Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực trạng công tác giám định, bồi thường và đề phòng hạn chế tổn thất nghiệp vụ...

Tài liệu Thực trạng công tác giám định, bồi thường và đề phòng hạn chế tổn thất nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới tại công ty cổ phần bảo hiểm ngân hàng nông nghiệp hà nội (abic hà nội)

.DOC
77
2143
114

Mô tả:

LỜI NÓI ĐẦU Cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế nước ta, trong những năm gần đây nhu cầu về vận chuyển hàng hóa, hành khách ngày càng gia tăng đã kéo theo sự gia tăng đáng kể về số lượng các phương tiện vận tải. Tuy nhiên, do điều kiện về cơ sở hạ tầng giao thông nước ta còn nhiều bất cập, trong khi đó ý thức chấp hành luật lệ an toàn giao thông của người dân chưa cao đã dẫn đến phát sinh nhiều hệ lụy, đặc biệt là vấn đề tai nạn giao thông đã trở thành vấn nạn của xã hội. Mặc dù chính phủ, các cấp, các ngành đã và đang thực hiện nhiều biện pháp tích cực nhưng tình trạng tai nạn giao thông không những không được kiềm chế mà còn diễn biến hết sức phức tạp. Hàng năm có đến hàng vạn người chết và bị thương, thiệt hại về vật chất là vô cùng to lớn và trở thành nỗi ám ảnh của mọi người, nhất là đối với chủ nhân có các phương tiện tham gia giao thông. Trước thực trạng đó, nhu cầu về bảo hiểm xe cơ giới ngày càng được các chủ xe quan tâm và xem đây là một trong những biện pháp tích cực để khắc phục những hậu quả khôn lường do tai nạn giao thông gây ra, qua đó giúp họ ổn định về mặt tài chính và an tâm hơn trong quá trình hoạt động nghề nghiệp của mình khi đã chuyển giao rủi ro cho doanh nghiệp bảo hiểm. Trong số những nghiệp vụ mà các công ty bảo hiểm phi nhân thọ triển khai, bảo hiểm kết hợp xe cơ giới (chủ yếu là bảo hiểm vật chất và bảo hiểm trách nhiệm dân sự (TNDS) của chủ xe cơ giới với người thứ ba) là một nghiệp vụ chủ yếu. Ở Công ty Cổ phần bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội (ABIC- Hà Nội), nghiệp vụ này luôn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tổng doanh thu. Tuy nhiên, công tác giám định và bồi thường nghiệp vụ này ở ABIC- Hà Nội vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Với mục tiêu phát triển bền vững và hiệu quả, ABIC- Hà Nội không thể không chú trọng đến công tác nâng cao chất lượng dịch vụ sau bán hàng vì chỉ có giải quyết tốt nhu cầu khách hàng, doanh nghiệp mới có đủ uy tín để tồn tại trong một môi trường cạnh tranh đầy năng động như hiện nay. 1 Vì lý do trên, em đã chọn đề tài “ Thực trạng công tác giám định, bồi thường và đề phòng hạn chế tổn thất nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới tại công ty Cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội (ABIC- Hà Nội) để nghiên cứu. Bố cục bài viết bao gồm 3 chương chính: Chương I: Bảo hiểm xe cơ giới với công tác giám định, bồi thường và đề phòng hạn chế tổn thất Chương II: Thực trạng công tác giám định, bồi thường và đề phòng hạn chế tổn thất nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới tại công ty cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội ( ABIC) Chương III: Kiến nghị và giảm pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác giám định, bồi thường và đề phòng hạn chế tổn thất của nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội.. CHƯƠNG I: BẢO HIỂM XE CƠ GIỚI VỚI CÔNG TÁC GIÁM ĐỊNH, BỒI THƯỜNG VÀ ĐỀ PHÒNG HẠN CHẾ TỔN THẤT. 1.1 . Sự hình thành và phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới. 1.1.1. Sự hình thành và phát triển nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới a, Trên thế giới Không thể phủ nhận vai trò to lớn của hệ thống xe cơ giới đối với sự hình thành và phát triển nền kinh tế. Và ngược lại, cùng với sự tiến bộ không ngừng của khoa học kỹ thuật, các phương tiện cơ giới đã được cải tiến hết sức nhanh chóng. Từ các phương tiện vận tải thô sơ, cho đến nay chúng ta đã có những phương tiện cơ giới hết sức hiện đại với tốc độ di chuyển lên tới hàng trăm km một giờ như ô tô, xe gắn máy... Cùng với đó, chúng ta đã xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng: cầu, đường bộ ngày một hoàn thiện. Tuy nhiên, mọi sự tăng trưởng đều tồn tại những mặt trái: tai nạn giao thông ngày một ra tăng cả về số lượng và mức độ nghiêm trọng đã trở thành vấn đề nhức nhối trong toàn xã hội. Số lượng phương tiện tham 2 gia giao thông tăng cao và tốc độ của các phương tiện ngày càng được cải thiện…là nguyên nhân dẫn đến rủi ro khi tham gia giao thông được đánh giá là một trong các rủi ro đặc biệt nghiêm trọng. Ngoài ra tham gia giao thông còn gặp phải một số rủi ro như mất cắp, thiên tai, phát sinh trách nhiệm dân sự với người khác……. Con người chúng ta cũng đã không ngừng tìm kiếm các biện pháp nhằm hạn chế tối thiểu thiệt hại mà rủi ro khi tham gia giao thông gây ra như: thực hiện luật giao thông, sử dụng các thiết bị an toàn trên phương tiện, xây dựng hệ thống đường giao thông hoàn thiện…Đồng thời, nhằm bù đắp những tổn thất về người và tài sản do những rủi ro này gây ra, công cụ bảo hiểm ra đời và trở thành biện pháp hữu hiệu nhất hiện nay. Khi những rủi ro bất ngờ xảy ra với người điều khiển phương tiện xe cơ giới, không chỉ gây ra những thiệt hại về người và của cho bản thân người đó mà còn có thể phát sinh trách nhiệm của họ đối với tài sản và người mà phương tiện mình gây ra cho người thứ ba. Do vậy, bảo hiểm phương tiện xe cơ giới gồm hai loại bảo hiểm vật chất cho chính phương tiện đó ( được gọi là bảo hiểm vật chất xe cơ giới) và bảo hiểm trách nhiệm với người thứ ba có thể phát sinh khi xe đó gặp rủi ro ( còn gọi là bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ 3). Xe cơ giới được hiểu là tất cả các loại xe tham gia giao thông trên đường bộ bằng động cơ của chính nó như: ô tô, xe gắn máy, mô tô và để đối phó với các rủi ro tai nạn bất ngờ có thể xảy ra gây tổn thiệt hại về giá trị chiếc xe, các chủ phương tiện này thường tham gia bảo hiểm một số hình thức bảo hiểm vật chất xe khác nhau. Ví dụ: + Đối với xe máy hoặc xe mô tô, chủ phương tiện tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự, tại nạn người ngồi… + Đối với xe ô tô, chủ phương tiện có thể tham gia bảo hiểm toàn bộ hoặc cũng có thể bảo hiểm từng bộ phận của xe như: tổng thành thân vỏ, tổng thành động cơ, tổng thành hộp số… Trong hợp đồng bảo hiểm xe, các rủi ro được bảo hiểm hay phạm vi bảo hiểm thông thường bao gồm: 3 + Tai nạn do đâm va, lật đổ. + Cháy, nổ, bão lụt, sét đánh, động đất, mưa đá... + Mất cắp toàn bộ xe ( với ô tô nếu mất cắp một bộ phận sẽ không được bồi thường) + Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác gây nên. Ngoài ra, công ty bảo hiểm còn thanh toán cho chủ xe tham gia bảo hiểm những chi phí cần thiết và hợp lý nhằm: + Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe bị thiệt hại do các rủi ro được bảo hiểm. + Chi phí bảo vệ xe và kéo xe thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất. + Giám định tổn thất nếu thuộc trách nhiệm của bảo hiểm. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp thì số tiền bồi thường cho khách hàng của công ty bảo hiểm sẽ không quá số tiền bảo hiểm ( STBH) đã ghi trên hợp đồng hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm. Đồng thời, công ty bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm bồi thường những thiệt hại vật chất xe gây ra bởi một trong các trường hợp sau: + Hành động cố ý của chủ xe, lái xe + Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để lưu hành theo quy định của Luật an toàn giao thông đường bộ + Chủ xe ( lái xe) vi phạm nghiêm trọng Luật an toàn giao thông đường bộ + Thiệt hại do chiến tranh... Phí bảo hiểm được xác định bằng một tỉ lệ phần trăm nhất định số tiền bảo hiểm và tỉ lệ đó phụ thuộc vào một số yếu tố như: loại xe, khu vực giữ xe và để xe, mục đích sử dụng xe, tuổi tác kinh nghiệm lái xe của người yêu cầu bảo hiểm và những người thường xuyên sử dụng chiếc xe được bảo hiểm cùng với một số yếu tố làm giảm phí bảo hiểm như số lượng tham gia lớn, thời gian tham gia dài và có thực hiện một số biện pháp nhằm hạn chế tổn thất... Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là hình thức bảo hiểm bắt buộc nhằm giúp cho các cá nhân và tổ chức trong xã hội có thể ổn định tài chính khi trách nhiệm pháp lý phát sinh, mặt khác bảo đảm khả năng được bồi thường cho bên bị thiệt hại. Đối tượng bảo hiểm không được xác định 4 trước và công ty bảo hiểm chỉ nhận bảo hiểm cho phần trách nhiệm dân sự của chủ xe phát sinh do sự hoạt động và điều khiển của người lái xe. Một số điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với người thứ ba như: + Có thiệt hại về tài sản, tính mạng hoặc sức khỏe của bên thứ ba + Chủ xe ( lái xe) phải có hành vi trái pháp luật + Phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của chủ xe ( lái xe) với những thiệt hại của người thứ ba + Chủ xe ( lái xe) phải là người có lỗi. Bên thứ ba trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là những người trực tiếp bị thiệt hại do hậu quả của vụ tai nạn nhưng loại trừ: + Lái, phụ xe, người làm công cho chủ xe + Những người lái xe phải nuôi dưỡng như cha, mẹ, vợ, chồng, con cái.. + Hành khách, những người có mặt trên xe... + Tài sản, hành lý, tư trang của những người nêu trên. Cũng giống như bảo hiểm vật chất xe cơ giới, số tiền công ty bảo hiểm phải bồi thường khi rủi ro đó thuộc phạm vi được bảo hiểm trong hợp đồng được giới hạn trên bằng số tiền bảo hiểm thì trong bảo hiểm trách nhiệm dấn sự bắt buộc của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba được giới hạn bởi quy định của nhà nước cho từng loại