Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực trạng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên một số khoa tại trường đại ...

Tài liệu Thực trạng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên một số khoa tại trường đại học sư phạm tp. hcm báo cáo tổng kết đề tài khoa học và công nghệ cấp trường

.PDF
107
20
88

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP TRƯỜNG THỰC TRẠNG RÈN LUYỆN NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM CHO SINH VIÊN MỘT SỐ KHOA TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM MÃ SỐ: CS. 2015.19.50 Cơ quan chủ trì: KHOA TÂM LÝ HỌC Chủ nhiệm đề tài: TS. NGUYỄN THỊ TỨ Thành phố Hồ Chí Minh – tháng 11, năm 2016 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP TRƯỜNG THỰC TRẠNG RÈN LUYỆN NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM CHO SINH VIÊN MỘT SỐ KHOA TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM MÃ SỐ: CS. 2015.19.50 Cơ quan chủ trì: KHOA TÂM LÝ HỌC Chủ nhiệm đề tài: TS. NGUYỄN THỊ TỨ Nhóm nghiên cứu: ThS. Mai Mỹ Hạnh ThS. Nguyễn Thị Diễm My ThS. Trần Chí Vĩnh Long ThS. Đặng Hoàng An PGS.TS. Huỳnh Văn Sơn Thành phố Hồ Chí Minh – tháng 11, năm 2016 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tay nghề là một trong những yếu tố làm tăng hiệu quả hoạt động trong một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định. Vấn đề này càng trở nên quan trọng đối với lĩnh vực đào tạo giáo viên ở trường sư phạm. Trong quá trình đào tạo, sinh viên không những được trang bị kiến thức lý luận về khoa học giáo dục nói chung và khoa học chuyên ngành nói riêng; đồng thời còn được thực hành rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ sư phạm. Chất lượng của quá trình đào tạo phụ thuộc không nhỏ vào kết quả của việc thực hành rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên trong thời gian học tập... “Học chữ - Học làm thầy – Học làm người” là ba nhiệm vụ cốt lõi của SV trong trường sư phạm. Sự kết hợp nhuần nhuyễn, đan xen giữa các nhiệm vụ đó sẽ giúp SV có được sự phát triển toàn diện trong quá trình phấn đấu trở thành người GV. Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm là một bộ phận nòng cốt trong quá trình rèn luyện tay nghề cho SV, mang tính chất thường xuyên, liên tục ở mọi lúc mọi nơi. Hơn nữa, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI với nội dung đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế xác định rõ: “Đổi mới mạnh mẽ mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của nhà giáo theo yêu cầu nâng cao chất lượng, trách nhiệm, đạo đức và năng lực nghề nghiệp”. Vai trò của đội ngũ giáo viên ngày càng trở nên quan trọng trong việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục. Điều này đặt ra một yêu cầu về đào tạo hết sức nghiêm túc đối với các trường Sư phạm trong việc đào tạo ra nhưng giáo viên vững chuyên môn, chắc nghiệp vụ để đáp ứng được nhu cầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục Việt Nam. Vấn đề rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên thu hút đông đảo sự quan tâm của đông đảo các nhà khoa học, các nhà quản lý giáo dục và đào tạo, cũng như chính bản thân sinh viên Sư phạm. Cũng có một số công trình nghiên cứu có liên quan về vấn đề này, tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu về rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên tại trường Đại học Sư phạm TPHCM. 1 Xuất phát điểm từ yêu cầu thực tiễn và lý luận nêu trên, đề tài “Thực trạng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên một số khoa tại trường Đại học Sư phạm TP.HCM” được xác lập. 2. Mục đích nghiên cứu Xác định thực trạng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên một số khoa tại trường Đại học Sư phạm TP.HCM. Trên cơ sở đó, đề xuất các biện pháp tăng cường hiệu quả rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên. 3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Thực trạng RLNVSP cho sinh viên. 3.2. Khách thể nghiên cứu Sinh viên ở một số khoa tại trường Đại học Sư phạm TP. HCM. 4. Giả thuyết nghiên cứu Việc RLNVSP cho SV ở một số khoa tại trường Đại học Sư phạm TP. HCM được thực hiện khá tốt, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số hạn chế về nội dung và hình thức tổ chức thực hiện Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc RLNVSP của sinh viên bao gồm các yếu tố chủ quan như tự ý thức, năng lực, trình độ… của sinh viên và các yếu tố khách quan như phẩm chất năng lực giảng viên, nội dung chương trình đào tạo, cơ sở vật chất, hình thức kiểm tra – đánh giá… 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Hệ thống hóa các vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài: NVSP, rèn luyện NVSP, nội dung RLNVSP, cách thức RLNVSP cho SV… 5.2. Tìm hiểu thực trạng RLNVSP cho SV ở một số khoa tại trường Đại học Sư phạm TP. HCM. 5.3. Đề xuất và khảo sát tính cần thiết, tính khả thi của một số biện pháp nhằm tăng cường hiệu quả RLNVSP cho SV ở một số khoa tại trường Đại học Sư phạm TP. HCM. 6. Giới hạn nghiên cứu 6.1. Giới hạn về nội dung 2 - Chỉ nghiên cứu thực trạng RLNVSP cho sinh viên ở các chỉ báo: nội dung, cách thức, các lực lượng giáo dục tham gia RLNVSP cho SV, hiệu quả RLNVSP dưới góc độ đánh giá của SV. - Khi đề xuất các biện pháp tăng cường hiệu quả RLNVSP cho SV, chỉ khảo sát tính quan trọng, cần thiết và khả thi dưới góc độ đánh giá của SV mà không tiến hành thực nghiệm. 