Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Tiền đề thành lập đảng cộng sản việt nam...

Tài liệu Tiền đề thành lập đảng cộng sản việt nam

.DOC
10
51
56

Mô tả:

MỤC LỤC Trang A – Lời mở đầu ……………………………………………………………………...3 B – Nội dung……………………………………………………………………….. 3 I. Chủ nghĩa Mác - Lênin……………………………………….………………..3 1. Chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề ra đời của Đảng Cộng sản…………….. 4 2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề ra đời của Đảng Cộng sản 5 Việt Nam…………………………………………………………………...… II. Phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam………………….. 6 1. Phong trào công nhân Việt Nam…………………………………………… 6 2. Phong trào yêu nước Việt Nam……………………………………………. 6 3. Sự kết hợp phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam…….7 III. Hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh chuẩn bị điều kiện cần thiết tiến 9 tới thành lập Đảng…………………………………………………………... 1. Những hoạt động thực tiễn của Nguyễn Ái Quốc 1911 – 1930……………..9 2. Nhận xét, đánh giá………………………………………………………… 10 C – Kết luận ………………………………………………...……………………... 10 Danh mục tài liệu tham khảo ……………………………………………………... 11 A - LỜI MỞ ĐẦU. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng, sáng tạo và phát triển Chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Người đã để lại một hệ thống tư tưởng vô cùng phong phú, mà trong đó, những luận điểm về Đảng Cộng sản Việt Nam, về xây dựng Đảng là một phần cực kỳ quan trọng. Việc tìm hiểu tiền đề ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ giúp chúng ta nắm rõ cơ sở tư tưởng – lý luận cũng như cơ sở thực tiễn dẫn đến sự thành lập Đảng, những tiền đề ấy chi phối rất lớn đến bản chất, nội dung, tính chất của Đảng Cộng sản Việt Nam. B - NỘI DUNG. Hồ Chí Minh viết: “Chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương” (Đảng Cộng sản Việt Nam – Chương trình tóm tắt của Đảng) vào đầu năm 1930. Chỉ bằng một câu văn ngắn gọn Người đã chỉ ra một cách rõ ràng những tiền đề dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam: Chủ nghĩa Mác – Lênin; Phong trào công nhân và phong trào yêu nước. I. Chủ nghĩa Mác – Lênin. Đây chính là cơ sở lý luận quan trọng nhất dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hồ Chí Minh đã nhận thấy rằng chủ nghĩa Mác – Lênin là học thuyết, nguyên tắc, quy luật chung của lịch sử để đi lên chủ nghĩa xã hội, là học thuyết chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất. Chính vì vậy tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam bắt nguồn từ học thuyết của C.Mác và trực tiếp từ học thuyết xây dựng Đảng kiểu mới của V.I.Lênin. 1. Chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề ra đời của Đảng Cộng sản. C.Mác và V.I.Lênin chủ yếu quan tâm đến vấn đề thành lập Đảng Cộng sản ở các Nghiên cứu sự phát triển của chủ nghĩa tư bản thế kỷ XIX ở Tây Âu, Mác và Ăngghen quan tâm đến vấn đề thành lập các Đảng Cộng sản ở những nước tư bản chủ nghĩa phương Tây, mà nhiệm vụ chủ yếu là lãnh đạo giai cấp vô sản và quần chúng lao động ở các nước tư bản phát triển nhất tiến hành cách mạng vô sản – cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ở đấy, giai cấp vô sản thông qua chính đảng của mình lãnh đạo 2 cuộc cách mạng nhằm trực tiếp lật đổ chế độ tư bản để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. “Vô sản các nước đoàn kết lại!”, đó chính là khẩu hiệu mà Mác và Ăng-ghen đã đề ra để định hướng cho cách mạng vô sản trên phạm vi thế giới. Đến Lênin, ông nêu ra luận điểm: “Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân phương Tây”. Ông đã mở rộng khẩu hiệu của Mác và Ăngghen cho phù hợp với tình hình mới: “Vô sản các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”. Khẩu hiệu đó hoàn toàn đúng với cách mạng lúc bấy giờ, khi mà chủ nghĩa tư bản đã bước vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, vấn đề dân tộc và thuộc địa đã được đặt ra như một vấn đề bức thiết cần được giải quyết ở phần lớn các quốc gia dân tộc trên thế giới, đặc biệt là ở những nước thuộc địa lạc hậu. Mác và Lênin chủ yếu quan tâm đến vấn đề thành lập Đảng Cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa, tìm kiếm lực lượng cách mạng trong xã hội. Các ông cho rằng: Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân phương Tây, có nhiệm vụ lãnh đạo giai cấp vô sản và quần chúng lao động làm cách mạng lật đổ chế độ tư bản và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa Mác là học thuyết xã hội khoa học, mang lý tưởng về một xã hội nhân đạo thực sự, là vũ khí lý luận của giai cấp công nhân, giúp họ dần ý thức được trách nhiệm của mình và chuyển các phong trào công nhân từ tự phát sang tự giác. Giai cấp công nhân lại là giai cấp tiên tiến, đông đảo về lực lượng, lại được rèn luyện, thử thách trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, có khả năng gánh vác sứ mệnh lịch sử giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội. Do đó, với bối cảnh như vậy, quan điểm của Mác và Lênin là hoàn toàn đúng đắn. 2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nếu như cuộc cách mạng ở các nước tư bản phát triển có đặc điểm là cách mạng vô sản – cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhằm trực tiếp giải phóng giai cấp vô sản, từ đó giải phóng cho các tầng lớp nhân dân lao động khác và giải phóng con người. Thì cách mạng ở các nước thuộc địa lạc hậu trước hết phải là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nhằm mục đích trước hết là giải phóng dân tộc, từ đó đi đến giải phóng xã 3 hội (tức là giải phóng giai cấp) và giải phóng con người. Như vậy Đảng Cộng sản ở các nước thuộc địa lạc hậu phải được vũ trang bằng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, phải được xây dựng theo nguyên tắc đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Nhận thức rõ đặc điểm và tình hình thực tế của Việt Nam lúc bấy giờ (là một nước lạc hậu, phụ thuộc, tàn tích phong kiến còn nặng nề), Hồ Chí Minh luôn quan tâm tìm kiếm một lực lượng lãnh đạo mới cho cách mạng Việt Nam, tìm kiếm những cơ sở thực tế dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng sản. Hồ Chí Minh lại quan tâm đến vấn đề thành lập Đảng Cộng sản ở các nước thuộc địa, tìm kiếm lực lượng cách mạng trong dân tộc. Lực lượng cách mạng mới này phải đáp ứng được ba yêu cầu, bao gồm: Phải có khả năng đề ra đường lối đúng đắn, giải quyết được những nhiệm vụ căn bản của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ; phải có khả năng tập hợp lực lượng, quy tụ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng quốc tế. Theo đó, Đảng phải là một tổ chức chính trị tiên phong, vững mạnh, có khả năng đề ra được đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn; có khả năng vận động, tập hợp, tổ chức quần chúng và gắn cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản trên thế giới. Đồng thời, Đảng phải có nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, thực hiện làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, giải quyết triệt để hai mâu thuẫn cơ bản là đánh đuổi thực dân đế quốc và lật đổ phong kiến, tư sản đem lại ruộng đất cho dân cày. Đảng Cộng sản phải công khai lập trường, quan điểm của mình, phải có phương pháp biện chứng duy vật trong đấu tranh cách mạng và vận động quần chúng (phải mềm dẻo, linh hoạt, nhạy bén, nắm thời cơ và đưa quần chúng ra đấu tranh, tạo thành phong trào quần chúng rộng lớn). II. Phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. 1. Phong trào công nhân Việt Nam. Một số phong trào công nhân tiêu biểu: Năm 1920, công nhân Sài Gòn – Chợ Lớn đã thành lập Công hội do Tôn Đức Thắng đứng đầu. Năm 1922, công nhân và 4 viên chức các cơ sở công thương của tư nhân ở Bắc Kì đòi tư bản người Pháp phải cho họ nghỉ ngày chủ nhật có trả lương. Cùng năm đó còn có cuộc bãi công của công nhân các nhà máy dệt, rượu, xay xát gạo ở Nam Định, Hà Nội, Hải Dương. Đặc biệt, tháng 8 năm 1925 đã nổ ra cuộc bãi công của công nhân xưởng Ba Son, đánh dấu bước tiến mới của phong trào công nhân Việt Nam từ tự phát sang tự giác. Ưu điểm: Công nhân là giai cấp tiên tiến nhất trong sức sản xuất, đại diện cho phương thức sản xuất mới, gánh trách nhiệm đánh đổ chủ nghĩa tư bản và đế quốc để xây dựng một xã hội mới. Đồng thời, đó là giai cấp có tinh thần cách mạng kiên quyết, triệt để nhất, có tổ chức, kỷ luật cao, nhạy bén với cái mới, có hệ tư tưởng Mác – Lênin làm nền tảng. Hạn chế: Giai cấp công nhân Việt Nam mới hình thành, còn mỏng về số lượng, phong trào còn non yếu, chưa có nhiều kinh nghiệm hoạt động cách mạng. 2. Phong trào yêu nước Việt Nam. Một số phong trào yêu nước tiêu biểu (cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX): Từ khi Pháp xâm lược đến những nǎm hai mươi của thế kỷ XX đã có hơn 300 cuộc đấu tranh chống xâm lược, nhưng cuối cùng đều thất bại. Đó là phong trào Cần Vương do Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi đề xướng, khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám... Khi các phong trào trên chấm dứt thì cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước ở nước ta bộc lộ sâu sắc. Hội Duy Tân do Phan Châu Trinh sáng lập có mục đích cổ động phong trào, tổ chức lực lượng chống Pháp theo tôn chỉ "mở mang dân trí, chấn hưng dân khí, vun trồng nhân tài". Phong trào Đông Du của Phan Bội Châu có mục đích kêu gọi thanh niên Việt Nam sang Nhật Bản học tập, chuẩn bị lực lượng chờ thời cơ cho việc giành lại độc lập cho nước nhà. Số khác như Lương Vǎn Can, Nguyễn Quyền mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội nhằm cổ động tinh thần yêu nước, bài xích chính sách cai trị của Pháp, khuyến khích cải cách... Tuy nhiên, tất cả đều không có đường lối cứu nước đúng đắn và thống nhất. Ưu điểm: Ở Việt Nam thời bấy giờ, phong trào yêu nước rộng lớn đã và đang lôi cuốn được mọi tầng lớp nhân dân, mà chủ yếu là giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức tham gia vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, phong kiến. 5 Hạn chế: Các phong trào yêu nước đều không có một đường lối cứu nước đúng đắn, thống nhất và tập trung, thiếu một tổ chức cách mạng có khả nǎng dẫn dắt dân tộc đến thắng lợi, hệ tư tưởng lạc hậu. Nếu như phong trào của nông dân còn mang nhiều tính cải lương thì phong trào của tầng lớp trí thức phần nhiều lại dễ thỏa hiệp khi Pháp nhượng cho họ một số lợi ích về kinh tế. 3. Sự kết hợp phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam.  Phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam tất yếu phải kết hợp với nhau. Sự liên kết giữa phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam là vô cùng quan trọng. Bởi nếu phong trào công nhân không gắn bó chặt chẽ với phong trào yêu nước, không trở thành nòng cốt của phong trào yêu nước, thì cách mạng sẽ không đủ lực lượng để mở rộng được cuộc đấu tranh và đưa nó đến thắng lợi. Nếu phong trào yêu nước không được dẫn dắt bởi giai cấp công nhân – giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất – với đội tiên phong là Đảng Cộng sản thì cuộc đấu tranh của nó cũng không đi đến thắng lợi. Thành công của Hồ Chí Minh ở chỗ đã kết hợp nhuần nhuyễn những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng đảng kiểu mới với việc phân tích sâu sắc tình hình thực tế của cách mạng Việt Nam để hoàn thiện lý luận về xây dựng Đảng của mình. Nói tóm lại, sự kết hợp giữa phong trào công nhân và phong trào yêu nước là điều tất yếu. Những điểm mạnh của phong trào công nhân kết hợp với điểm mạnh của phong trào yêu nước sẽ tạo nên một sức mạnh to lớn cả về lực lượng và về ý thức hệ, dẫn dắt cuộc đấu tranh của dân tộc đi đến thắng lợi. Việc gắn phong trào công nhân với phong trào yêu nước, giai cấp với dân tộc của Hồ Chí Minh đã có lúc bị đánh giá là nặng về dân tộc, nhẹ về giai cấp. Song, thực tế phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới đã chứng minh quan điểm về việc gắn chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, giai cấp với dân tộc là hoàn toàn đúng đắn. Sự gắn bó ấy không chỉ đúng với cách mạng Việt Nam, với cách mạng của các nước thuộc địa mà còn đúng 6 với tất cả những nước đang đi vào con đường xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.  Phong trào yêu nước Việt Nam là một trong những yếu tố dẫn đến việc hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam vì: Thứ nhất, trong lịch sử Việt Nam, phong trào yêu nước có vai trò quan trọng, là nguyên nhân hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Thứ hai, cả hai phong trào này cùng có chung một mục đích. Xã hội Việt Nam lúc bấy giờ tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản, trong đó mâu thuẫn căn bản nhất là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp và tay sai. Do đó, cả hai phong trào đều có mục tiêu chung là giải phóng dân tộc, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập. Khác với những người cộng sản Phương Tây, Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp. Thứ ba, lực lượng của phong trào yêu nước là giai cấp nông dân (giai cấp chiếm hơn 90% dân số lúc bấy giờ), còn lực lượng của phong trào công nhân là giai cấp công nhân (giai cấp đại diện cho nền sản xuất tiên tiến). Mà công nhân Việt Nam lại ra đời chủ yếu từ giai cấp nông dân. Ở Việt Nam không tồn tại giai cấp công nhân nhiều đời và công nhân quý tộc. Công nhân là bạn đồng minh tự nhiên của nông dân. Hai giai cấp này hợp thành đội quân chủ lực của cách mạng. Thứ tư, lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam là những người trí thức. Họ là những người nhạy cảm, chủ động và có cơ hội đón những “luồng gió mới” của tất cả các trào lưu tư tưởng mới trên thế giới vào Việt Nam. Tuy số lượng ít ỏi nhưng họ là những con người đã được tiếp thu với nhiều nền văn hóa tiên tiến, do đó sẽ là những người châm ngòi cho các cuộc đấu tranh cách mạng. III. Hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh chuẩn bị điều kiện cần thiết tiến tới thành lập Đảng. 1. Những hoạt động thực tiễn của Nguyễn Ái Quốc 1911 – 1930. Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đã liên kết với những người Việt Nam yêu nước ở Pháp và ngày càng mở rộng sự liên kết ấy trong “Hội những người Việt Nam yêu nước”. Bản yêu sách 8 điểm của nhân dân An Nam được kí tên Nguyễn Ái Quốc, gửi 7 Hội nghị hòa bình Vécxai mới chỉ là một sự thăm dò để chuẩn bị cho một thời kỳ đấu tranh mới. Cũng trong năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Năm 1920, sau khi đọc bản sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục đi sâu nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lênin, chế độ Xô-viết mới ra đời và tích cực tham gia nhiều hoạt động của Quốc tế Cộng sản. Cuối tháng 12 – 1920, Người đã tán thành Quốc tế III và là người dân thuộc địa duy nhất tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Hội liên hiệp thuộc địa thành lập năm 1921 và Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông thành lập năm 1925 là những tổ chức quốc tế đầu tiên của phong trào giải phóng dân tộc, mà Người vừa là người khởi xướng, vừa là người tổ chức, lãnh đạo với vai trò chủ yếu nhất. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên – tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cho việc chuẩn bị về cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức để tiến tới thành lập Đảng sau này. Thông qua Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, có Cộng sản Đoàn làm nòng cốt, Nguyễn Ái Quốc đã thực hiện đào tạo, bồi dưỡng lớp cán bộ đầu tiên theo chủ nghĩa Mác – Lênin và đường lối cách mạng mới bằng cách mở các lớp huấn luyện tại Quảng Châu từ năm 1925 đến 1927. Sau các khóa học phần lớn họ trở về nước để truyền bá lý luận giải phóng dân tộc và tổ chức nhân dân, một số ít được chọn vào trường Quân sự Hoàng Phố và trường Đại học Phương Đông học tập để sau đó trở về Việt Nam hoạt động trong phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân khác, làm cho phong trào chuyển dần từ tự phát sang tự giác. Đây chính là sự gặp gỡ tất yếu của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam với tư tưởng cách mạng tiên tiến nhất của thời đại. Sự xuất hiện ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam giữa 1929 - đầu 1930 (Đông Dương Cộng sản đảng ở Bắc Kỳ tháng 6 – 1929, An Nam Cộng sản Đảng ở Nam kỳ tháng 8 – 1929, Đông Dương Cộng sản liên đoàn ở Trung kỳ tháng 9 – 1929) là sản phẩm tất yếu của phong trào công nhân và phong trào yêu nước dâng cao, là sản phẩm tất yếu của sự chuyển biến về ý thức hệ. Những người cách mạng Việt Nam 8 trong nước đã nhận thấy hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên không còn đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới, cần phải có Đảng Cộng sản thay thế. Nhưng trong một nước không thể tồn tại đồng thời ba tổ chức cộng sản có cùng mục tiêu, lý tưởng. Trước tình hình đó, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập đại biểu và chủ trì Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3-2-1930. Việc hợp nhất đó đã đáp ứng đòi hỏi bức thiết của thực tiễn cách mạng Việt Nam. 2. Nhận xét, đánh giá. Tóm lại, sự sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ở chỗ dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng Đảng để nghiên cứu tình hình thực tế ở Việt Nam, từ đó có sự khái quát về tư tưởng và lý luận. Người đã từng bước tổ chức hoạt động thực tiễn để kiểm nghiệm tính đúng đắn của những tư tưởng, lý luận đã tổng kết, khái quát được của mình. C - KẾT LUẬN. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước cũng như những hoạt động thực tiễn chuẩn bị những điều kiện cần thiết về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức của Hồ Chí Minh. Người đã dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng đảng để nghiên cứu tình hình thực tế ở Việt Nam, từ đó có sự khái quát về tư tưởng và lý luận. Đây chính là sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam. Những tư tưởng, lý luận của Người đã được kiểm nghiệm thông qua những hoạt động thực tiễn và đã cho thấy tính đúng đắn của nó. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. TS. Nguyễn Mạnh Tường, Tư tưởng Hồ Chí Minh – một số nhận thức cơ bản, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009. 9 2. Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia cán bộ môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. 3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. 4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009. 5. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sách giáo khoa Lịch sử lớp 12 – Nâng cao, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2008. 6. Gs Trương Hữu Quỳnh, Đại cương lịch sử Việt Nam toàn tập, Nxb. Giáo dục, 2006. 7. Đức Vượng, Quá trình hình thành tư tưởng yêu nước của Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1993. 8. Các trang web: - Bách khoa toàn thư mở: - Tạp chí Xây dựng Đảng: http://vi.wikipedia.org http://www.xaydungdang.org.vn - Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam: 10 http://www.cpv.org.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan