LỜI MỞ ĐẦU
Để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển, con người phải lao đô nô g để
tạo ra của cải vâ ôt chất. Nhưng cùng với thời gian con người bị già đi, sức
khỏe, sức lao đô nô g bị giảm sút, khó có thể tự đáp ứng nhu cầu cuô ôc sống. Khi
đó hoă ôc người lao đô nô g sử dụng số tiền tự tích cóp được trong quá trình lao
đô nô g hoă ôc sống nhờ vào con cháu. Nhưng những nguồn thu nhâ pô này thường
không thường xuyên và phụ thuô ôc vào điều kiê ôn của từng người.
Xuất phát từ nhu cầu thiết thực đó, từ khi ra đời cho đến nay chế đô ô
hưu trí luôn là mô tô trong những chế đô ô quan trọng không thể thiếu trong hê ô
thống an sinh xã hô iô quốc gia. Chế đô ô này đảm bảo quyền lợi cho người lao
đô nô g, giúp họ tự bảo vê ô mình trước khi hết tuổi lao đô nô g, tự lo cho bản thân
mô ôt cách hợp lý nhất nhờ vào viê ôc đã cống hiến sức lao đô nô g của mình tạo ra
của cải vâ ôt chất cho xã hô ôi trước đó. Đây là chế dô ô mang tính xã hô ôi hóa cao
được thực hiê ôn mô tô cách thường xuyên, đều đă nô trong khoảng thời gian dài
và nhâ ôn được sự quan tâm của toàn xã hô ôi.
BHXH Việt Nam là cơ quan sự nghiê pô thuô cô Chính phủ được thành
lâ pô để đảm nhiê m
ô vai trò tổ chức thực hiê nô Chính sách BHXH trong cả nước.
Trong hê ô thống BHXH, BHXH cấp huyê nô là cấp cơ sở trực tiếp thực hiê nô tiếp
nhâ nô hồ sơ và chi trả chế đô ô hưu trí cho người lao đông. BHXH huyê nô Thọ
Xuân, tỉnh Thanh Hóa từ khi được thành lâ pô đã luôn là lá cờ đầu của tỉnh
Thanh Hóa trong viê cô thực hiê nô nhiê m
ô vụ được giao. Là cấp thực hiê nô chế đô ô
hưu trí cho người lao đô nô g trên địa bàn huyê nô , trong thời gian vừa qua BHXH
huyê nô Thọ Xuân đã thực hiê nô chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH cho nhiều
người với số lượng tiền lớn, đảm bảo đầy đủ, kịp thời và an toàn. Tuy nhiên,
BHXH huyê nô cũng không tránh khỏi những khó khăn vướng mắc như: Viê cô
quản lý chi trả cho đối tượng hưởng lương hưu hàng tháng chưa chă tô chẽ, thủ
tục nhâ nô lương hưu tại nơi cư trú chưa thuâ nô tiê nô , chưa có đủ biê nô pháp đảm
bảo an toàn trong viê cô cấp phát tiền cho đại diê nô chi trả, viê cô tổ chức chi trả
chế đô ô còn sử dụng quá nhiều biểu mẫu tốn thời gian và công sức, việc ứng
dụng công nghệ thông tin trong quản lý chi trả BHXH chưa được khai thác đầy
đủ…
1
Với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về chế độ hưu trí cả về lý luận lẫn
thực tiễn, em lựa chọn báo cáo thực tập “Tình hình thực hiê ên chế đô ê hưu
trí tại huyê n
ê Thọ Xuân tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2003-2008”
Trong khuôn khổ có hạn của báo cáo khoa học với đối tượng nghiên
cứu là Công tác chi trả chế đô ô hưu trí em tập trung đưa ra khái niê ôm, nô ôi
dung, những quy định của Pháp luâ ôt hiê ôn hành về chế đô ô hưu trí. Về thực
tiễn, em làm rõ tình hình thực hiê ôn chế đô ô hưu trí trong phạm vi nghiên cứu là
BHXH huyê nô Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2003-2008, đánh giá kết
quả đạt được, phân tích nguyên nhân của những thành công và hạn chế. Trên
cơ sở đó đưa ra mô tô số đề xuất nhằm thực hiê nô tốt hơn chế đô ô hưu trí cho
người lao đô nô g trên địa bàn huyê ôn trong thời gian tới.
2
Chương 1: Mô êt số vấn đề chung về chế đô ê hưu trí
1.1.
Khái niê êm chế đô ê hưu trí
BHXH là sự tổ chức bảo đảm bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập
cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập từ nghề nghiệp do bị
giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc sức lao động không được sử dụng,
thông qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các
bên tham gia BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác, nhằm góp phần đảm bảo
an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ; đồng thời góp phần bảo đảm
an toàn xã hội.
Chế đô ô BHXH là sự cụ thể hóa chính sách BHXH, là xương sống của
chính sách BHXH. Để hình thành nên mỗi một chế độ BHXH cần thiết phải
dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn như nhu cầu của người lao động, khả năng
đáp ứng của người lao động, người sử dụng lao động cũng như cơ quan BHXH
(về tài chính, trình độ quản lý…), điều kiện kinh tế xã hội hay một số căn cứ
khác như kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới, công ước
quốc tế. Trong hệ thống các chế độ đã được quy định tại các công ước và đang
được thực hiện tại Việt Nam, có thể nói chế độ hưu trí là chế độ quan trọng
nhất, ảnh hưởng nhiều nhất đến đời sống của tất cả mọi người lao động. Chế độ
hưu trí là hình thức đảm bảo thu nhâ pô cho người lao đô nô g khi hết tuổi lao đô nô g
với những nội dung cụ thể được quy định trong Luật BHXH năm 2006 như đối
tượng hưởng, mức hưởng, điều kiện hưởng, thời gian hưởng...
1.2.
Sự cần thiết khách quan và vai trò của chế đô ê hưu trí.
1.2.1. Sự cần thiết khách quan.
Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở... Để
thỏa mãn nhu cầu tối thiểu này, con người phải lao động làm ra những sản
phẩm cần thiết. Của cải xã hội càng nhiều, mức độ thoả mãn nhu cầu càng
cao, có nghĩa là việc thoả mãn nhu cầu phụ thuộc vào khả năng lao động của
con người. Trong thực tế cuộc sống “sinh- lão- bệnh- tử” là quy luật bất biến.
Khi rơi vào các trường hợp đó, các nhu cầu thiết yếu của con người không vì
3
thế mà mất đi. Trái lại, có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm nhu
cầu mới. Bởi vậy, muốn tồn tại, con người và xã hội loài người phải tìm ra và
thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau.
Để khắc phục những rủi ro, bất hạnh giảm bớt khó khăn cho bản thân
và gia đình thì ngoài việc tự mình khắc phục, người lao động phải được sự bảo
trợ của cộng đồng và xã hội. Sự tương trợ dần dần được mở rộng và phát triển
dưới nhiều hình thức khác nhau. Những yếu tố đoàn kết, hướng thiện đó đã tác
động tích cực đến Nhà nước dù thuộc các chế độ xã hội khác nhau. Trong quá
trình phát triển xã hội, đặc biệt là từ sau cuộc cách mạng công nghiệp, hệ
thống BHXH đã có những cơ sở để hình thành và phát triển. Quá trình công
nghiệp hoá làm cho đội ngũ người làm công ăn lương tăng lên, cuộc sống của
họ phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập do lao động làm thuê đem lại. Sự hẫng hụt
về tiền lương trong nhiều trường hợp trong đó quan trọng nhất là nỗi lo khi về
già không có thu nhập để sinh sống hoặc phải dựa dẫm vào con cháu đã trở
thành mối đe doạ đối với cuộc sống bình thường của những người không có
nguồn thu nhập nào khác ngoài tiền lương. Sự bắt buộc phải đối mặt với
những nhu cầu thiết yếu hàng ngày đã buộc những người làm công ăn lương
tìm cách khắc phục bằng những hành động tương thân, tương ái (lập các quỹ
tương tế, các hội đoàn...); đồng thời, đòi hỏi giới chủ và Nhà nước phải có trợ
giúp bảo đảm cuộc sống cho họ.
Người lao đô nô g tạo ra thu nhâ pô để nuôi sống bản thân và gia đình qua
quá trình lao đô nô g. Quá trình này diễn ra trong các nhà máy, xí nghiê ôp, đơn vị
kinh tế, cơ quan hành chính sự nghiê ôp, trong hoă ôc ngoài quốc doanh. Trong
quá trình đó, họ cống hiến sức lao đô nô g để xây dựng đất nước bằng cách tạo
ra thu nhâ pô cho xã hô ôi và cho chính bản thân mình. Do đó đến khi họ không
còn khả lao đô nô g nữa phải nhâ nô được sự quan tâm ngược lại từ phía xã hô ôi.
Có nhiều cách để thể hiê ôn sự quan tâm đó, song có thể nói khoản tiền lương
hưu hàng tháng phù hợp với số phí mà người lao đô nô g đã đóng góp trong suốt
quá trình lao đô nô g là biê ôn pháp được thực hiê ôn mô ôt cách chủ đô nô g, có diê ôn
bao phủ rô nô g, là biê nô pháp ưu viê tô nhất hiê nô nay. Nguồn trợ cấp này tuy ít
hơn so với khoản tiền lương tiền công lúc đang làm viê ôc nhưng rất quan trọng
và cần thiết giúp cho người về hưu ổn định cả vâ ôt chất lẫn tinh thần.
4
Chế đô ô hưu trí đảm bảo quyền lợi cho người lao đô nô g, giúp họ tự bảo
vê ô mình khi hết tuổi lao đô nô g, tự lo cho chính bản thân minh mô tô cách hợp lý
nhất nhờ vào viê ôc họ đã cống hiến sức lao đô nô g của mình để tạo ra của cải
vâ ôt chất cho xã hô ôi trước đó. Người lao đô nô g cần trích mô ôt tỷ lê ô % tiền
lương tương đối nhỏ khi còn đang làm viê ôc trong mô ôt thời gian nhất định.
Đến khi hết tuổi lao đô nô g phải nghỉ viê ôc họ sẽ được đảm bảo của xã hô ôi
nhằm giảm bớt phần nào khó khăn về mă ôt tài chính do không có thu nhâ pô do
không còn lao đô nô g nữa.
Như vâ ôy, chế đô ô hưu trí là mô ôt chế đô ô mang tính xã hô ôi hóa cao được
thực hiê nô mô tô cách thường xuyên và đều đă nô , kế tiếp từ thế hê ô này sang thế
hê ô khác. Nói cách khác, chế đô ô hưu trí lấy đóng góp của thế hê ô sau để chi trả
cho thế hê ô trước. Vì vâ ôy nó tạo ra sự ràng buô ôc và đoàn kết giữa các thế hê ô,
làm cho mọi người trong xã hô ôi quan tâm và gắn bó với nhau hơn, thể hiê ôn
mối quan tâm sâu sắc giữa người với người trong xã hô ôi.
1.2.2. Vai trò và đăcă trưng của chế đô ă hưu tri
1.2.2.1. Vai trò của chế đô ô hưu tri
- Đối với Nhà nước
Với viê ôc đảm bảo đời sống vâ ôt chất và tinh thần cho người nghỉ hưu
sẽ góp phần đảm bảo ổn định xã hô ôi, đảm bảo thực hiê ôn thắng lợi các chính
sách xã hô ôi khác của quốc gia. Mă ôt khác tạo ra đô nô g lực mới để khuyến
khích người lao đô nô g chăm chỉ, yên tâm hơn trong lao đô nô g sản xuất để nâng
cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Thực tế cho thấy ở các nước thực hiê nô
tốt chính sách chế đô ô đối với người nghỉ hưu đã tạo ra mô ôt cơ sở xã hô ôi bền
vững. Ngược lại ở những nước chưa thực hiê ôn tốt chính sách đối với người
nghỉ hưu, xã hô ôi mất ổn định, người lao đô nô g luôn phải đối mă ôt với những
khó khăn khi phải nghỉ viê ôc do hết tuổi lao đô nô g mà không có những đảm
bảo cho cuô ôc sống phía trước. Điều này dẫn đến nguy cơ mất ổn định về
chính trị và ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng phát triển của nền kinh tế
Theo nguyên tắc đóng- hưởng, người lao động và người sử dụng lao
động hàng tháng đóng một tỷ lệ % trên tiền lương, tiền công tháng và trên
5
tổng quỹ lương vào quỹ BHXH. Tuy nhiên so không phải mọi người cùng
nghỉ hưu một lúc nên luôn tồn tại một lượng tiền nhàn rỗi, lượng tiền này
được dùng để đầu tư theo lĩnh vực được Pháp luật quy định để đảm bảo an
toàn và tăng trưởng quỹ. Đây là lượng vốn đáng kể đầu tư trở lại nền kinh tế,
góp phần phát triển kinh tế, tạo việc làm không chỉ trong ngành bảo hiểm mà
trong tất cả các lĩnh vực khác, góp phần nâng cao cơ sở vật chất. Từ đó, tệ nạn
xã hội được hạn chế, an sinh xã hội được đảm bảo.
- Đối với người lao đô ông
Người nghỉ hưu là mô tô nhóm xã hô iô đă cô thù. Xét về mă tô tuổi đời thì
phần lớn trong số họ là những người cao tuổi, bị giảm hoă cô hết khả năng lao
đô nô g. Xét về mă tô xã hô iô , người nghỉ hưu là những người có nhiều đóng góp
cho sự nghiê pô xây dựng và phát triển đất nước. Mô tô bô ô phâ nô người nghỉ hưu
là quân nhân, những thương binh, những lão thành cách mạng. Đó là những
người có công với đất nước. Trong quá trình lao đô nô g, người lao đô nô g có sự
đảm bảo chắc chắn về phần thu nhâ pô khi họ nghỉ hưu, giúp họ yên tâm, chú
tâm hơn vào công viê cô
Ngoài ra với viê ôc hàng tháng người lao đô nô g đóng mô ôt khoản tiền
nhất định vào quỹ BHXH, người lao đô nô g đã tiết kiê ôm cho bản thân mình
ngay trong quá trình làm viê ôc để đảm bảo cuô ôc sống khi nghỉ hưu, giảm bớt
phần nào gánh nă nô g cho người thân, gia đình và xã hô ôi. Nói cách khác chế độ
hưu trí đã góp phần nâng cao hiệu quả trong việc chi dùng cá nhân, cân đối chi
tiêu, dự phòng cho những lúc già cả, mất sức lao động một cách chủ động và
khoa học. Đây cũng là cơ hội để mọi người trong xã hội thực hiện trách nhiệm
tương trợ cho những thành viên khác khi gặp khó khăn, rủi ro làm mất hoặc
giảm thu nhập.
- Đối với người sử dụng lao đô ông
Khi các chế độ BHXH, trong đó quan trọng nhất là chế độ hưu trí được
thực hiện tốt sẽ góp phần điều hòa mối quan hệ giữa người lao động và người
sử dụng lao động, giảm mâu thuẫn, tranh chấp, hạn chế tình trạng đình công,
bãi công. Ngoài ra, do tâm lý yên tâm về khoản thu nhập đều đặn khi hết tuổi
lao động, người lao động có động lực để hăng hái, tích cực làm việc, góp phần
6
tăng năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Đây là điều kiện cần thiết để
doanh nghiệp hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh, từng bước mở
rộng thị phần, từ đó tối đa hóa lợi nhuận. BHXH còn là một yếu tố quan trọng
góp phần thu hút, ổn định thị trường lao động, góp phần ổn định và phát triển
sản xuất do người lao động có xu hướng lựa chọn những doanh nghiệp có
tham gia BHXH cho người lao động để vào làm việc.
1.2.2.2. Đă ôc trưng của chế đô ô hưu tri
- Chế đô ô hưu trí là chế đô ô dài hạn nằm ngoài quá trình lao đô ông.
Đă ôc trưng này thể hiê ôn cả quá trình đóng và hưởng chế đô ô hưu trí. Người
lao đô ông tham gia đóng phí BHXH trong mô ôt thời gian dài. Thời gian đó
liên tục đủ lớn theo quy định thì sẽ đủ mô ôt trong những điều kiê ôn để được
hưởng chế đô ô hưu trí. Khi đã đủ các điều kiê ôn thì người lao đô ông sẽ được
hưởng trợ cấp hưu trí trong khoảng thời gian tính từ lúc người lao đô ông
nghỉ hưu đến lúc chết. Quá trình hưởng này dài ngắn bao nhiêu tùy thuô ôc
vào tuổi thọ của từng người.
- Trong chế đô ô hưu trí có sự tách bạch tương đối giữa đóng và
hưởng. Trong suốt quá trình lao đô nô g, số tiền người lao đô nô g đóng góp vào
quỹ Bảo hiểm hưu trí dùng để chi trả hưu bổng cho thế hê ô trước. Như vâ ôy có
sự kế thừa liên tiếp giữa các thế hê ô lao đô nô g trong viê ôc hình thành quỹ Bảo
hiểm hưu trí.
- Chế đô ô hưu trí phụ thuô cô chă ôt chẽ vào quan hê ô sử dụng lao
đô nô g. Người lao đô nô g và người sử dụng lao đô nô g có mối quan hê ô chă ôt chẽ
với nhau. người sử dụng lao đô nô g muốn ổn định và phát triển kinh doanh thì
ngoài viê ôc chăm lo đến đời sống người lao đô nô g mà mình đang sử dụng phải
tạo điều kiê ôn cho họ làm viê ôc đảm bảo cuô ôc sống cho đến khi hết tuổi lao
đô nô g bằng viê ôc đóng BHXH cho người lao đô nô g. Đây cũng là chế đô ô BHXH
duy nhất tại Việt Nam hiê ôn nay có sự tham gia đóng góp của cả người lao
đô nô g và người sử dụng lao đô nô g.
- Chế đô ô hưu trí là chế đô ô quan trọng nhất trong hê ô thống các chế
đô ô BHXH của mỗi quốc gia, bởi đây là mô ôt chế đô ô có số người hưởng trợ cấp
nhiều nhất do hầu hết người lao đô nô g tham gia BHXH đều phải có lúc già
7
yếu, khó có thể tiếp tục lao đô nô g. Chế đô ô hưu trí với vai trò chủ đạo trong cả
hê ô thống BHXH từ khi ra đời cho đến nay luôn nhâ nô được sự quan tâm của
Đảng, Nhà nước và các ban ngành liên quan bằng cách thiết lâ ôp và không
ngừng hoàn thiê ôn chế đô ô cho phù hợp với tình hình thực tế.
- Quỹ Bảo hiểm hưu trí chiếm tỷ trọng lớn trong quỹ BHXH. Đây
cũng là quỹ thành phần chủ yếu trong nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư sinh lời
nhằm ổn định và tăng trưởng quỹ, đảm bảo cân đói thu chi và có dư quỹ để
phát triển nền kinh tế quốc dân tạo viê ôc làm cho người lao đô nô g, góp phần
giải quyết vấn đề thất nghiê ôp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
1.3. Mô tê số quy định của Pháp luâ tê hiê n
ê hành về chế đô ê hưu trí.
1.3.1.
Chế đô ă Hưu tri hàng tháng
1.3.1.1.
Điều kiện hưởng
Nguời lao động được hưởng lương hưu hàng tháng khi có đủ 20 năm
đóng BHXH trở lên và có một trong các đìều kiện sau:
- Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi
- Nam từ đủ 55 tuổi đến đủ 60 tuổi, nữ từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi và
có đủ 15 năm làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc làm
việc nơi có hệ số phụ cấp khu vực từ 0,7 trở lên
- Người lao động từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi có đủ 15 năm làm công
việc khai thác than trong hầm lò
- Người lao động bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp
Người lao động có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên, bị suy giảm khả
năng lao động từ 61% trở lên được hưởng lương hưu với mức thấp hơn nếu
thuộc một trong các trường hợp sau.
- Nam đủ 50 tuổi trở lên, nữ đủ 45 tuổi trở lên
- Có đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc đặc biẹt nặng nhọc, độc hại,
nguy hiểm trở lên
8
1.3.1.2. Mức hưởng
Mức lương hưu hàng tháng của người lao động được tính bằng tỷ lệ %
lương hưu được hưởng nhân với mức bình quân tiền lương, tiền công tháng
làm căn cứ đóng BHXH.
Trong đó:
- Tỷ lệ lương hưu được hưởng tính bằng 45% mức bình quân tiền
lương, tiền công tháng cho 15 năm đóng BHXH trở lên, từ năm thứ 16 trở đi,
cứ thêm mỗi năm đóng BHXH thì tính thếm 2% đối với nam và 3% đối với
nữ, tối đa bằng 75%. Đối với người nghỉ hưu trước tuổi do bị suy giảm khả
năng lao động từ 61% trở lên thì tỷ lệ lương hưu sau khi tính như trên sẽ bị
giảm di 1% cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi.
- Mức bình quân tiền lương, tiền công tháng làm căn cứ dóng BHXH
để tính lương hưu, trợ cấp 1 lần được xác định như sau:
Đối với người lao động có toàn bộ thời gian đóng BHXH theo chế
độ lao động tiền lương do Nhà nước quy định thì mức tiền lương tiền công
để tính lương hưu được tính bằng mức bình quân tiền lương tháng đóng
BHXH của 5 năm cuối trước khi nghỉ hưu nếu bắt đầu tham gia BHXH
trước tháng 1 năm 1995, bằng mức bình quân tiền lương tháng đóng
BHXH của 6 năm cuối trước khi nghỉ hưu nếu bắt đầu tham gia BHXH
trong khoảng thời gian từ tháng 1 năm 1995 đến tháng 12 năm 2000, bằng
mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH của 8 năm cuối trước khi
nghỉ hưu nếu bắt đầu tham gia BHXH trong khoảng thời gian từ tháng 1
năm 2001 đến tháng 12 năm 2006, bằng mức bình quân tiền lương tháng
đóng BXHH của 10 năm cuối trước khi nghỉ hưu nếu bắt đầu tham gia
BHXH trong khoảng thời gian từ tháng 1 năm 2007 trở đi.
Đối với người lao động có toàn bộ thời gian đóng BHXH theo chế độ
tiền lương do người sử dụng lao động quyết định thì mức bình quân tiền
lương, tiền công để tính lương hưu là mức bình quân tiền lương tiền công
tháng đóng BHXH của toàn bộ thời gian
9
Đối với người lao động vừa có thời gian đóng BHXH theo chế độ tiền
lương do Nhà nước quy định vừa có thời gian đóng BHXH theo chế độ tiền
lương do người sử dụng lao động quyết định thì mức bình quân tiền lương,
tiền công để tính lương hưu là mức bình quân tiền công tháng đóng BHXH
chung của các thời gian.
Tiền lương, tiền công đã đóng BHXH theo chế độ tiền lương do Nhà
nước quy định được điều chỉnh theo mức lương tối thiểu chung tại thời
điểm hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH. Tiền lương, tiền công đã đóng
BHXH theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định được
điều chỉnh tăng tại thời điểm hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH trên cơ sở
chỉ số giá sinh hoạt của từng thời kỳ theo quy định của Chính phủ.
- Trường hợp lương hưu thấp hơn mức lương tối thiểu chung thì được
quỹ BHXH bù bằng mức lương tối thiểu chung.
- Lương hưu được điều chỉnh trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá sinh
hoạt và tăng trưởng kinh tế theo quy định của Chính phủ
- Lương hưu được điều chỉnh trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá sinh
hoạt và tăng trưởng kinh tế theo quy định của Chính phủ.
- Người hưởng lương hưu được cấp thẻ BHYT do quỹ BHXH đảm bảo.
1.3.2.
Trợ cấp Bảo hiểm xã hô ăi 1 lần
1.3.2.1.
Điều kiện hưởng trợ cấp 1 lần
Người lao động được hưởng trợ cấp 1 lần do quỹ BHXH chi trả khi có
một trong các điều kiện sau:
+ Đủ tuổi nghỉ hưu nhưng chưa đủ 20 năm đóng BHXH
+ Bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên mà chưa đủ 20
năm đóng BHXH.
+ Sau 1 năm nghỉ việc không tiếp tục đóng BHXH và có yêu cầu nhâ nô
BHXH 1 lần mà chưa đủ 20 năm đóng BHXH
+ Ra nước ngoài để định cư
10
1.3.2.2. Mức hưởng
Mức trợ cấp BHXH một lần được tính theo số năm đã đóng BHXH,
cứ mỗi năm tính bằng 1,5 tháng mức bình quân tiền lương, tiền công tháng
đóng BHXH
1.3.3. Trợ cấp 1 lần khi nghỉ hưu
1.3.3.1. Điều kiện hưởng
Người lao động đã đóng BHXH trên 30 năm đối với nam, trên 25 năm
đối với nữ, khi nghỉ hưu ngoài lương hưu còn được hưởng trợ cấp 1 lần
1.3.3.2. Mức hưởng
Mức trợ cấp được tính theo số năm đóng BHXH kể từ năm thứ 31
trở đi đối với nam, năm thứ 26 trở đi đối với nữ, cứ mỗi năm đóng BHXH
thì được tính bằng 0,5 tháng mức bình quân tiền lương, tiền công tháng
đóng BHXH.
1.3.4. Bảo lưu thời gian đóng BHXH
Người lao động khi nghỉ việc hưởng lương hưu hoặc chưa hưởng
BHXH một lần được bảo lưu thời gian đóng BHXH để làm cơ sở cộng nối
với thời gian đóng BHXH sau này (nếu có) hoặc hưởng chế độ BHXH khi
có điều kiện
11
Chương 2: Thực trạng thực hiê ên chế đô ê hưu trí tại Bảo hiểm xa
hô êi huyê ên Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa
2.1. Vài nét khái quát về BHXH Huyê ên Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa
Thọ Xuân là một vùng bán sơn địa của tỉnh Thanh Hóa, có địa bàn rộng và
địa hình tương đối phức tạp, diện tích tự nhiên 29.670 ha trong đó diện tích đất
nông nghiệp 16.200 ha, cơ cấu kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, dân số hơn 2,3
vạn người. Toàn huyện có 41 xã, thị trấn trong đó 3 thị trấn trực thuộc huyện, 5
xã miền núi, có 92 cơ quan doanh nghiệp đóng trên địa bàn huyện với 1.600 lao
động tham gia BHXH, trong đó 5 doanh nghiệp do tỉnh và trung ương quản lý.
Nằm trong hệ thống tổ chức của BHXH Việt Nam, BHXH huyện Thọ
Xuân được thành lập vào ngày 15 tháng 6 năm 1995 theo quyết định số
138/QĐ/TC-CB của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam và chính thức đi vào hoạt
động ngày 01/9/1995. Là đơn vị trực thuộc BHXH tỉnh, BHXH huyện có chức
năng giúp BHXH tỉnh thực hiện các chế độ, chính sách BHXH và quản lý quỹ
BHXH trên địa bàn huyện Thọ Xuân. Cụ thể đó là các nhiệm vụ sau:
- Hướng dẫn người sử dụng lao động lập danh sách lao động đóng
BHXH, đôn đốc theo dõi việc đóng BHXH của người sử dụng lao động và
người lao động trên địa bàn huyện
Tiếp nhận kinh phí, danh sách và tổ chức chi trả trực tiếp hoặc
thông qua mạng lưới đại diện chi trả cho các đối tượng hưởng BHXH do
BHXH tỉnh chuyển đến. Theo dõi việc thay đổi địa chỉ, danh sách đối tượng
tăng giảm trong quá trình chi trả.
Tổ chức cấp sổ, ghi sổ BHXH, đối chiếu chốt sổ đối với người lao
động thuộc các đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn huyện.
Tiếp nhận đơn, thư khiếu nại, tố cáo về chế độ chính sách BHXH
cùng phối hợp với BHXH tỉnh để giải quyết
Thực hiện chế độ kế toán thống kê báo cáo định kỳ theo quy định
của Nhà nước và hướng dẫn của BHXH.
12
BHXH.
-
Thực hiện việc thông tin tuyên truyền, giải thích chế độ chính sách
Thực hiện các nhiệm vụ khác do BHXH tỉnh giao
Từ khi thành lâ ôp đến nay, BHXH huyê nô là cấp cơ sở có chức năng thực
hiê ôn những nhiê ôm vụ của Ngành và địa phương, đảm bảo quyền lợi và nghĩa
vụ của người lao đô nô g, người sử dụng lao đô nô g được thực hiê ôn đúng theo
quy định của Pháp luâ ôt. Để hoàn thành nhiê ôm vụ được giao, BHXH huyện
Thọ Xuân được chia làm 4 bộ phận được cụ thể hóa trong sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Hệ thống tổ chức bộ máy của BHXH Thọ Xuân
Giám đốc
Bộ phận thu
BHXH
Bộ phận giải
quyết CĐCS
Bộ phận chi
BHXH,BHYT
Bộ phận
BHYT
Bộ phận hành
chính văn thư
(Nguồn: BHXH huyện Thọ Xuân)
2.2. Mô êt số yếu tố ảnh hưởng tới viê êc thực hiê ên chế đô ê hưu trí trên
địa bàn huyê ên Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa
2.2.1. Thuâ ăn lợi
- Có sự phân cấp rõ ràng trong hệ thống BHXH: Sự phân cấp chi trả
các chế độ BHXH từ bảo hiểm xã hội tỉnh, huyện đến đại diện chi trả, đơn vị
sử dụng lao động đã tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý và phục vụ
tốt đối tượng tham gia BHXH. Trong việc thực hiện nhiệm vụ của Ngành,
BHXH huyện đã phân công công việc, nhiệm vụ cụ thể cho từng cán bộ, nhân
viên phù hợp với trình độ chuyên môn, kinh nghiệm công tác, sở trường...của
từng người, đảm bảo thực hiện tốt mọi nhiệm vụ được giao.
- Nguồn tiền để chi trả lương hưu và chế độ BHXH hàng tháng
được chủ động: Những năm trước đây, các đối tượng hưởng lương hưu và trợ
13
cấp BHXH do ngân sách Nhà nước đảm bảo thường xảy ra tình trạng nguồn
ngân sách bị thiếu, chậm nên đối tượng không được nhận trợ cấp định kỳ vào
đầu tháng. Để khắc phục khó khăn trên, BHXH Việt Nam đã ứng từ nguồn
Quỹ BHXH để cấp cho BHXH các tỉnh, thành phố để kịp thời chi cho các đối
tượng hưởng các chế độ do NSNN đảm bảo. Nhờ đó, BHXH cấp cơ sở có thể
thực hiện chi trả đều đặn vào đầu tháng cho các đối tượng hưởng lương hưu,
đảm bảo tốt quyền lợi cho các đối tượng.
- Công nghệ thông tin được đưa vào ứng dụng: đặc thù của BHXH
cần lưu trữ khối lượng thông tin lớn, phức tạp và lâu dài, phạm vi quản lý
rộng, bao quát nhiều ngành nghề, do đó ứng dụng công nghệ thông tin trong
BHXH…là yêu cầu bức thiết đã được BHXH Việt Nam quan tâm chỉ đạo.
Năm 2008, chương trình xét duyệt lương hưu và trợ cấp BHXH mang tên
BHXH_NET được đưa vào hoạt động tại BHXH huyện, giúp cán bộ nhân
viên xét duyệt chính xác, nhanh chóng hồ sơ hưởng lương hưu của người lao
động, thực hiện thống nhất việc xét duyệt hồ sơ và quản lý đối tượng hưởng
BHXH bằng công nghệ thông tin trong toàn hệ thống nhằm đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ ngày càng cao của toàn ngành. Bên cạnh đó, BHXH huyện Thọ
Xuân là một trong 3 huyện ở tỉnh Thanh Hóa đang thực hiện thí điểm in thẻ
BHYT trực tiếp tại huyện đối với cả 3 trường hợp in mới, in sai, mất thẻ…
Đây là bước tiến quan trọng trong việc thực hiện chính sách BHXH, đảm bảo
quyền lợi cho người lao động nói chung và người hưởng lương hưu nói riêng
khi khám, chữa bệnh.
- Về đội ngũ cán bộ, nhân viên: Cán bộ, nhân viên trong cơ quan ngoài
trình độ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp tích lũy được còn có lòng nhiệt
huyết với nghề. Bên cạnh đó tất cả cán bộ nhân viên hiện đang làm việc tại BHXH
đều sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Thọ Xuân giàu truyền thống, nên am hiểu về
đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội, đặc thù về địa lý và người dân trong huyện, do
đó rất thuận tiện trong việc thực hiện tốt BHXH cho người lao động.
2.2.2. Khó khăn
- Đối tượng hưởng lương hưu trên địa bàn huyện lớn: Huyện Thọ Xuân
có tổng số 41 xã, thị trấn, 5 xã miền núi trên một địa bàn rộng 29.670 ha với
14
khoảng 2,3 vạn người , có có hơn 100 doanh nghiệp vừa và nhỏ, các tổ hợp sản
xuất, các làng nghề truyền thống được khôi phục và phát triển, hàng ngàn các
cơ sở cá thể đang hoạt động. Hiện nay, số đơn vị sử dụng lao động, số lao động
và số đối tượng hưởng các chế độ BHXH đông so với các huyện khác trong
tỉnh và cùng với sự phát triển chung của kinh tế xã hội đất nước, số đối tượng sẽ
không ngừng tăng lên. Có thể nói đây là khó khăn lớn nhất, ảnh hưởng trực tiếp
đến khả năng quản lý và thực hiện các chế độ BHXH.
- Về điều kiện kinh tế, chinh trị, xã hội: Là vùng bán sơn địa của tỉnh
với địa hình tương đối phức tạp, thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai,
dịch bệnh, khiến đời sống của đại bộ phận người dân làm nông nghiệp gặp
nhiều khó khăn. Lao động trong ngành nông nghiệp là: 60.484 người chiếm
50,6% số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế và chiếm 25,1% dân
số bình quân của huyện. Nhiều lao đô nô g, chủ yếu là lao đô nô g trẻ đến các
thành phố lớn, các khu công nghiê ôp làm viê ôc, khi nghỉ viê ôc do điều kiê ôn
kinh tế khó khăn nên gần như không có trường hợp nào tiếp tục tham gia
BHXH để đủ điều kiê ôn hưởng lương hưu hàng tháng. Đa số 12 tháng sau khi
nghỉ viê ôc người lao đô nô g đều làm đơn xin hưởng BHXH mô ôt lần.
- Về thủ tục hưởng chế độ hưu tri: Hiện nay chưa có quy định cụ thể
và chặt chẽ trong hồ sơ hưởng BHXH của người lao động. Sổ BHXH chưa là
căn cứ quan trọng nhất khi xét duyệt hồ sơ bởi dù sổ BHXH đã được ghi đầy
đủ, chính xác, đã được chốt sổ tại BHXH huyện thì BHXH tỉnh vẫn yêu cầu
người lao động có đầy đủ hồ sơ gốc kèm theo. Một số trường hợp người lao
động bị mất, hư hỏng hồ sơ rất mất thời gian và công sức trong việc khôi phục
hoặc xin xác nhận của đơn vị sử dụng lao động cũ. Điều này là không cần
thiết, trừ trường hợp sổ BHXH ghi không rõ ràng mới yêu cầu có hồ sơ gốc
để giảm hồ sơ, thủ tục cho người lao động. Quy định này mặc dù có thể đảm
bảo tính pháp lý, chặt chẽ song gây không ít khó khăn cho người lao động, đặc
biệt là đối tượng bộ đội chuyển ngành, thanh niên xung phong, đối tượng đã
thay đổi nhiều đơn vị trong quá trình công tác…
- Về trách nhiệm của người sử dụng lao động: Khi ghi sổ BHXH
cho người lao động các đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn huyện chưa
quan tâm đúng mức, không ghi bổ sung khi có bất kỳ thay đổi về tiền lương,
15
chức vụ, đơn vị công tác, có những đơn vị được cấp sổ BHXH từ năm 1996
đến nay vẫn chưa đối chiếu chốt sổ với cơ quan BHXH, có đơn vị ghi bổ
sung thì ghi sai mốc thời gian đóng, mức tiền lương, viết tắt, tẩy xóa…Khi
giải quyết chế độ chính sách bị vướng mắc phải chờ đính chính và đổi lại sổ
nên kéo dài thời gian giải quyết làm chậm thời gian được hưởng chế độ
BHXH của người lao động.
- Hệ thống ngân hàng tại huyện chưa phát triển. Hiện trên địa bàn
huyện mới chỉ có chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn,
Ngân hàng chính sách. Các ngân hàng khác đang cung ứng dịch vụ chi trả
lương hưu, trợ cấp BHXH qua tài khoản thẻ ATM như Ngân hàng Đông Á,
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
chưa có chi nhánh tại huyện. Thêm vào đó, ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn chi nhánh Thọ Xuân mới có 1 máy ATM đặt tại trị trấn Lam
Sơn, trong khi Thọ Xuân là huyện lớn, có địa bàn rộng, nên sẽ rất khó khăn
cho người dân khi nhận lương hưu qua ATM. Mặt khác, hiểu biết chung về tài
khoản, mật mã cá nhân, nguyên tắc hoạt động…của thẻ ATM của người lao
động, đặc biệt là người có độ tuổi cao như đối tượng hưởng lương hưu còn
hạn chế cùng với thói quen sử dụng tiền mặt là chủ yếu nên việc ứng dụng trả
lương hưu qua thẻ ATM chưa và khó đưa vào thực hiện
2.3. Thực trạng thực hiê ên chế đô ê hưu trí tại BHXH huyê ên Thọ
Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
2.3.1. Chế đô ê hưu trí hằng tháng.
2.3.1.1. Công tác xét duyệt hồ sơ hưởng hưu tri
Công tác xét duyệt hồ sơ hưởng hưu trí là khâu quan trọng trong việc
đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người lao động. BHXH huyện luôn coi trọng việc
hướng dẫn thủ tục hồ sơ cho các đối tượng để giải quyết chế độ. Đối với người lao
động được hưởng lương hưu hàng tháng, một số hồ sơ, giấy tờ cần thiết như:
- Sổ BHXH
- Quyết định nghỉ việc hưởng chế độ hưu trí của người sử dụng lao động
16
- Các giấy tờ khác liên quan đến quá trình đóng BHXH như quyết
định nâng lương, chuyển ngạch bậc, quyết định bổ nhiệm…
- Bản quá trình đóng BHXH
Và một số giấy tờ khác theo quy định của Pháp luật
Những giấy tờ, biểu mẫu theo quy định của Pháp luật được in thành
mẫu sẵn để tiện hướng dẫn cho người lao động làm theo, tránh cho người lao
động phải làm đi làm lại nhiều lần. Sau khi kiểm tra, tiếp nhận hồ sơ, BHXH
huyện chuyển cho BHXH tỉnh thụ lý hồ sơ.
2.3.1.2. Công tác chi trả lương hưu
Để thực hiện tốt phương châm chi trả kịp thời, đầy đủ, đúng đối tượng,
đúng chế độ BHXH và an toàn tiền mặt trong quá trình chi trả. Hiện nay
BHXH huyê ôn Thọ Xuân thực hiện song song 2 hình thức chi trả là chi trả trực
tiếp và chi trả gián tiếp.
Mô hình chi trả trực tiếp mới xuất hiện từ khi có tổ chức BHXH Việt
Nam. Định kỳ hàng tháng, cán bộ, công chức BHXH cùng với Ban đại diện
chi trả của các xã đến tận các đại diện, xã, phường, thị trấn để chi trả trực tiếp
cho đối tượng, đặc biệt đối với những đối tượng là lão thành cách mạng,người
cao tuổi, người bị bệnh nặng….Cơ quan BHXH tổ chức đến nhà để chi trả tận
tay đối tượng. Thông qua công tác chi trả còn nắm bắt được tâm tư, nguyện
vọng của đối tượng, đồng thời tuyên truyền chính sách của Đảng và Nhà nước
có liên quan đến quyền lợi BHXH cho đối tượng.
Huyê nô Thọ Xuân là huyện có tới 41 xã, phường, thị trấn, trong đó có 5
xã miền núi đối tượng hưởng chế độ BHXH ít, quãng đường xa, địa hình phức
tạp do vậy công tác tổ chức chi trả cho đối tượng này gặp nhiều khó khăn.
Với 11 cán bô ,ô nhân viên, BHXH huyê ôn không thể chi trả trực tiếp cho tất cả
các đối tượng được mà phải ký hợp đồng chi trả thông qua các xã, phường, thị
trấn. Đó là mô hình chi trả gián tiếp, mô hình này đã được kế thừa từ ngành
Lao động - thương binh và Xã hội. Với hình thức chi trả này, BHXh huyê nô
vẫn thực hiê ôn tốt phương châm chi trả kịp thời đầy đủ và tận tay đối tượng.
17
Là huyê nô có số đối tượng hưởng lương hưu hàng tháng và trợ cấp
BHXH mô ôt lần nhiều, kinh phí chi trả lớn (bình quân hàng năm từ năm 1996
đến năm 2007 chi trả 47,708 tỷ đồng, năm 2008 gần 160 tỷ đồng), tổng chi từ
khi thành lập đến nay là 732,404 tỷ đồng. Theo quy trình chi trả lương hưu và
BHXH hàng tháng, BHXH tỉnh Thanh Hóa thực hiê ôn cấp phát cho BHXH
huyện qua Ngân hàng huyện, sau đó BHXH huyện đến nhận tiền về giao cho
các đại diện chi trả tại trụ sở BHXH để chi trả cho đối tượng. Để đảm bảo an
toàn tiền mă ôt, BHXH huyê ôn sử dụng phương tiện là xe ô tô để chuyên chở
tiền đến tận địa điểm chi trả, phương tiện bảo quản tiền mặt là những hô ôp làm
bằng tôn, có khóa. Mă ôc dù cho đến nay BHXH huyê nô chưa xảy ra tình trạng
thất thoát, mất mát tiền trong quá trình chuyên chở song là huyê nô có địa bàn
rô ông, nhiều xã ở xa trụ sở BHXH huyê ôn, lại thêm tình hình an ninh chính trị
mô ôt số địa phương như xã Xuân Tín… thời gian gần đây không tốt dẫn đến
với phương thức cấp phát bằng tiền mặt, và phương tiện vận chuyển, bảo quản
tiền mặt chưa có sự phối hợp của công an như trên là chưa đảm bảo an toàn
Theo quy định của BHXH Việt Nam, việc lựa chọn phương thức chi trả
nào sẽ tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể. Tuy rằng cho đến nay công tác chi trả
chưa có thất thoát và mất mát lớn nhưng xét về độ an toàn thì phương thức chi
trả trực tiếp và gián tiếp độ an toàn chưa cao và khối lượng công việc dồn hết
vào những ngày đầu tháng, đòi hỏi một lượng tiền mặt rất lớn trong khâu lưu
thông và cần một số lượng người tương đối để phục vụ công tác chi trả. Đây là
yếu tố khách quan đòi hỏi BHXH huyện nghiên cứu ứng dụng phương thức chi
trả qua ATM, đảm bảo tốt nhất quyền lợi của người lao động
2.3.2. Bảo hiểm xa hô êi 1 lần
BHXH một lần là chế độ nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động
không có điều kiện tiếp tục tham gia cho đến khi đủ điều kiện hưởng lương hưu
hàng tháng. Là huyện thuần nông, số lượng lao động trong độ tuổi lao động
nhiều, đời sống kinh tế còn khó khăn do đó nhiều lao động đến các thành phố
lớn, các khu công nghiệp tập trung để làm việc. Do xa quê, lại thêm ảnh hưởng
của khủng hoảng kinh tế nên số lượng người lao động về xin hưởng trợ cấp
BHXH một lần thuộc trường hợp 12 tháng sau khi nghỉ việc không có việc mới,
18
có nhu cầu hưởng BHXH được quy định tại khoản 1 điều 55 Luật BHXH năm
2006 tăng đột biến. Nếu như năm 2007 có 85 đối tượng xin hưởng trợ cấp
BHXH một lần thì đến năm 2008, con số này đã tăng lên 519 người. Đặc biệt
quý I năm 2009, đã có tới hơn 100 đối tượng xin hưởng BHXH 1 lần
Về thủ tục hưởng BHXH một lần, BHXH huyện tuân thủ nghiêm túc
các loại giấy tờ, biểu mẫu theo quy định hiện hành, cụ thể như sau:
Bảng 1: Các loại giấy tờ, biểu mẫu hưởng trợ cấp BHXH một lần
STT
Loại giấy tờ, biểu mẫu
Số lượng
1
Sổ BHXH đã xác định thời gian đóng đến tháng nghỉ việc
01 quyển
2
Đơn đề nghị hưởng trợ cấp BHXH 1 lần theo mẫu 14- HSB có xác
nhận của chính quyền địa phương nơi cư trú tại huyện Thọ Xuân, tỉnh
Thanh Hóa
1 bản
3
Quyết định nghỉ việc hưởng chế độ BHXH hoặc văn bản chấm dứt
hợp đồng lao động hoặc hợp đồng lao động hết thời hạn
1 bản
4
Biên bản giám định y khoa kết luận suy giảm khả năng lao động từ
61% trở lên
3 bản (nếu
có)
5
Bản photocopy dịch sang tiếng Việt có xác nhận của cơ quan dịch
thuật, hộ chiếu, vé máy bay (nếu thuộc diện xuất cảnh)
1 bản (nếu
có)
6
Bản photocopy công chứng hộ khẩu đối với trường hợp người lao
động có địa chỉ thường trú ghi trên sổ BHXH khác với địa chỉ thường
trú hiện tại
1 bản (nếu
có)
7
Giấy ủy quyền có thị thực của chính quyền địa phương nơi cư trú nếu
đến nhận thay
1 bản (nếu
có)
Hầu hết đối tượng đều không biết những giấy tờ cần thiết trên, song khi đến
BHXH huyện đã được cán bộ, nhân viên phụ trách hướng dẫn cụ thể. Mẫu đơn đề
nghị hưởng trợ cấp BHXH một lần đã được BHXH huyện in sẵn và phát miễn phí
cho người lao động có nhu cầu hưởng BHXH một lần. Ngoài ra, Giấy ủy quyền có
thị thực của chính quyền địa phương nơi cư trú nếu đến nhận thay do không có
mẫu sẵn nên thường không đủ căn cứ pháp lý như chưa có chữ ký của cả 2 người:
người ủy quyền và người được ủy quyền, chưa thể hiện rõ mối quan hệ giữa người
19
ủy quyền và người được ủy quyền... Để thuận tiện cho người lao động, cơ quan
BHXH đã thống nhất mẫu giấy ủy quyền cấp cho người lao động nếu có nhu cầu.
Tuy nhiên vẫn còn một số trường hợp người lao động tẩy xóa, ghi sai nội dung
trong đơn đề nghị hưởng trợ cấp BHXH một lần… phải làm đi làm lại nhiều lần.
2.3.3. Trợ cấp 1 lần khi nghỉ hưu
Đây là quyền lợi bổ sung đối với người lao động có thời gian tham gia
BHXH từ năm thứ 31 trở lên đối với nam và năm thứ 26 trở lên đối với nữ,
để đảm bảo công bằng giữa đóng và hưởng, công bằng giữa những người
tham gia BHXH. Trong tổng số 6.141 người lao động hưởng hưu trí trên địa
bàn huyện, có khoảng 4.418 đối tượng đủ điều kiện hưởng trợ cấp 1 lần khi
nghỉ hưu. Về mặt chính trị, với khoảng 2/3 số cán bộ hưu trí đủ điều kiện
hưởng trợ cấp lần đầu đã khẳng định chế độ trợ cấp BHXH lần đầu của
Đảng và Nhà nước là đúng đắn và vô cùng cần thiết. Về mặt kinh tế, đây là
khoản bổ sung ngoài mức lương hưu mà người lao động định kỳ nhận hàng
tháng, đảm bảo công bằng, đóng nhiều hưởng nhiều, đóng ít hưởng ít, từ đó
khuyến khích người lao động tham gia BHXH.
2.4. Đánh giá tình hình thực hiê ên chế đô ê hưu trí tại BHXH huyê ên
Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa
2.4.1. Kết quả đạt được
Công tác quản lý và chi trả các chế độ BHXH cho đối tượng là một
trong những nhiệm vụ chủ yếu của ngành BHXH, luôn được BHXH các cấp
xác định việc đảm bảo chi trả đầy đủ, kịp thời và an toàn, góp phần không nhỏ
đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Trong giai đoạn 2003- 2008,
BHXH huyện đã đạt được nhiều kết quả khả quan, cụ thể như sau:
- Chi trả đầy đủ, kịp thời và đúng chế độ chinh sách cho các đối
tượng hưởng lương hưu hàng tháng và trợ cấp BHXH 1 lần. Trong giai
đoạn từ năm 2003 đến năm 2008, BHXH huyện đã chi trả cho 6.679
người nghỉ hưởng lương hưu hàng tháng, 604 người hưởng trợ cấp
BHXH một lần, với số tiền chi trả lớn (hơn 160 tỷ đồng năm 2008) cho
20
- Xem thêm -