6.2. Giới hạn về khách thể khảo sát - Nghiên cứu chỉ tiến hành trên sinh viên năm 2, năm 3 và năm 4 ở một số khoa tại trường Đại học Sư phạm TP. HCM: + Khoa Giáo dục Tiểu học + Khoa Toán + Khoa Vật lý + Khoa Ngữ Văn + Khoa Lịch sử 7. Hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu 7.1. Hướng tiếp cận Đề tài nghiên cứu được tiếp cận theo 2 quan điểm chính sau: 7.1.1. Quan điểm hệ thống cấu trúc Vận dụng quan điểm hệ thống cấu trúc để xây dựng cơ sở lý luận như kỹ năng, kỹ năng nghiệp vụ sư phạm, công tác rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ sư phạm... Nghiên cứu đề tài (xây dựng bảng hỏi, bình luận thực trạng) được tiến hành trên cấu trúc đã được xác lập. 7.1.2. Quan điểm thực tiễn Rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ sư phạm đang là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các trường sư phạm. Việc nghiên cứu chuyên sâu về các vấn đề này ở trường Đại học Sư phạm TP.HCM - trong sư phạm trọng điểm phía nam hầu như chưa có. Vì vậy, việc khảo sát rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ sư phạm ở trường Đại học sư phạm TP.HCM là đáp ứng với yêu cầu của thực tiễn, để từ kết quả nghiên cứu cung cấp cho các nhà giáo dục... các nhà quản lý cách nhìn nhận bao quát nhất góp phần định hướng cho các giải pháp nhằm nâng cao việc rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ sư 3 phạm cho sinh viên trường Đại học sư phạm TP.HCM nói riêng và các trường sư phạm khác nói chung. 7.2. Phương pháp nghiên cứu Để tiến hành nghiên cứu đề tài này, nghiên cứu sử dụng phối hợp các phương pháp sau: 7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận 7.2.1.1. Mục đích Khái quát hóa, hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản, trên cơ sở đó xây dựng các bản anket. 7.2.1.2. Yêu cầu Đọc các tài liệu, tham khảo một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, tìm ra những cơ sở nghiên cứu. 7.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn 7.2.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi a. Mục đích Đây là phương pháp nghiên cứu chính của đề tài. Chúng tôi xây dựng ba bảng hỏi dành cho cán bộ quản lý, giảng viên và sinh viên b. Yêu cầu Dựa trên cơ sở lý luận của đề tài và phương pháp luận để xây dựng bảng hỏi phù hợp với mục đích. Bảng hỏi được thử nghiệm trước khi điều tra chính thức trên khách thể. 7.2.2.2. Phương pháp phỏng vấn a. Mục đích Tiến hành phỏng vấn đối với cán bộ quản lý, giảng viên và sinh viên để làm rõ hơn kết quả nghiên cứu b. Yêu cầu Sau khi thu số liệu và xử lý thống kê toán học, người nghiên cứu tiến hành phỏng vấn 10 cán bộ quản lý, 10 giáo viên dựa theo bảng phỏng vấn đã soạn sẵn. Phỏng vấn được thu âm, ghi nhận bằng hình ảnh và có chữ ký xác nhận của khách thể. 7.2.3. Phương pháp thống kê toán học 7.2.3.1. Mục đích 4 Sử dụng phương pháp thống kê toán học nhằm làm rõ hơn các giả thuyết nghiên cứu. 7.2.3.2. Yêu cầu Sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 20.0 để xử lý thống kê như: tính tần số, tỷ lệ phần trăm, trị số trung bình, độ lệch chuẩn, kiểm nghiệm T - Test, kiểm nghiệm Chi - quare, kiểm nghiệm ANOVA làm cơ sở để bình luận số liệu thu được. 5 CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RÈN LUYỆN NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM 1.1. Lịch sử nghiên cứu về RLNVSP cho sinh viên 1.1.1. Những nghiên cứu về RLNVSP cho sinh viên ở nước ngoài Kĩ năng dạy học, kĩ năng giáo dục là những nhóm kĩ năng sư phạm cần thiết và điển hình đối với hoạt động nghề nghiệp của người thầy giáo. Rèn luyện các kĩ năng dạy học là hoạt động đã được nghiên cứu rất lâu trên thế giới với nhiều công trình của các tác giả như: - Năm 1961, N.V. Cu-dơ-min-na trong công trình nghiên cứu “Hình thành các năng lực sư phạm” đã xác định năng lực sư phạm cần có của người giáo viên, mối quan hệ giữa năng lực chuyên môn và năng lực nghiệp vụ, giữa năng khiếu sư phạm và việc bồi dưỡng năng khiếu sư phạm thành năng lực sư phạm [12]. - Đầu những năm 60, vấn đề rèn luyện nghiệp vụ sư phạm mới trở thành hệ thống lí luận với công trình nghiên cứu của O.A. Ap-đu-li-na “Bàn về kĩ năng sư phạm”. Trong công trình này tác giả nêu rõ từng loại kĩ năng sư phạm của người giáo viên và phân tích tỉ mỉ những kĩ năng chung và kĩ năng chuyên biệt trong hoạt động giảng dạy và giáo dục [3]. - Năm 1969, Ph.N. Gô-nô-bô-lin “Những phẩm chất tâm lí của người giáo viên”, đã nêu lên những năng lực sư phạm mà sinh viên cần rèn luyện và phát triển, cách rèn luyện chúng như thế nào để trở thành một người giáo viên trong quá trình thực tập sư phạm [15]. Vào những năm 70, cùng với việc thành lập “phòng nghiên cứu đào tạo giáo viên ở trường sư phạm” (Liên Xô), nhiều công trình nghiên cứu về tổ chức lao động khoa học và tối ưu hóa quá trình dạy học đã được tiến hành. Đó là các công trình nghiên cứu của M.Ia. Cô-va-li-ôp, Iu.K. Babanxki, N.I. Bôn-đư-rep… - Đặc biệt công trình nghiên cứu của X.I. Ki-xê-gôp: “Hình thành các kĩ năng, kĩ xảo sư phạm trong điều kiện giáo dục đại học” [41], trong đó đã nêu ra hơn 100 kĩ năng nghiệp vụ sư phạm, trong đó tập trung vào 50 kĩ năng cần thiết nhất, được phân chia luyện tập theo từng thời kì thực hành, thực tập sư phạm cụ thể. Công trình này đồng thời nghiên cứu sự hình thành kĩ năng sư phạm của sinh viên dưới góc độ là một quá trình có tổ chức trong nhà trường sư phạm và chia quá trình này thành năm giai 6 đoạn. Việc phân chia quá trình hình thành kĩ năng thành năm giai đoạn chỉ có tính chất định hướng, sự hình thành một kĩ năng cụ thể có thể không nhất thiết phải trải qua tất cả các giai đoạn trên. - Công trình nghiên cứu của O.A. Ap-đu-lin-na “Nội dung và cấu trúc thực hành sư phạm ở các trường đại học sư phạm trong giai đoạn hiện nay” [4]. - Ở các nước như Canada, Australia, Hoa Kỳ…, người ta dựa trên cơ sở các thành tựu của tâm lí học hành vi và tâm lí học chức năng để tổ chức rèn luyện các kĩ năng thực hành giảng dạy cho sinh viên. Những luận điểm của J. Watson 1926, A. Pojoux 1926, F. Skinner 1963…, những công trình: The process of learning của J.B. Bigs và R. Tellfer 1987 [49], Beginning teaching của K. Barry và L. King 1993 [50] đang được sử dụng và đưa vào giáo trình thực hành lý luận dạy học trong đào tạo giáo viên ở Australia và một số nước khác. Vai trò và nhiệm vụ hình thành kĩ năng sư phạm cũng đã được xác đinh ở “Hội thảo về cách tân việc đào tạo bồi dưỡng giáo viên của các nước châu Á và Thái Bình Dương” do APEID thuộc UNESCO tổ chức tại Seoul, Hàn Quốc. Các báo cáo của hội thảo đã xác định tầm quan trọng của việc hình thành tri thức và hình thành các kĩ năng sư phạm cho sinh viên trong quá trình đào tạo. Các nhà khoa học khẳng định: Tri thức nghề nghiệp là sơ sở của nghệ thuật sư phạm nhưng chỉ thể hiện trong hệ thống các kĩ năng sư phạm. Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đây của các tác giả nước ngoài đều đã đề cập tới việc cần thiết phải nâng cao hơn nữa công tác rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên ở các trường sư phạm để nhằm trang bị cho người học các kỹ năng sư phạm cần thiết - một nội dung bắt buộc trong chương trình đào tạo ở các trường sư phạm. Tuy vậy, quy trình rèn luyện một cách hệ thống và chi tiết vẫn chưa được đề cập nhiều cho thấy vấn đề này vẫn là một thách thức trong quá trình đào tạo và nghiên cứu quá trình đào tạo giáo viên. 1.1.2. Những nghiên cứu về RLNVSP cho sinh viên ở trong nước Trong thời gian những năm 70 trở về trước, ở Việt Nam chưa có những nghiên cứu cơ bản chuyên biệt về rèn nghề giáo viên. Tay nghề sư phạm của người giáo viên chỉ được đề cập đến trong các giáo trình tâm lí học, giáo dục học viết dựa trên các giáo trình của Liên Xô là chủ yếu. 7 Đến năm 1979, trước những yêu cầu đổi mới việc đào tạo giáo viên, vấn đề mới được giới nghiên cứu quan tâm mà mở đầu là đề cương nghiên cứu: “Cải cách công tác giáo dục nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội” Về vấn đề thực hành nghề, năm 1982, cục Đào tạo - bồi dưỡng giáo viên của Bộ Giáo dục đã ban hành tài liệu: “Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên cho sinh viên các trường sư phạm”. Đây là tài liệu có tính chất chỉ đạo cho hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, nhằm đưa hoạt động này trở thành một thành tố quan trọng của nội dung và chương trình đào tạo của các trường sư phạm [9]. Năm 1987 có công trình nghiên cứu “Vấn đề rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên cho sinh viên” của Nguyễn Quang Uẩn. Trong công trình này, tác giả đã vạch ra đường hướng lý thuyết về góc độ rèn nghiệp vụ sư phạm thường xuyên cho sinh viên. Có thể kể đến bài viết “Kế hoạch rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên” của Đặng Vũ Hoạt cũng là một đóng góp đáng kể cho hướng nghiên cứu. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã xây dựng nội dung kế hoạch cụ thể theo trình tự các bước hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên sư phạm, chỉ ra yêu cầu cần thiết phải tổ chức tốt hoạt động này bởi nó góp phần quan trọng vào việc hình thành các kỹ năng sư phạm cho người giáo viên [42]. Từ những năm 90, vấn đề rèn luyện, hình thành kĩ năng sư phạm cho sinh viên qua quá trình thực hành nghề mới được nhiều tác giả chú ý nghiên cứu và thể hiện chính thức trong các văn bản có tính pháp quy về đào tạo sinh viên sư phạm. Những nghiên cứu đáng chú ý là: - Năm 1993, tác giả Nguyễn Như An đã bảo vệ luận án tiến sĩ: “Hệ thống kĩ năng giảng dạy trên lớp về môn giáo dục học và quy trình rèn luyện các kĩ năng đó cho sinh viên khoa Tâm lí - giáo dục hoc” [1]. Luận án đã tiếp cận vấn đề một cách hệ thống về lí luận cơ bản và đã xây dựng một quy trình rèn luyện kĩ năng giảng dạy cho sinh viên khoa Tâm lí - giáo dục học. - Năm 1995, tác giả Nguyễn Hữu Dũng có đề tài: “Hình thành kĩ năng sư phạm cho giáo sinh sư phạm”. Đây là một công trình khoa học có giá trị chuyên về vấn đề này, tác giả đã chỉ ra được một số cơ sở lí luận khoa học về kĩ năng sư phạm và vai trò của việc hình thành nó trong quá trình đào tạo sinh viên sư phạm nói chung [13]. Năm 1996, tác giả đã chủ trì đề tài cấp bộ: “Định hướng đổi mới phương pháp đào tạo giáo 8 viên”. Trong đó đã đề cập và giải quyết tiếp một số vấn đề lí luận về hệ thống kĩ năng cần có của người giáo viên trong điều kiện mới và vấn đề đổi mới quá trình đào tạo giáo viên để kịp thời đáp ứng nhu cầu của giáo dục nước nhà trong thời kì mới của sự phát triển kinh tế - xã hội [14]. - Năm 1996, Trần Tuấn Năm đã bảo vệ luận án tiến sĩ với đề tài: “Xây dựng quy trình tập luyện các kĩ năng giảng dạy cơ bản trong các hình thức thực hành, thực tập sư phạm” [29]. Trong đó, qua quá trình nghiên cứu thực trạng, tác giả đã chỉ ra những điều được và chưa được của hoạt động thực hành nghề ở các trường sư phạm và đưa ra một quy trình luyện tập các kĩ năng dạy học cơ bản qua hoạt động thực hành nghề trong quá trình đào tạo. - Để giúp các trường sư phạm, các thầy cô giáo hướng dẫn và sinh viên thuận lợi trong việc tổ chức và thực hiện hoạt động thực hành nghề, năm 1997, Nguyễn Đình Chỉnh đã xuất bản tài liệu: “Thực tập sư phạm”. Trong tài liệu, bên cạnh các văn bản pháp quy, tác giả đã đề cập đến một số vấn đề lí luận liên quan và có những hướng dẫn khá chi tiết về một số nội dung làm việc của sinh viên trong quá trình hoạt động thực hành [10]. - Năm 2004, Phan Thanh Long đã bảo vệ luận án tiến sĩ về “Các biện pháp rèn luyện kĩ năng dạy học cho sinh viên Cao đẳng sư phạm”. Tác giả đã trình bày một cách tương đối hệ thống các vấn đề lí luận liên quan, thực trạng việc rèn luyện kĩ năng dạy học ở các trường sư phạm, đề xuất, thử nghiệm một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng của việc hình thành kĩ năng nghề cho sinh viên [26]. Năm 2005, bài báo “Sự thích ứng với hoạt động rèn luyện nghiệp vụ của sinh viên Đại học Sư phạm” của tác giả Nguyễn Xuân Thức được đăng trên Tạp chí Tâm lý học số 8 (77), 8 - 2005. Bài viết phân tích thực trạng thích ứng với hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm của sinh viên xét trên 10 nội dung: Soạn giảng tập, viết và trình bày bảng, xử lý tình huống sư phạm, giao tiếp sư phạm, kể chuyện, đọc thơ, chế tạo và sử dụng đồ dùng dạy học, kiến - thực tập sư phạm, tổ chức các buổi tọa đàm, câu lạc bộ, diễn đạt vấn đề bằng ngôn ngữ nói. Kết quả nghiên cứu của tác giả cho thấy, nhìn chung sinh viên sư phạm đã thích ứng được với hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm ở mức độ trung bình đến khá. Không có hình thức rèn luyện nào không thích ứng 9 được và không có hình thức nào thích ứng được ở mức độ cao nhất. Mức độ thích ứng với 10 hình thức hoạt động nghiệp vụ sư phạm là không đồng đều nhau [37]. - Năm 2007, tác giả Phan Quốc Lâm chủ nhiệm đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ trọng điểm cấp bộ về: “Xây dựng nội dung quy trình hình thành kĩ năng sư phạm theo chuẩn nghề nghiệp cho sinh viên ngành giáo dục tiểu học qua hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên”. Trong đó nhóm nghiên cứu đã xác định những nội dung cơ bản, tối thiểu, cần thiết và khả thi về những kĩ năng sư phạm tiểu học cần hình thành cho sinh viên qua hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên. Từ đó thiết kết một quy trình chi tiết các hoạt động RLNVSPTX cho sinh viên ngành Giáo dục tiểu học và một quy trình hướng dẫn sinh viên thực hiện hoạt động RLNVSPTX cho cán bộ giảng dạy và giáo viên phổ thông [24]. Tác giả Nguyễn Thị Huệ có bài báo “Một số biện pháp đẩy nhanh tốc độ thích ứng với các hoạt động rèn luyện nghiệp vụ cho sinh viên các trường Sư phạm Kỹ thuật” trên Tạp chí Tâm lý học, số 3 (108), 3-2008. Bài viết phân tích các biện pháp tác động nâng cao mức độ thích ứng cho sinh viên như sau: Nâng cao nhận thức về hoạt động RLNVSP cho sinh viên; Kích thích động cơ tích cực tâm gia RLNVSP cho sinh viên; nâng cao dần mức độ thích ứng của sinh viên trong quá trình tập luyện; Tổ chức các hội thi NVSP cho sinh viên từ cấp lớp, cấp khoa đến cấp trường [18, tr. 54-58]. Hội thảo “Nâng cao chất lượng nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên các trường đại học sư phạm”, diễn ra cuối tháng 01/2010 tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Đây là một hội thảo có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá, nhìn nhận lại công tác quản lý tổ chức hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên các trường sư phạm hiện nay. Tại hội thảo, các chuyên gia đều thừa nhận “... Việc đào tạo nghiệp vụ đang là điểm yếu của các trường sư phạm hiện nay”. Tác giả Nguyễn Thu Tuấn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội cho rằng: Bản thân không ít sinh viên cũng quan niệm cứ học giỏi là có thể dạy tốt, không cần nghiệp vụ sư phạm. Kết quả các đợt thực tập cho thấy, phần lớn sinh viên lúng túng trong xử lý các tình huống sư phạm, có khi phạm sai lầm cả về kiến thức cơ bản, dù họ đã được đào tạo kỹ, có hệ thống về lý luận dạy học và kiến thức khoa học cơ bản. Điều đó chứng tỏ việc sinh viên vận dụng kiến thức đã học vào thực hành còn hạn chế. “Việc đổi mới cách dạy, cách học trong các trường chính là cái gốc, căn cốt của vấn đề” Còn tác giả Trương Thị Bích khẳng định, đồng thời phân 10 biệt rõ: các hoạt động rèn luyện ở trường sư phạm được tổ chức tuy có quy mô hoành tráng nhưng lại dưới hình thức cuộc thi nên chỉ dồn vào một số sinh viên có năng lực riêng như hát, múa, đọc thơ, đọc diễn cảm... chứ không đạt được kết quả tích cực trên diện rộng. Hơn nữa, các hoạt động này được tổ chức chưa thật bài bản, không nằm trong khung quy định chương trình chuẩn cho đào tạo nghiệp vụ sư phạm [23]. Đặc biệt, những năm gần đây nhiều công trình khoa học về hoạt động RLNVSPTX được thực hiện đóng góp nhiều về mặt lý luận và thực tiễn: Trước hết phải kể đến công trình cấp Bộ “Nâng cao hiệu quả rèn luyện tay nghề cho sinh viên sư phạm trong trường đại học đa ngành và theo giai đoạn” do tác giả Nguyễn Gia Hách thực hiện năm 1994. Kết quả nghiên cứu của công trình bước đầu xây dựng được chương trình lý thuyết và thực hành sư phạm phù hợp với quy trình đào tạo mới hai giai đoạn; xây dựng nội dung thực hành nghề tại trường đại học, nội dung thực tập sư phạm tập trung trên cơ sở đổi mới và kế thừa những kinh nghiệm trước đây, hai nội dung này đã được thực nghiệm và đạt được những kết quả; bước đầu xây dựng được một số quy trình công nghệ thực hành nghề cũng như đề xuất được những điều kiện cần thiết cho thực hành nghề [16]. Tác giả Đoàn Trọng Thiều đã nghiệm thu đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Xây dựng mô hình đào tạo nghiệp vụ sư phạm tại trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh” năm 2009. Nhóm nghiên cứu đã chỉ ra mô hình đào tạo nghiệp vụ sư phạm hiện hành tại trường ĐH Sư phạm TP. HCM bên cạnh những thành tựu đã đạt được cần có sự hoàn chỉnh trong mục tiêu và nội dung chương trình đào tạo; một cơ chế tổ chức điều hành hợp lý; sự đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị, tài chính phù hợp; một môi trường sư phạm cần thiết trong mô hình đào tạo nghiệp vụ sư phạm. Dựa trên kết quả nghiên cứu thực trạng đồng thời xuất phát từ những văn bản có tính pháp quy của Nhà nước như Luật Giáo dục (2005), quy chế đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo; kinh nghiệm đào tạo nghiệp vụ sư phạm của một số trường sư phạm trong và ngoài nước,... nhóm tác giả đã đề xuất những yêu cầu của mô hình đào tạo nghiệp vụ sư phạm tại trường Đại học Sư phạm TP. HCM nói riêng và các trường Sư phạm nói chung [35]. Năm 2013, tác giả Hoàng Văn Thái thực hiện Luận văn Thạc sĩ đề tài “Quản lý công tác rèn luyện nghiệp vụ sư phạm trong quá trình đào tạo ở trường Cao đẳng Sư phạm Bắc Ninh”. Đề tài đã tìm hiểu thực trạng quản lý công tác rèn luyện NVSP ở 11 trường Cao đẳng Sư phạm Bắc Ninh, từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý công tác RLNVSP ở trường Cao đẳng Sư phạm Bắc Ninh hiện nay [33]. Đề tài “Xây dựng quy trình rèn luyện NVSP cho sinh viên chuyên ngành Mầm non tại trường Cao đẳng Vĩnh Phúc” do tác giả Hoàng Văn Bình chủ nhiệm được thực hiện năm 2014. Từ kết quả nghiên cứu thực trạng, nhóm tác giả đã đề xuất đã xây dựng và hoàn thiện quy trình rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên chuyên ngành mầm non như sau [8]: Bước 1: Cải tiến, điều chỉnh nội dung chương trình đào tạo giáo viên mầm non hệ cao đẳng trên cơ sở chương trình khung của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Bước 2: Cung cấp cho sinh viên về mục tiêu, nội dung, hình thức học tập giúp sinh viên nhận thức rõ nhiệm vụ học tập và rèn luyện. Bước 3: Tổ chức cho sinh viên quan sát thực tế giáo dục mầm non, phân tích và rút kinh nghiệm sau khi dự giờ. Bước 4: Chuẩn bị thực hiện hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm tại trường sư phạm. Bước 5: Thực hành và đánh giá kết quả rèn luyện nghiệp vụ sư phạm tại trường sư phạm thông qua các môn học chuyên ngành trong chương trình. Bước 6: Thực hành và đánh giá kết quả hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm tại trường mầm non qua thực tập sư phạm cuối khóa. Sáu bước trên có mối quan hệ mật thiết, gắn bó hữu cơ, thúc đẩy, hỗ trợ lẫn nhau, tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh. Cũng trong năm 2014, tác giả Nguyễn Văn Tịnh bảo vệ thành công đề tài “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên cho sinh viên ngành sư phạm ở trường Đại học Hà Tĩnh”. Đề tài đã phân tích thực trạng tổ chức hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên ở trường Đại học Hà Tĩnh, trên cơ sở đó đề xuất bảy giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động RLNVSPTX cho sinh viên các ngành sư phạm ở trường Đại học Hà Tĩnh, bao gồm: Nâng cao nhận thức cho giảng viên, sinh viên, cán bộ quản lý về vai trò của hoạt động RLNVSPTX cho sinh viên trong nhà trường; Xác định mục tiêu RLNVSPTX; Xây dựng nội dung chương trình RLNVSPTX cho sinh viên theo hướng phát triển năng lực; 12 Hoàn thiện quy trình tổ chức RLNVSPTX cho sinh viên; Mở rộng các hình thức tổ chức RLNVSPTX cho sinh viên; Đổi mới cách đánh giá hoạt động RLNVSPTX; Đảm bảo các điều kiện tổ chức hoạt động RLNVSPTX cho sinh viên [32]. Gần đây nhất, tác giả Vũ Vương Trưởng đã thực hiện thành công Luận án Tiến sĩ Tâm lý học đề tài “Hứng thú rèn luyện nghiệp vụ sư phạm của sinh viên cao đẳng sư phạm” vào năm 2016. Kết quả nghiên cứu cho thấy sinh viên hiểu rõ được ý nghĩa của việc rèn luyện NVSP, nhưng về mặt cảm xúc sinh viên chưa có thái độ tích cực với hoạt động rèn luyện NVSP. Các yếu tố được xác định có ảnh hưởng rất mạnh đến hứng thú rèn luyện NVSP của sinh viên gồm: động cơ học tập của sinh viên; tính tích cực, chủ động trong học tập của sinh viên; sở thích, nguyện vọng đối với nghề dạy học và một số yếu tố khách quan là: Điều kiện phục vụ hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm của các trường CĐSP; Phương pháp giảng dạy và hướng dẫn của giảng viên trực tiếp phụ trách nội dung rèn luyện; Môi trường thực hiện các nội dung rèn luyện nghiệp vụ sư phạm tại các trường cao đẳng sư phạm. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy việc trang bị một số kĩ năng mềm là biện pháp có hiệu quả trong việc tổ chức rèn luyện NVSP cho sinh viên CĐSP [40]. Tóm lại, nghiên cứu về công tác quản lý rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên các trường sư phạm đã có nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước, cho thấy đây là một công tác quan trọng góp phần hoàn thành mục tiêu và nhiệm vụ giáo dục đào tạo của các trường sư phạm. Mỗi nghiên cứu đã có những đóng góp đáng kể về lý luận và thực tiễn cho công tác rèn luyện nghiệp vụ ở giáo sinh. Dù rằng, những nghiên cứu này chưa nghiên cứu trực tiếp trên bình diện một số khoa ở trường Đại học Sư phạm TP. HCM nhưng những kinh nghiệm và dữ liệu đã có rất hữu ích và mang giá trị tham khảo đặc biệt. Để hoàn thành đề tài nghiên cứu về rèn luyện nghiệp vụ sư phạm ở Trường Đại học Sư phạm TP.HCM, tác giả có nhiệm vụ kế thừa những công trình nghiên cứu đi trước để làm sâu sắc hơn cơ sở lý luận về công tác quản lý giáo dục, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, phân tích thực trạng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm ở một số khoa thuộc Trường Đại học Sư phạm TP.HCM hiện nay, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả rèn luyện nghiệp vụ sư phạm ở nhà trường này không ngoài mục tiêu đáp ứng yêu cầu của thực tiễn xã hội. 13 1.2. Khái niệm rèn luyện nghiệp vụ sư phạm 1.2.1 Định nghĩa rèn luyện nghiệp vụ sư phạm a. Nghiệp vụ sư phạm Theo định nghĩa của Từ điển tiếng Việt xuất bản năm 1992, “nghiệp vụ” được hiểu là nghề chuyên môn, công việc chuyên môn của một nghề. [6, tr. 20]. Còn theo tác giả Hoàng Phê, “nghiệp vụ” là công việc chuyên môn của một nghề [30]. Nguyễn Như Ý cho rằng “nghiệp vụ: là công việc chuyên môn riêng của từng nghề” [44, tr. 1199]. Khi xem xét khái niệm “nghiệp vụ” tác giả Nguyễn Văn Đạm nhấn mạnh đến mức độ thành thạo trong nghiệp vụ nghề. Theo ông, nói đến nghiệp vụ là nói đến khả năng thành thạo trong công việc của một nghề. Mỗi nghề nghiệp có một công việc chuyên môn riêng. Để có trình độ thành thạo nghề hay tay nghề, mỗi người lao động cần được bồi dưỡng nghiệp vụ [dẫn theo 32]. Tuy cách sử dụng từ ngữ khác nhau, nhưng các tác giả đều thống nhất rằng: nghiệp vụ là công việc chuyên môn của một nghề. Mỗi nghề nghiệp khác nhau sẽ có nghiệp vụ riêng của nghề đó. Chủ thể muốn làm “nghề” thì phải nắm vững “nghiệp vụ” của nghề đó. Theo Đại từ điển Tiếng Việt của Bộ GD - ĐT, Trung tâm Ngôn ngữ và VH Việt Nam do Nguyễn Như Ý chủ biên xuất bản năm 1998 thì “Sư phạm” là khoa học về GD và giảng dạy trong trường học [44]. Còn theo Từ điển GD học của nhà xuất bản Từ điển bách khoa năm 2001 thì “Sư phạm” là khoa học về GD mà đối tượng nghiên cứu là quá trình GD con người, tìm tòi phát hiện những quy luật GD, những con đường có hiệu quả để nâng chất lượng GD, đặc biệt là sự can thiệp về mặt GD của GV trong những tình huống GD thực. Theo định nghĩa của Từ điển tiếng Việt 1992, Sư phạm là khoa học về giảng dạy và giáo dục trong nhà trường. [6, tr. 34]. Trong tiếng Anh, Sư phạm được hiểu là “pedagogy”. “Pedagogy” là một từ có gốc từ tiếng Hy-lạp, với ngữ căn pais, hay paidos, có nghĩa là sự giáo dục một đứa trẻ (ngữ căn này được dùng trong pedagogy, tức là khoa sư phạm, và pediatrics, tức là ngành nhi khoa). Chuyển sang Việt ngữ, “pedagogy” được hiểu là “sư phạm”, là một ngành học nhằm đào tạo thầy cô giáo về cách dạy học cho trẻ em (ngành học này có các cấp như trường cao đẳng sự phạm và đại học sư phạm) từ mẫu giáo cho tới trung 14 học. Hiểu theo nghĩa rộng, sư phạm là một khoa học về giảng dạy. Ngoài “pedagogy”, một số từ ngữ đồng nghĩa như: instruction, schooling, teaching, training, tuition, tutelage, tutoring [46]. Từ khái niệm về “nghiệp vụ” và “sư phạm” có thể hiểu nghiệp vụ sư phạm là công việc chuyên môn của nghề dạy học. Trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo, “NVSP là khoa học về công việc chuyên môn của nghề dạy học.” [22] Dự án Việt - Bỉ “Hỗ trợ học từ xa” đã xác định NVSP của người GV hay nói hẹp hơn là những kỹ năng sư phạm cơ bản của người GV bao gồm 4 kỹ năng cơ bản: Phân tích chương trình; Soạn bài môn dạy (Thiết kế bài giảng); Thiết kế bài tập; Đánh giá kết quả học tập môn dạy. Với quan điểm này, NVSP cơ bản của GV được đề cập là những kỹ năng chủ yếu của hoạt động giảng dạy. Tuy nhiên, nghiệp vụ của một người thầy ở trường phổ thông không chỉ là giúp HS lĩnh hội kiến thức mà còn tổ chức các hoạt động GD đạo đức để GD HS, giúp HS hình thành và phát triển nhân cách toàn diện, cho nên, NVSP chính của người GV, nếu toàn diện hơn, là phải bao gồm cả nghiệp vụ GD HS [5, tr 3]. Theo tác giả Phạm Thị Kim Anh, “nói đến nghiệp vụ sư phạm là nói đến sự kết hợp chặt chẽ giữa tri thức sư phạm và kỹ năng sư phạm. Tri thức sư phạm được cung cấp cho sinh viên thông qua các môn học như: Tâm lý học, Giáo dục học, phương pháp dạy học bộ môn. Còn kỹ năng sư phạm được hình thành trong quá trình sinh viên tự rèn luyện thông qua các hoạt động thực hành, kiến tập, thực tập sư phạm...” [2, tr.11] Nhiều tác giả khác khi nói đến nghiệp vụ sư phạm đều có xu hướng cho rằng nghiệp vụ sư phạm là công việc chuyên môn của nghề dạy học và giáo dục học sinh hay nghề sư phạm. Chẳng hạn, tác giả Trần Bá Hoành (2010) định nghĩa: “Nghiệp vụ sư phạm là các hoạt động dạy học và giáo dục (nghĩa hẹp) học sinh của nhà giáo” [dẫn theo 32] Theo các nhà Tâm lý học, NVSP trong cấu trúc nhân cách của người thầy giáo bao gồm các nghiệp vụ dạy học: thiết kế (giáo án, kế hoạch); nắm vững lựa chọn tri thức; lựa chọn, phân loại, phối hợp phương pháp dạy học; nắm vững đối tượng; khả năng ngôn ngữ, diễn đạt ý tưởng; sử dụng phương tiện dạy học; tổ chức, quản lý HS; ứng xử phù hợp tình huống sư phạm; vận dụng hiệu quả phân hóa – cá thể hóa; lôi 15 cuốn thuyết phục HS học tập; kiểm tra đánh giá trình độ HS... Các nghiệp vụ GD: xây dựng kế hoạch hoạt động GD; tổ chức, chỉ đạo hoạt động GD; nắm vững đối tượng và GD HS cá biệt; đánh giá, điều chỉnh hoạt động GD; thuyết phục cảm hóa HS; vận động, lôi cuốn, phối hợp GD; xây dựng tập thể HS; giao tiếp, ứng xử sư phạm… NVSP thống nhất biện chứng cùng với các thành tố trong cấu trúc nhân cách của người GV là phẩm chất nghề nghiệp, năng lực sư phạm và tri thức, kỹ năng kỹ xảo sư phạm. Như vậy, nghiệp vụ sư phạm không chỉ là một hệ thống kỹ năng mà bao gồm cả hệ thống tri thức và các phẩm chất nghề nghiệp mà một giáo viên cần phải có. Như vậy, NVSP được hiểu là “công việc chuyên môn chuyên biệt của GV với chức năng chính là giảng dạy, GD HS”. Vì vậy, các trường Sư phạm nói chung và các trường Đại học Sư phạm nói riêng coi RLNVSP là một trong những nội dung cốt lõi của chương trình đào tạo giáo viên. NVSP là sự thể hiện trình độ chuyên môn và tay nghề của người giáo viên trong hoạt động thực tiễn giáo dục theo yêu cầu của từng cấp học. b. Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm Theo Từ điển tiếng Việt: “Rèn luyện là tập cho quen” hoặc “Rèn luyện là dạy và tập cho nhiều để thành thông thạo”. [31, tr. 655] “Rèn luyện là luyện tập thường xuyên qua thực tế để thuần thục, vững vàng hơn”. [6, tr. 1402] Một thuật ngữ được sử dụng khá gần gũi với “rèn luyện” là “luyện tập”. Luyện tập là “làm đi làm lại nhiều lần theo nội dung đã học để cho thành thạo” [47]. Luyện tập chủ yếu đề cập đến mặt kỹ thuật của hành động. Rèn luyện cũng được thực hiện trên cơ sở của luyện tập. Nhưng theo tác giả Nguyễn Văn Tịnh, rèn luyện đề cập đến nhiều mặt, nhất là mặt ý thức, thái độ, hành vi, thói quen hành vi [32]. Rèn luyện là phương pháp tổ chức cho người học tham gia vào các hoạt động, các mối quan hệ phong phú và đa dạng nhằm tạo nên môi trường, phương tiện để người học có cơ hội rèn luyện kỹ năng, nhất là rèn luyện sự đấu tranh động cơ để quyết định phương hướng hành động và hành động theo phương hướng đúng. rèn luyện là phương pháp tổ chức cho sinh viên sư phạm thể nghiệm nhân cách nhà giáo thông qua các hoạt động, các mối quan hệ đa dạng của cuộc sống học đường, cuộc sống thực tiễn của nghề sư phạm. Trong rèn luyện đã có luyện tập và rèn luyện được tiến hành trên cơ sở 16 luyện tập. Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm gắn liền với việc tổ chức các hoạt động, các mối quan hệ tiếp xúc giao lưu sư phạm (trong và ngoài cơ sở đào tạo sư phạm) sao cho qua việc tham gia các hoạt động, các mối quan hệ đó mà chuẩn bị nhân cách nhà giáo theo yêu cầu chuẩn nghề nghiệp giáo viên cho sinh viên sư phạm. Như vậy, “Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm là tập làm công việc chuyên môn của nghề dạy học hay nói cách khác, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm là luyện tập thường xuyên qua thực tế để thuần thục công việc chuyên môn của nghề dạy học”. Quá trình đào tạo giáo viên trong nhà trường Sư phạm bao gồm hai hoạt động cùng tồn tại và có quan hệ mật thiết với nhau, đó là học tập kiến thức chuyên môn và RLNVSP. Học tập kiến thức chuyên môn là quá trình SV tiếp thu hệ thống kiến thức về các môn khoa học cơ bản và các môn chuyên ngành làm cơ sở cho việc rèn luyện các kỹ năng, kỹ xảo trong quá trình học tập. RLNVSP là quá trình giúp SV thực hành một cách có hệ thống những kỹ năng sư phạm trên cơ sở củng cố, mở rộng, đào sâu những tri thức về chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao tinh thần trách nhiệm và bồi dưỡng tình cảm nghề nghiệp. Đây là một hoạt động quan trọng nhằm hình thành tay nghề cho SV ở các trường sư phạm, gắn việc học tập kiến thức cơ bản với rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp. 1.2.2. Vị trí, ý nghĩa của rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên Trong công tác đào tạo của bất cứ nghề gì cũng phải quan tâm đến vấn đề rèn luyện nghiệp vụ, bồi dưỡng tay nghề cho người học. Sự thành thạo, nhuần nhuyễn tay nghề là một yếu tố rất quan trọng, làm tăng hiệu quả hoạt động trong một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định. Nghề dạy học là một trong những nghề đào tạo ra con người có đức, có tài, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Khác với một số nghề, đối tượng giáo dục của nghề dạy học là những con người có thế giới nội tâm phong phú, đa dạng về tình cảm, trí tuệ và nhân cách. Chính sự độc đáo về đối tượng hoạt động đã làm cho nghề dạy học trở lên phức tạp nhưng cũng rất quang vinh. Đúng như cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “Nghề dạy học là nghề cao quý bậc nhất trong các nghề cao quý của xã hội xã hội chủ nghĩa. Các nghề trong chế độ ta đều sáng tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần… Nghề dạy học là nghề sáng tạo bậc nhất vì nó sáng tạo những con người sáng tạo” [48]. Chính vì vậy, để đáp ứng được yêu cầu của nghề 17 nghiệp đòi hỏi người giáo viên không chỉ giỏi về chuyên môn mà còn phải là những người thành thạo về kĩ năng nghiệp vụ sư phạm. Bởi vậy, có thể nói hoạt động RLNVSP cho sinh viên là nét cơ bản, đặc thù, là nhiệm vụ cốt lõi, thường xuyên, là xương sống của mọi hoạt động đào tạo trong nhà trường Sư phạm. Hoạt động này có ý nghĩa quyết định trong việc hình thành phẩm chất, năng lực nghề nghiệp trong tương lai cho SV ngành sư phạm. RLNVSP là môi trường cho SV thể hiện năng lực thực tiễn của mình, năng lực này được hình thành và phát triển trên cơ sở rèn luyện các yếu tố kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp theo các yêu cầu chuẩn nghề nghiệp đã đặt ra. Hoạt động RLNVSP giúp trang bị cho sinh viên những hiểu biết sâu sắc về quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất là đối với lĩnh vực giáo dục đào tạo giúp sinh viên nắm vững sự đổi mới về chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục phổ thông, phương pháp tổ chức quá trình dạy học giáo dục học sinh, nắm được phương pháp giải quyết các tình huống xảy ra trong hoạt động sư phạm, bước đầu làm quen với công tác nghiên cứu khoa học giáo dục... Tất cả những điều đó giúp nâng cao tay nghề cho sinh viên, chuẩn bị cho sinh viên thực hiện nhiệm vụ dạy chữ, dạy người có hiệu quả trong tương lai. RLNVSP góp phần quan trọng vào sự hình thành và phát triển năng lực sư phạm cho SV. Bởi vì, năng lực sư phạm không thể hình thành trong một sớm một chiều mà là kết quả của quá trình rèn luyện thường xuyên, liên tục, kiên trì dưới sự tổ chức, hướng dẫn có kế hoạch của tập thể giảng viên. Nhà giáo dục lỗi lạc A.S. Makarenkô đã nói: “Nếu bạn có những biểu hiện huy hoàng nổi bật trong công tác, trong hiểu biết và trong thành thực; lúc đó bạn sẽ thấy tất cả mọi học sinh đều hướng về phía bạn. Trái lại, nếu bạn tỏ ra không có năng lực và tầm thường thì bất cứ bạn ôn tồn đến đâu, hiền lành đến đâu, bất cứ bạn săn sóc đến sinh hoạt và nghỉ ngơi của học sinh như thế nào, ngoài việc bị học sinh khinh thị ra, bạn vĩnh viễn không được cái gì cả” [34, tr.11]. RLNVSP giúp sinh viên có điều kiện thể hiện năng lực thực tiễn của mình. Đây chính là cơ hội cho sinh viên rèn luyện các kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp trong suốt quá trình học tập ở trường Sư phạm. RLNVSP mang tính chất thực hành sư phạm, vì vậy nó đòi hỏi sinh viên phải có ý thức tự giác, chủ động thực hiện các hành động chân tay và có sự phối hợp các giác quan để hình thành những kỹ năng, kỹ xảo dạy 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất