù là trường phái Nho Gia nhưng trái với
học thuyết về "Thiên mệnh" của Khổng Tử và Mạnh Tử, nếu Mạnh Tử đưa ra quan
16
.PGS.TS.Doãn Chính: Lịch sử triết học phương Đông, Nxb. Chính trị quốc gia, sự thật, Hà Nội, 2012, tr, 341.
niệm về một lực lượng siêu nhiên tối cao, chi phối vạn vật và con người, thì Tuân
Tử lại đưa ra quan điểm thể hiện tính chất vô thần của ông. Tuân Tử cho rằng, toàn
bộ thế giới này bao gồm ba bộ phận: "Trời có bốn mùa, đất có sản vật, người có
văn trị"17. Trong đó, theo Tuân Tử trời chỉ là một bộ phận của tự nhiên và bản thân
tự nhiên là cơ sở hình thành biến hóa của vạn vật. Ông nói: "Trời vận hành có quy
luật thường ngày, không vì Nghiêu mà còn, không vì Kiệt mà mất. Người theo quy
luật đó mà yên trị thì tốt, hễ ứng theo luật ấy mà rối loạn thì xấu ... Cho nên ai hiểu
rõ sự phân biệt giữa trời với người mới là bậc chí nhân"18. Không làm mà thành
tựu, không cầu mà được, đó gọi là chức vụ của trời, trời có bốn mùa, đất có sản
vật, người có sự cai trị. Như vậy người với trời đất tạo thành bộ ba. Mỗi bộ phận
trong tự nhiên có nhiều đặc tính riêng, hoàn toàn đối lập với thiên mệnh.
Theo Tuân Tử, trời là các hiện tượng vật chất như các vì sao theo nhau vận
hành, mặt trời, mặt trăng theo nhau chiếu sáng, bốn mùa thay nhau chi phối, âm
dương chi phối vạn vật, gió mưa ơn xuống cho khắp nơi, cái đạo thâm viễn, công
hiệu vô hình, nhờ đó vạn vật lớn lên đó là đạo của trời.
Ông cho rằng, đạo trời diễn ra một cách tự nhiên nhất định, khôn liên quan gì
đến đạo người, hay vật chất cuộc sống con người, trời không có ý thức gì cả. Mọi
sự vận động, biến hóa của vạn vật do chi phối của đạo trời, cũng như sự thay đổi
của vũ trụ không hề phụ thuộc hay liên quan gì đến sự sáng suốt hay hôn muội của
những kẻ cầm quyền. Chúng luôn luôn tuân theo quy luật khách quan vốn có của
tự nhiên. Do đó sự tồn tại của trời là khách quan, ông chỉ ra không phải vì người ta
ghét giá lạnh mà trời bỏ mùa đông, không phải người ta ngại xa xôi mà đất rút hẹp
bề mặt lại. Tự nhiên và quy luật biến hóa của nó là không thể thay đổi theo ý muốn
chủ quan của con người được19. Từ đó, Tuân Tử đi tới khẳng định không có cái gọi
.PGS.TS.Doãn Chính: Đại cương lịch sử Trung Quốc,Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr, 251.
. Võ Thiện Điển: Tuân Tử, Nhà phê bình triết học Trung Quốc cổ đại, Nxb. Văn hóa thông tin, 2009, tr, 11.
19
. PGS.TS.Doãn Chính: Đại cương lịch sử Trung Quốc,Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr, 252.
17
18
là thiên mệnh, trời không thể quyết định vận mệnh của con người. Việc trị
loạn,lành hay dữ, khỏe mạnh hay đau yếu, giàu hay nghèo của con người là do
chính con người làm ra chứ không phải tại trời20.
Theo Tuân Tử, nếu con người hành động thuận theo trật tự của giới tự nhiên
thì sẽ được hạnh phúc, trái lại sẽ được sẽ gặp tai họa. Ông khuyên con người hãy tự
tin, biết làm chủ chính mình và chỉ cần ra sức phát triển sản xuất nông nghiệp, tiết
kiệm tiền của trời sẽ không để cho con người nghèo khổ, giữ gìn thân thể khỏe
mạnh, ăn ở điều độ, thì trời sẽ không để cho ốm đau bệnh tật, không có quỷ thần
nào xâm hại được. Từ đó ông khẳng định, trời có thiên chức của trời, người có
thiên chức của người. Người quân tử, bậc chí nhân là người hiểu thấu đạo trời,
không ỷ lại trời,không phụ thuộc vào trời, không tranh thiên chức của trời mà lo
làm tốt việc của con người. Thiên chức con người là phải là phải ra sức phát triển
sản xuất, sửa trị việc nước chú trọng giáo hóa đạo đức, lễ nghĩa, như vậy con người
mới có thể sánh ngang với trời đất. Từ đó ta sẽ thấy được nét văn minh của con
người, còn nếu con người không biết nhận thức tự nhiên, không làm chủ mình tin
vào trời, quỷ thần, lam mất lòng dân, lễ nghĩa không lo sữa thì đó là tai họa.
Đây là tư tưởng hết sức tiến bộ của ông hoàn toàn đối lập với những quan
điểm thuận theo quan điểm thuận mệnh, chờ mệnh, sợ mệnh có tính chất duy tâm
thần bí được tuyên truyền đương thời. Nó như một cuộc cách mạng trong triết lý
nhân sinh, hành động trong lịch sử triết học Trung Quốc. Ông chỉ ra: "Các hiện
tượng do giới tự nhiên sinh ra như sao sa, nhật thực, nguyệt thực, nắng mưa, hạn
hán, lụt lội ... chỉ là hiện tượng của bản thân tự nhiên. Đó là cái biến hóa của trời
đất âm dương, cho là lạ thì nên , mà lo sợ thì không nên, nó không thể quyết định
điều hòa phúc, tốt xấu của con người, cho nên không đáng sợ"21. Những nghi tôn
20
21
. PGS.TS.Doãn Chính: Đại cương lịch sử Trung Quốc,Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr, 252.
. PGS.TS.Doãn Chính: Lịch sử triết học phương Đông, Nxb. Chính trị quốc gia, sự thật, Hà Nội, 2012, tr, 344.
giáo cũng như cúng tế và cầu khấn chỉ có thể dùng để làm cho phong phú và tươi
đẹp cuộc sống của con người. Ông quả quyết rằng quỷ thần không thể chi phối
được cuộc sống con người.
Trong quan niệm về thế giới, Tuân Tử còn đưa ra học thuyết về khí, ông xem
khí là yếu tố vật chất cấu tạo nên thế giới, đồng thời dựa vào những tri thức khoa
học sơ khai về tự thiên văn địa lý, sinh vật học, y học đạt được thời bấy giờ, ông
vạch ra sự phân biệt khác nhau giữa vật chất vô cơ, thực vật động vật và loài
người. Ông nói: "Nước lửa nhưng không có sinh mệnh, cỏ cây có sinh mệnh nhưng
không có tri giác, loài cầm thú có tri giác nhưng không có lễ nghĩa. Loài người
không chỉ có khí có sinh mệnh, có tri giác mà con có lễ nghĩa, cho nên con người
là cao quý nhất trong vạn vật"22.
Theo Tuân Tử, con người không chỉ là một bộ phận của giời tự nhiên mà còn
là sản phẩm cao nhất của giới tự nhiên. Ông đưa ra mối quan hệ giữa thể xác và
tinh thần, ông cho rằng tình cảm, dục vọng khí quan cảm giác và hoạt động tư duy
của con người là hiện tượng tự nhiên không cầu mà có, không có một lực lượng
thần bí siêu nhiên nào chi phối đời sống con người. Ông cho răng: "Hình thể sinh
ra tinh thần. Sự xấu tốt và những tình cảm vui mừng, giận dữ, bi ai, lạc quan, đều
có đủ trong con người"23, nghĩa là hình thể con người là cái có trước sau đó mới
sinh ra tinh thần,ý thức tình cảm.
Những tư tưởng đặc sắc đó của Tuân Tử đã góp phần quan trọng vào sự phát
triển chủ nghĩa duy vật ở Trung Quốc cổ đại. Tuy nhiên, trong quan điểm về tự
nhiên ông vẫn chưa thoát khỏi sự chi phối của phương pháp siêu hình, khi cho rằng
tư khi khai thiên lập địa đến nay tình trạng trời đất vẫn không có gì thay đổi. Đó
cũng chính là điểm hạn chế trong thế giới quan triết học của ông.
22
23
. PGS.TS.Doãn Chính: Đại cương lịch sử Trung Quốc,Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr, 255.
. PGS.TS.Doãn Chính: Đại cương lịch sử Trung Quốc,Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr, 256.
1.2.3. Tư tưởng của Tuân Tử về nhận thức luận
Tuân Tử đã xây dựng lên học thuyết về nhận thức trên nền tảng chủ nghĩa duy
vật hết sức đặt sắc và tến bộ. Ông khẳng định con người có đủ năng lực nhận thức
vạn vật trong thế giới. Ông coi nhận thức chính là sự phản ánh các sự vật, hiện
tượng khách quan bởi con người. Trong đó sự kết hợp giữa năng lực nhận thức của
con người với sự vật khách quan là điều kiện tạo nên tri thức.
Trong quá trình nhận thức, Tuân Tử khẳng định nhận thức con người trước
hết bắt đầu từ kinh nghiệm cảm giác và mỗi cơ quan cảm giác - "thiên quan" đều
có khả năng nhận thức được các sự vật hiện tượng bên ngoài khi chúng tác động
vào các giác quan của con người. Nhưng cảm giác do thiên quan mang lại rất phức
tạp, không có đầu mối và mới chỉ dừng lại ở sự hiểu biết bề ngoài có tính chất
riêng lẽ về sự vật. Muốn nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về sự vật hiện tượng
con người phải dựa vào sự hoạt động của khí quan tư duy, mà ông gọi là "tâm tri",
"Tâm là làm rõ sự biết, có làm rõ sự biết mới nhờ tai nghe được, mới nhờ mắt mà
biết hình được... "24.
Theo Tuân Tử, tâm là chủ thể tinh thần của con người có thể điều khiển các
quan năng như tai, mắt, mũi, miệng gọi là ngũ quan, Tuân Tử gọi là thiên quân tức
là thống soái các giác quan. Tâm, ngoài khả năng nhận biết lời nói, hành động,
mừng, giận, yêu thương, mong muốn, vui buồn, mà tâm còn có khả năng đặc biệt
mà Tuân Tư gọi là "trưng tri". Trưng là mời, nhóm, tập hợp lại, tri là tri giác, hiểu
biết. "Trưng tri" nghĩa là khả năng của tâm có thể tổng hợp, phân tích, khái quá
hóa, trừu tượng hóa do các giác quan mang lại, so sánh sự giống nhau, khác nhau,
đem cho chúng một ý nghĩa, giống thì đặt cho nó một tên gọi, một danh quy ước,
24
. PGS.TS.Doãn Chính: Đại cương lịch sử Trung Quốc,Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr, 257.
để gọi chung cho tất cả cái giống nhau đó.Tâm phản ánh các đặc tính của sự vật,
hiện tượng nhưng không lúc nào ngưng trệ, vẫn là trống không và vẫn có thể tiếp
nhận được tri thức mới.
Tuân Tử chỉ ra rằng, người ta chỉ có dựa vào tác dụng suy lý của tư duy mới
có thể phân biệt phán đoán được tính chất của sự vật do cảm quang mang lại.
Nhưng hoạt động của tâm tất yếu phải lấy hoạt động của thiên quan làm cơ sở. Ở
đây ông đã giải quyết một cách đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa hai giai
đoạn của quá trình nhận thức - vấn đề quan hệ giữa cảm giác và tư duy.
Tuân Tử cũng tiến hành phân tích các loại cảm giác và ông đã chỉ ra, trong
những điều kiện nhất định, khả năng, tác dụng của các cơ quan cảm giác cũng bị
hạn chế, do đó có lúc chúng mang lại tri giác không đầy đủ, những ấn tượng sai
lầm về sự vật hiện tượng. Hơn nữa cảm quan nếu tách rời sự dẫn dắt của tâm thì sẽ
dẫn con người ta tới con đường mù mịt. Ông nói:"Người ta lúc đi trong đêm tối
trông thấy con đá tưởng con hổ nằm, thấy đám cây trong rừng tưởng có ma theo
sau đó là cái mờ tối che khuất cái sáng vậy. Người say rượu nhảy qua cái mương
một trăm bước mà cho là nhảy qua chưa đầy một bước, đi qua cửa thành mà cho là
thành nhỏ như cửa buồng chính cái say làm loạn cái tinh thần thần vậy. Đứng dưới
núi trông cây cao muôn trượng ở trên núi như chiếc đũa, nếu đi tìm đũa thì cũng
không trèo lên mà bẻ được, cái cao che cái dài vậy"25. Trên cơ sở đó, ông chỉ ra
rằng quan niệm về ma quỷ thực chất là từ ảo giác con người sinh ra. "Đi dạo chơi
dưới trăng, cúi đầu thấy bóng vật, liền cho là ma quỷ trên mặt đất"26. Cho nên ông
dạy người ta khi bị cảm giác mê hoặc phải dựa vào lý trí, vào cái tâm để sửa chửa
thì sẽ xóa những ảo giác và tưởng tượng sai lầm.
25
26
. PGS.TS.Doãn Chính: Lịch sử triết học phương Đông, Nxb. Chính trị quốc gia, sự thật, Hà Nội, 2012, tr, 347.
. PGS.TS.Doãn Chính: Đại cương lịch sử Trung Quốc,Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr, 259.
- Xem thêm -