thiệt hại là thiệt hại về người và thiệt hại về tài sản ( hay được gọi là mức giới hạn trách nhiệm). Mức giới hạn này được quy định cụ thể với từng quốc gia, từng khu vực...Ngoài ra còn có bảo hiểm trách nhiệm dân sự tự nguyện. Đây thường là loại hình bảo hiểm trách nhiệm dân sự có hạn mức trách nhiệm cao hơn sơ với hạn mức trách nhiệm trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc. Mức giới hạn này do chủ xe và doanh nghiệp bảo hiểm tự thỏa thuận... b, Ở Việt Nam Trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, Việt Nam cũng gặp phải những vấn đề bất cập: số lượng phương tiện tham gia giao thông đường bộ ngày càng tăng, chất lượng công trình giao thông chưa đồng bộ, ý thức 5 của người tham gia giao thông còn nhiều hạn chế... Là những nguyên nhân làm cho tình hình tai nạn giao thông ngày càng trở nên nghiêm trọng. Theo thống kê chưa đầy đủ, mấy năm trở lại đây, mỗi năm ở nước ta xảy ra trung bình gần 15.000 vụ tai nạn giao thông đường bộ, khiến trên 12.500 người tử vong và cũng gần bằng ấy người bị thương tật. Điều đáng quan tâm là đa số những người bị tử vong do tai nạn giao thông đường bộ nằm trong lứa tuổi 15 – 45, độ tuổi làm ra nhiều của cải nhất cho xã hội, là trụ cột về kinh tế của các gia đình và trong số người bị chết có gần 2.000 là trẻ em. Để giảm bớt tai nạn giao thông, bên cạnh việc cải thiện cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng phương tiện vận tải, tuyên truyền, giáo dục ý thức chấp hành luật lệ giao thông, Nhà nước đã áp dụng các biện pháp chế tài mạnh mẽ đối với những hành vi cố tình vi phạm pháp luật về giao thông. Cùng với đó, về mặt tài chính, Nhà nước đã tổ chức và khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo hiểm tiến hành và phát triển các dịch vụ bảo hiểm xe cơ giới. Trong các loại hình bảo hiểm xe cơ giới thì ngay từ ngày 10/3/1988, Nhà nước đã ban hành chế độ bảo hiểm bắt buộc đối với bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe. Còn bảo hiểm thân xe hay vật chất xe, bảo hiểm tai nạn lái phụ xe và người ngồi trên xe… là các loại hình bảo hiểm xe cơ giới tự nguyện, cũng được các doanh nghiệp bảo hiểm triển khai thực hiện và cũng rất phát triển trong thời gian qua. Đối với một đất nước có tới trên 20 triệu xe gắn máy, thu nhập của người lao động chưa cao, ý thức chấp hành luật lệ của đa số người tham gia giao thông còn thấp, thì việc bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới nhằm đảm bảo quyền được bồi thường của người bị nạn trong mọi trường hợp là cần thiết . Các quy định về chế tài, xử phạt đối với chủ xe cơ giới tham gia giao thông không mua bảo hiểm đã khiến cho số người tham gia bảo hiểm ngày càng nhiều. Theo quyết định số 23/2007/QĐ-BTC năm 2007 của Bộ Tài chính thì hạn mức trách nhiệm là 50 triệu đồng/người/vụ và 50 triệu đồng/tài sản/vụ. 6 Đến năm 2011, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có gần 30 doanh nghiệp triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới và nó cũng là nghiệp vụ chiếm tỉ trọng doanh thu cao nhất. Theo số liệu thống kê 6 tháng đầu năm 2010, doanh thu phí bảo hiểm xe cơ giới tại 28 DN bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam đạt trên 2.516 tỷ đồng, thị phần cao nhất thuộc về Bảo Việt 25,92%, kế tiếp là PJICO 14,86%, Bảo Minh 11,97% và PVI 11,61%. Đây là loại hình bảo hiểm có doanh thu cao nhất trong số các nghiệp vụ bảo hiểm mà các doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam triển khai. Để có được trên 10 triệu xe gắn máy được bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe, các doanh nghiệp bảo hiểm đã sử dụng một lượng lớn lao động không chuyên, gọi là đại lý, để phân phối sản phẩm bảo hiểm này đến người sử dụng xe. Điều này cũng đồng nghĩa với việc đã có hàng ngàn người có thu nhập thêm từ việc cộng tác với các doanh nghiệp bảo hiểm. Cũng trong 6 tháng đầu năm 2010, các doanh nghiệp bảo hiểm đã chi 1.074 tỷ đồng để bồi thường cho các đối tượng được bảo hiểm xe cơ giới không may bị tai nạn. Đây là tỷ lệ tương đối cao nếu biết rằng trách nhiệm bồi thường của các doanh nghiệp bảo hiểm cho các chủ xe mua bảo hiểm 6 tháng đầu năm 2010 còn kéo dài tới giữa năm 2011 và còn hàng ngàn hồ sơ tai nạn chưa được giải quyết do chưa hoàn thiện thủ tục hay tai nạn mới xảy ra. Điều này giải thích tại sao các doanh nghiệp bảo hiểm triển khai dịch vụ bảo hiểm này có khả năng sẽ không có lãi trong năm tài chính 2010. Các doanh nghiệp kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới trên thị trường bảo hiểm gặp rất nhiều khó khăn. Nguyên nhân chủ quan là do các công ty còn non trẻ, khả năng quản lý và thi hành còn chưa chuyên nghiệp. ngoài ra còn có những nguyên nhân khách quan rất đáng lo ngai như tần suất xảy ra tai nạn quá lớn, nhất là đối với bảo hiểm vật chất xe. Không ít chủ xe ôtô con, chỉ trong một năm đã tới công ty bảo hiểm 3 lần để đề nghị được thông báo tai nạn và yêu cầu bồi thường bảo hiểm do xe bị nạn, nhỏ thì xước vỏ, vỡ kính, lớn thì méo bẹp…, số tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường gấp nhiều lần số phí mà các chủ xe này đã nộp khi mua bảo hiểm. Xe bị nạn là do tay lái của không ít người còn kém, tự gây 7 hư hại xe ngay cả khi đưa xe vào bến bãi. Nhưng đa phần, đáng buồn cho các doanh nghiệp bảo hiểm bị “chi tiền oan”, là khi xe ôtô được bảo hiểm dừng chờ đèn tín hiệu giao thông, bị các chủ xe máy cố len lách lao lên trước va quệt. Số người thiệt mạng, số xe bị hư hại nặng do lái xe cố tình vi phạm luật lệ giao thông, vượt đèn đỏ, vượt đường ngang đường dành cho tàu hỏa cũng gia tăng, với mức độ trầm trọng hơn. Trong khi đó, theo quy định của pháp luật, trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, việc bồi thường thiệt hại về con người đa phần không tính tới lỗi của chủ xe, lái xe . Hiện tượng trục lợi bảo hiểm từ phía chủ xe diễn ra ngày càng nhiều, khi xe bị tai nạn mới mua bảo hiểm, rồi tìm mọi cách để ghi lùi ngày xảy ra tai nạn; xe bị tai nạn do nguyên nhân không được bảo hiểm, nhưng lại tạo hiện trường giả hay tìm cách để được bồi thường với sự tiếp tay của cán bộ bảo hiểm và những người có trách nhiệm khác. Hiện tượng khác cũng đáng lo ngại là tình trạng tranh chấp tại Tòa án giữa các DN bảo hiểm và người được bảo hiểm xe cơ giới ngày càng tăng, mà phần thua thiệt chủ yếu là các công ty bảo hiểm. Chẳng hạn, chủ xe chưa nộp phí bảo hiểm thì chưa phát sinh trách nhiệm bảo hiểm, nhưng Tòa vẫn phán bảo hiểm phải bồi thường. Xe bị tai nạn do lỗi kỹ thuật, không đủ điều kiện lưu hành, DN bảo hiểm cũng bị buộc phải bồi thường. Có những vụ mà DN bảo hiểm rất khó xử lý khi người lái xe máy lơ đãng tự lao vào xe ôtô đỗ trên đường, chết người, có kết luận của cảnh sát giao thông, nhưng chủ xe vẫn đòi bồi thường. Không ít trường hợp xe ôtô tự gây tai nạn, nhưng chủ xe không thông báo cho cảnh sát giao thông, cũng có trường hợp cảnh sát giao thông được thông báo nhưng không tới để lập biên bản hiện trường, với lý do xe không gây thiệt hại cho người thứ ba, khiến cho các DN bảo hiểm không nắm được nguyên nhân và không có cơ sở để bồi thường, làm vụ việc kéo dài, gây tranh cãi, kiện tụng. 1.2. Giám định, bồi thường và đề phòng hạn chế tổn thất nghiệp vụ Bảo hiểm xe cơ giới. 8 1.2.1. Vai trò của công tác giám định, bồi thường và đề phòng hạn chế tổn thất đối với nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới. Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm thì việc đưa sản phẩm của mình đến tay khách hàng chỉ là bước đầu tiên được thực hiện trong hoạt động kinh doanh . Quyền lợi của khách hàng được thực hiện khi có những rủi ro, biến cố bất ngờ xảy ra đối với đối tượng bảo hiểm và rủi ro đó thuộc phạm vi được bảo hiểm ( phạm vi bảo hiểm được quy định cụ thể trong mỗi hợp đồng bảo hiểm còn hiệu lực). Nhà bảo hiểm sẽ chi trả hoặc bồi thường cho khách hàng của họ giá trị thiệt hại đó bằng tiền hay hiện vật theo các điều khoản được kí kết trong hợp đồng và giá trị đó phải được sự đồng thuận từ cả hai phía. Để xác định được mức độ thiệt hại thực tế và số tiền công ty phải bồi thường là bao nhiêu thì tất cả các công ty bảo hiểm đều phải thực hiện công tác giám định. Sau đó là thực hiện chi trả, bồi thường cho khách hàng để bù đắp toàn bộ hay một phần thiệt hại mà rủi ro gây ra đồng thời cũng là hoạt động thực hiện nghĩa vụ của công ty bảo hiểm với khách hàng của mình. Để giảm thiểu mức độ thiệt hại mà những rủi ro, biến cố bất ngờ phát sinh cho khách hàng và nhà bảo hiểm thì công tác đề phòng hạn chế tổn thất trở thành vô cùng quan trọng. Trong kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới thì vai trò của công tác này càng thể hiện rõ nét. Do nó là vấn đề ảnh hưởng đến quyền lợi của hai bên nên luôn được chú trọng và không ngừng hoàn thiện. Nói đơn giản hơn, khi có thiệt hại xảy ra, chúng ta cần phải biết mức độ thiệt hại là bao nhiêu? Thiệt hại đó có thuộc trách nhiệm của nhà bảo hiểm không? Và sau khi đã xác định được giá trị mà nhà bảo hiểm phải bồi thường cho khách hàng thì công ty bảo hiểm cần có các biện pháp để thực hiện công việc này hiệu quả nhất nhằm thực hiện quyền lợi mà khách hàng được hưởng đồng thời tránh những tranh chấp không đáng có để ảnh hưởng đến danh tiếng của công ty bảo hiểm. Trong khi rủi ro chưa xảy ra hoặc đã xảy ra, cả khách hàng cùng công ty bảo hiểm sẽ phải cùng có các biện pháp nhằm hạn chế tới mức thấp nhất thiệt hại mà rủi ro đó gây ra vì vậy công tác đề phòng hạn chế tổn thất không chỉ đươc thực hiện bởi nhà bảo hiểm mà cả với những người tham gia bảo hiểm… 9 Theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm, khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra, doanh nghiệp bảo hiểm phải có trách nhiệm và nghĩa vụ bồi thường hoặc chi trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm. Để được bồi thường hoặc chi trả, bên tham gia bảo hiểm tiến hành khiếu nại đòi bồi thường hoặc chi trả đối với doanh nghiệp bảo hiểm , văn bản khiếu nại thường là giấy yêu cầu đòi bồi thường hoặc chi trả. Đồng thời giải quyết khiếu nại một cách chủ động, nhanh chóng, chính xác, hợp lý là sự biểu hiện cụ thể trách nhiệm và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm đối với khách hàng của mình. Để xác định chính xác được số tiền bảo hiểm doanh nghiệp phải thanh toán cho khách hàng trước hết doanh nghiệp bảo hiểm phải tiến hành giám định tổn thất. 1.2.2. Nội dung công tác giám định, bồi thường và đề phòng hạn chế tổn thất nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới. 1.2.2.1. Công tác gám định Công tác giám định tổn thất là công đoạn phục vụ sau bán hàng của doanh nghiệp bảo hiểm. Vì vậy công đoạn này quan trọng đối với cả doanh nghiệp bảo hiểm và đối với khách hàng tham gia bảo hiểm. Mục tiêu của công tác giám định nhằm tìm ra nguyên nhân tổn thất và đánh giá mức độ tổn thất của đối tượng được bảo hiểm. Công ty bảo hiểm được đánh giá là có uy tín trong công tác này khi công tác giám định diễn ra nhanh chóng và chính xác. Để tổ chức công tác giám định tổn thất có hiệu quả thì doanh nghiệp bảo hiểm thường xây dựng đội ngũ làm công giám định ( giám định viên) chuyên nghiệp. Giám định viên không những cần phải có chuyên môn sâu về nghiệp vụ bảo hiểm mà cần phải am hiểu những lĩnh vực liên quan như: lĩnh vực cơ khí chế tạo ô tô, luật giao thông đường bộ, luật giao dân sự… và cả đạo đức nghề nghiệp. Chuyên viên giám định phải công minh, phải chấp hành nghiêm chỉnh những chỉ thị, ý kiến của doanh nghiệp bảo hiểm. Ngoài ra các trường hợp có tổn thất lớn hay nguyên nhân tổn thất phức tạp thì khách hàng và doanh nghiệp bảo hiểm có thể thỏa thuận thuê giám định viên độc lập. Việc thuê giám định viên độc lập cũng là rất cần thiết , nó giúp công đoạn giám 10 định khách quan hơn đồng thời làm giảm tranh chấp giữa khách hàng với công ty bảo hiểm. Nội dung công tác giám định tổn thất: + Thông báo tai nạn: Cũng như các loại đơn bảo hiểm khác, nhà bảo hiểm yêu cầu chủ xe ( lái xe) ki xe bị tại nạn phải tìm mọi cách cứu chữa, hạn chế tổn thất, đồng thời nhanh chóng thông báo cho cảnh sát giao thông và cho công ty bảo hiểm biết. Chủ xe không được phép di chuyển, tháo dỡ hoặc sửa chữa xe khi chưa có ý kiến của công ty bảo hiểm, trừ trường hợp phải thi hành chỉ thị của cơ quan có thầm quyền. + Giám định tổn thất: Thông thường đối với bảo hiểm vật chất xe cơ giới, việc giám định tổn thất được công ty bảo hiểm tiến hành với sự có mặt của chủ xe, lái xe hoặc người đại diện hợp pháp nhằm xác định nguyên nhân và mức độ thiệt hại. Chỉ trong trường hợp hai bên không đi đến thống nhất thì lúc này mới chỉ định giám định viên độc lập. Khi xác định được rủi ro xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ tiến hành các bước giám định như sau: - Chuẩn bị giám định: trước khi tiến hành giám định phải chuẩn bị đầy đủ các loại giấy tờ có liên quan như: Đơn bảo hiểm hoặc giấy yêu cầu bảo hiểm, bảng kê chi tiết các loại tài sản được bảo hiểm, giấy ra viện, các hóa đơn chứng từ, hóa đơn sửa chữa, thay thế… Ngoài ra còn phải chuẩn bị hiện trường giám định nếu cần, tổ chức mời các bên liên quan tham gia chứng kiến trong quá trình tiến hành giám định như cơ quan công an, chính quyền địa phương, y bác sĩ, các chuyên gia… - Tiến hành giám định: Công tác giám định phải được tiến hành khẩn trương và ý kiến của giám định viên đưa ra phải chính xác, hợp lý và nhất quán. Trong quá trình giám định phải tập trung vào một số công việc như: Kiểm tra đối tượng giám định, phân loại tổn thất, xác định mức độ tổn thất, mức độ lỗi của các bên…. - Lập biên bản giám định: đây sẽ là tài liệu ghi nhận kết quả của quá trình làm giám định và là cơ sở chủ yếu để xét duyệt bồi thường hoặc chi trả bảo hiểm và khiếu nại người thứ ba ( nếu có). Nội dung của biên bản cần đảm bảo tính trung thực, chính 11 xác, rõ ràng, cụ thể. Các số liệu phải phù hợp với thực tế và không có mâu thuẫn với các giấy tờ khác có liên quan…. 1.2.2.2. Công tác bồi thường tổn thất nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới Khi đã có kết quả giám định, công ty bảo hiểm sẽ thực hiện bồi thường cho khách hàng của mình nhằm đảm bảo những cam kết trong hợp đồng và để bù đắp toàn bộ hoặc một phần những thiệt hại mà khách hàng của mình phải gánh chịu. Bồi thường là một trong các hoạt động chi lớn nhất đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm vì vậy công đoạn này đòi hỏi phải chính xác, minh bạch đồng thời cũng cần có tính hợp lý, kịp thời để quyền lợi của khách hàng được đảm bảo. Khi thực hiện bồi thường là khi doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện cam kết của mình đối với khách hàng sử dụng sản phầm của doanh nghiệp và có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Công tác này thể hiện rất nhiều uy tín của doanh nghiệp, thể hiện sự chuyên nghiệp và mức độ đáng tin cậy của khách hàng đối với doanh nghiệp hiện tại và trong tương lai. Trình tự giải quyết bồi thường hoặc chi trả tiền bảo hiểm được tiến hành như sau: * Mở hồ sơ khách hàng: Khi nhận được biên bản giám định tổn thất và các giấy tờ có liên quan, bộ phận giải quyết bồi thường phải mở hồ sơ khách hàng và ghi lại theo thứ tự hồ sơ và thời gian. Sau đó thực hiện đối chiếu, kiểm tra với bản hợp đồng gốc về các thông tin liên quan đến bản kê khai tổn thất. Tiếp theo phải thông báo cho khách hàng khi nhận đủ giấy tờ hoặc nhanh chóng yêu cầu cung cấp đầy đủ trong trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ… * Xác định số tiền bồi thường, chi trả bảo hiểm: Sauk hi hoàn tất hồ sơ bồi thường của khách hàng bị tổn thất hoặc cần phải chi trả, bộ phận giải quyết bồi thường phải tính toán số tiền phải bồi thường trên cơ sở khiếu nại của người được bảo hiểm, số tiền đó được xác định căn cứ vào: - Biên bản giám định tổn thất và bản kê khai tổn thất - Điều khoản, điều kiện của hợp đồng bảo hiểm - Bảng theo dõi số phí bảo hiểm đã nộp 12 - Số tiền vay trên hợp đồng ( nếu có) - Thực tế chi trẩ của người thứ ba ( nếu có) và một số giấy tờ khác có liên quan… * Thông báo bồi thường, chi trả: Sau khi xác định được số tiền phải bồi thường, chi trả, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thông báo chấp nhận bồi thường và đề xuất các hình thức bồi thường cho khách hàng như: thanh toán bằng tiền mặt, sửa chữa tài sản, thay thế mới tài sản…Nếu số tiền bồi thường quá lớn, doanh nghiệp bảo hiểm có thể thỏa thuận với khách hàng về ký hạn thanh toán, thời gian, lãi suất trả chậm... Phần lớn các vụ tổn thất được giải quyết bồi thường hoặc chi trả rất nhanh chóng, ngay sau khi khách hàng tập hợp được các giấy tờ chứng minh cần thiết cùng với đơn khiếu nại thiệt hại do tổn thất gây ra và lập biên bản giám định. Một số khó khăn trong công tác bồi thường tổn thất cho doanh nghiệp bảo hiểm, đồng thời gây ra tâm lý khó chịu, thậm chí là xảy ra khiếu kiện cho khách hàng như: - Số tiền thiệt hại phải bồi thường không thể xác định được ngay ( như: người bị thương cần có thời gian để bình phục, thiệt hại đối với tài sản trên xe cần có thời gian xác định chính xác…) - Trách nhiệm, nguyên nhân gây ra tổn thất không thể xác định được ngay nên các bên phải thỏa thuận và gây tranh chấp, buộc tòa án phải can thiệp. - Có nhiều bên thụ hưởng tiền bồi thường, đòi hỏi phải tính toán, thời gian phân bổ kéo dài. - Người thứ ba cố tình gây khó dễ khi xác định mức độ thiệt hại liên quan đến họ, việc xác định mức lỗi của mỗi bên khi tai nạn xảy ra cũng gặp nhiều khó khăn… Doanh nghiệp bảo hiểm sẽ cố gắng giải quyết hợp lý, tránh các trường hợp có sự can thiệp của tòa án vì điều đó ảnh hưởng không tốt đến uy tín của doanh nghiệp đồng thời sẽ tăng các chi phí liên quan. Một vụ việc giải quyết bồi thường kéo dài đến hàng năm là điều mà cả người tham gia bảo hiểm và nhà kinh doanh bảo hiểm đều không mong muốn… 13 * Truy đòi người thứ ba: Đây là khâu cuối cùng trong công tác bồi thường tổn thất. Thông thường, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ hoàn trả toàn bộ số tiền mà khách hàng được hưởng sau đó doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thực hiện truy đòi người thứ ba nếu họ có liên đới trách nhiệm. Thực hiện truy đòi yêu cầu phải nhanh chóng, chính xác nhằm quản lý tốt các nghiệp vụ bảo hiểm mà kết quả của chúng có liên quan nhiều đến kết quả truy đòi, đặc biệt là trong bảo hiểm xe cơ giới. 1.2.2.3. Nội dung công tác đề phòng hạn chế tổn thất nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới. Trong bảo hiểm xe cơ giới, đề phòng và hạn chế tổn thất đòi hỏi cả nhà bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm cùng thực hiện. Đối với nhà bảo hiểm, chi phí cho hoạt động bồi thường hoặc chi trả tổn thất là hoạt động chi lớn nhất và quan trọng nhất, để giảm chi phí này và các chi phí liên quan, công ty bảo hiểm thường đưa ra một số biện pháp nhằm đề phòng tổn thất xảy ra như: + Đầu tư xây dựng hệ thống đèn tín hiệu, biển báo, biển chỉ dẫn đối với những khu vực thường xuyên xảy ra tai nạn. + Hướng dẫn khách hàng tham gia bảo hiểm thực hiện một số biện pháp an toàn khi tham gia điều khiển phương tiện. + Đầu tư xây dựng hệ thống giao thông đồng bộ, xây cầu, hầm đường bộ… Với khách hàng tham gia giao thông thì việc chấp hành luật an toàn giao thông là vô cùng quan trọng, khi có tổn thất xảy ra thì không những giá trị về vật chất bị suy giảm mà những tổn thất về tinh thần là vô cùng lớn, không gì có thể bù đắp được. Khi trường hợp không mong muốn xảy ra, người bị tai nạn cùng công ty bảo hiểm cần nỗ lực đưa ra các biện pháp xử lý để hậu quả của nó được hạn chế đến mức thấp nhất như: nhanh chóng đưa người bị nạn đi cấp cứu, phương tiện giao thông bị hỏng cần được vận chuyển đúng cách đến nơi sửa chữa, phục hổi. Những hoạt động này được quy định hết sức cụ thể trong các chính sách đề phòng và hạn chế tổn thất của công ty. 14 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁM ĐỊNH, BỒI THƯỜNG VÀ ĐỀ PHÒNG HẠN CHẾ TỔN THẤT NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM XE CƠ GIỚI TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ( ABIC- HÀ NỘI). 2.1 Một vài nét về công ty cổ phần bảo hiểm Ngân Hàng Nông Nghiệp Hà Nội Thực hiện chiến lược đưa Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (AGRIBANK) trở thành một tập đoàn tài chính, ngân hàng hàng đầu ở Việt Nam và lớn mạnh trong khu vực với cấu trúc đa sở hữu, hoạt động kinh doanh đa dạng và có khả năng cung cấp hệ thống các sản phẩm dịch vụ tài chính ngày càng hoàn hảo cho nền kinh tế xã hội, Ban lãnh đạo Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam đã quyết định mở rộng kinh doanh sang lĩnh vực Bảo hiểm phi nhân thọ bằng việc đề xướng thành lập công ty bảo hiểm. Quyết định này đã nhận được sự chấp thuận của Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước. Ngày 18/10/2006, Bộ Tài chính đã cấp giấy phép thành lập và hoạt động số 38GP/KDBH về việc thành lập Công ty Cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông nghiệp Việt Nam và hiện nay là Công ty Cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp (ABIC). Ngày 08/08/2007, công ty chính thức đi vào hoạt động kinh doanh, tham gia vào thị trường bảo hiểm và sẵn sàng phục vụ nhu cầu bảo hiểm phi nhân thọ của các đối tượng khách hàng trên phạm vi cả nước. Một vài nét khái quát về Công ty Cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp:  Tên Công ty: Công ty Cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp  Tên tiếng anh: Agriculture Bank Insurance Joint- Stock Corporation  Tên viết tắt tiếng việt: Bảo hiểm Agribank  Tên viết tắt tiếng anh: ABIC  Ngày hoạt động chính thức: Ngày 08/08/2007  Trụ sở chính: 343 Đội Cấn- Ba Đình- Hà Nội- Việt Nam  Hội đồng quản trị nhiệm kỳ 2007-2011 Chủ tịch : Tiến sỹ Nguyễn Hữu Lương 15 Ủy viên thường trực : Ông Nguyễn Văn Minh Ủy viên : Ông Phạm Công Tứ Ủy viên : Ông Nguyễn Văn Nghiệp Ủy viên : Bà Bùi Minh Hường  Ban điều hành: Căn cứ Nghị quyết kỳ họp thứ 11 và Nghị quyết kỳ họp thứ 13 của Hội đồng quản trị Công ty CP Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp; -Căn cứ văn bản số 6212/BTC-QLBH ngày 17/5/2010 của Bộ Tài chính về việc phê chuẩn chức danh Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Công ty CP Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp. 1.Ông Đỗ Minh Hoàng thôi giữ chức Quyền Tổng Giám đốc Công ty để giữ chức vụ Phó Tổng Giám đốc Công ty CP Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp kể từ ngày 18/5/2010; 2.Ông Nguyễn Văn Minh - Nguyên Ủy viên trực HĐQT, Phó Tổng Giám đốc thường trực được bầu làm Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Công ty CP Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp kể từ ngày 18/5/2010  Lĩnh vực kinh doanh chính: + Kinh doanh bảo hiểm gốc; + Kinh doanh tái bảo hiểm: nhận và nhượng tái bảo hiểm đối với tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ; + Tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật; + Các hoạt động khác theo quy định của pháp luật.  Các sản phẩm Bảo hiểm: + Các nghiệp vụ bảo hiểm sức khỏe và tai nạn con người; + Bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thiệt hại; + Bảo hiểm kỹ thuật; + Bảo hiểm hàng hóa; + Bảo hiểm xe cơ giới; + Bảo hiểm tàu; 16 + Bảo hiểm trách nhiệm chung… Sơ đồ 2.1: Tổ chức CTCP Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp: Đại hội đồng cổ đông Chủ tịch Hội đồng quản trị Ban kiểm soát Tổng Giám đốc Trụ sở chính Các Phó tổng giám đốc Các Chi nhánh Phòng Tái bảo hiểm Chi nhánh Hà Nội Phòng Bảo hiểm tài sản kỹ thuật Chi nhánh Hồ Chí Minh Phòng Bảo hiểm hang hải Chi nhánh Hải Phòng Phòng Bảo hiểm Phi hang hải Chi nhánh Nghệ …….................... An Phòng Kế toán Phòng Thư ký …………………….. pháp chế …………………………… 17 Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội ( ABIC- Hà Nội) được thành lập ngày 01/02/2008 và hoạt động với: Sơ đồ 2.2: Cơ cấu tổ chức CTCP Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp – Chi nhánh Hà Nội: Giám đốc Chi nhánh Phó Giám đốc Chi nhánh Phòng Kinh doanh 1 (Tài sản Kỹ thuật) Phòng KD Khu vực Hưng Yên Phòng KD Khu vực Gia Lâm Phòng Kinh doanh 2 (Hàng hải) Phòng KD Khu vực Hoàng Mai Phòng Kinh doanh 3 (Phi hang hải) Phòng KD Khu vực Thanh Xuân Phòng Kinh doanh 4 (Quản lý Đại lý) Phòng KD Khu vực Cầu Giấy Phòng Tổng hợp Phòng Kế toán Sau hơn ba năm đi vào hoạt động, ABIC Hà Nội đã từng bước mở rộng mạng lưới phục vụ khách hàng, phát triển đa dạng hóa dịch vụ và sản phầm bảo hiểm, góp 18 phần vào mục tiêu phấn đấu của Bảo hiểm ABIC: sau 05 năm hoạt động được xếp vào một trong 10 nhà bảo hiểm hàng đầu trên thị trường bảo hiểm Việt Nam về mặt doanh số, mạng lưới hệ thống, uy tín, thương hiệu, chất lượng dịch vụ… Bảng 2.1: Kết quả hoạt động kinh doanh của ABIC- Hà Nội trong 3 năm hoạt động: Chỉ tiêu Năm 2008 2009 2010 Tổng doanh thu Tổng số tiền bồi thường Số vụ tổn thất ( tỷ đồng) 20,782 61,746 65,858 ( tỷ đồng) 6,3 12,5 28,5 ( vụ) 207 1.217 1.895 (Nguồn: Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp chi nhánh Hà Nội) Tiến một bước dài cùng sự sôi động của thị trường BHPNT Việt Nam năm 2009 ( tổng doanh thu trên thị trường BHPNT là 13.643 tỷ đồng, tăng 25% so với năm 2008), tổng doanh thu phí bảo hiểm của ABIC- Hà Nội đã tăng từ 20,782 tỷ đồng năm 2008 lên đến 61,746 tỷ đồng năm 2009 và đến năm 2010, tổng doanh thu tăng nhẹ lên mức 65,858 tỷ đồng. Năm 2008 tổng số tiền bồi thường chiếm 30,31% so với tổng doanh thu, con số này trong năm 2009 là 20,24% và cho đến năm 2010 là 43,27% đây là những con số đáng lo ngại đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm, thể hiện tính rủi ro cao đồng thời doanh nghiệp BHPNT luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh trên thị trường BHPNT diễn ra ngày càng gay gắt trên cả 3 phương diện: tăng chi phí bán hàng, mở rộng điều kiện và hạ phí BH. Đối mặt trước thực tế đó, nhằm đảm bảo kinh doanh có lãi và giảm tỷ lệ tổn thất, ABIC- Hà Nội đã nâng cao chất lượng giám định bồi thường. Đơn cử, việc sửa chữa tại các gara ô tô, doanh nghiệp đã yêu cầu các đơn vị sửa chữa dự toán giá cho từng hạng mục để chi phí không tăng quá cao so với dự kiến. Để đạt được kết quả kinh doanh tốt, ABIC- Hà Nội còn xây dựng cơ chế tài chính phù hợp giúp đại lý làm ăn thuận lợi hơn và việc đưa ra những sản phẩm BH phù hợp với nhu cầu của khách hàng cũng là một trong những biện pháp cạnh tranh, thu hút khách. Mục tiêu chiến lược là đưa ABIC trở thành một doanh nghiệp bảo hiểm có uy tín về chất lượng và phong cách phục vụ khách hàng chuyên nghiệp, nhất là đạt uy tín hàng đầu trong công tác giám định tổn thất, giải quyết khiếu nại, chi trả tiền bồi thường thuận lợi, minh bạch, nhanh chóng và chính xác cho khách hàng… 19 Ngoài việc tham gia cung cấp các sản phẩm bảo hiểm như các doanh nghiệp bảo hiểm khác trên thị trường, ABIC sẽ tập trung vào những sản phẩm bảo hiểm mới góp phần phục vụ nông dân và phát triển nông thôn, một thị phần bảo hiểm còn mới và vô cùng quan trọng với đất nước có tới 70% dân số làm nông nghiệp. 2.2. Kết quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm xe cơ giới tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội trong những năm qua. Bảo hiểm xe cơ giới là một trong các nghiệp vụ bảo hiểm đóng vai trò vô cùng quan trọng và luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng doanh thu phí bảo hiểm của các công ty BHPNT hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Với ABIC- Hà Nội cũng vậy: Trong năm 2008, tổng số hợp đồng khai thác tất cả các nghiệp vụ là 3.240 HĐ, trong đó có tới 1.325 HĐBH xe cơ giới thu về 8,3 tỷ đồng. Năm 2009 thì số HĐBH xe cớ giới cũng chiếm khoảng 30% tổng số hợp đồng công ty khai thác được. Tháng 4 năm 2010,ABIC thực hiện kinh doanh sản phẩm mới có tên là Bảo An Tín Dụng - là sản phẩm liên kết giữa Ngân hàng và Bảo hiểm vì vậy số tiền bảo hiểm cùng thời hạn bảo hiểm đều có mối quan hệ với số tiền mà Agribank chấp nhận cho khách hàng vay, sản phẩm này đã trở thành sản phẩm chiến lược của ABIC và đưa tổng số hợp đồng khai thác được tăng từ 13.932 năm 2009 lên con số 57.865 HĐBH năm 2010. Năm 2010, do công ty không chú trọng khái thác các sản phẩm bảo hiểm xe cơ giới nên tổng số HĐBH khai thác giảm nhẹ từ 4.785 HĐ năm 2009 xuống còn 4.437 HĐ mang về 25,3 tỷ đồng doanh thu phí. Bảng 2.2: Tổng số hợp đồng khai thác và số vụ tổn thất trong các năm: Nội dung Năm 2008 Số HĐBH xe cơ giới ( HĐ) 1.325 Số vụ tổn thất BHXCG 178 Năm 2009 4.785 946 Năm 2010 4.437 1.617 ( Vụ) (Nguồn: Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp chi nhánh Hà Nội) Theo số liệu thống kê ở bảng trên thì số vụ tổn thất có xu hướng tăng với tốc độ cao hơn tốc độ tăng của số HĐBH. Năm 2009, số vụ tổn thất BHXCG tăng gấp 5,3 lần so với năm 2008, trong khi đó số HĐBH xe cơ giới năm 2009 tăng gấp 3,6 lần số 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan