Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Thực trạng pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở việt nam...

Tài liệu Thực trạng pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở việt nam

.DOC
14
142
149

Mô tả:

MỤC LỤC ĐẶT VẤN ĐỀ.....................................................................................................................2 GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ......................................................................................................2 1. Những vấn đề lý luận cơ bản về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh..................................2 1.1. Khái niệm...............................................................................................................2 1.2. Các yếu tố cấu thành cơ bản của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh...........................3 2. Pháp luật kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam..................................4 2.1. Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm.............................................................4 2.2. Các trường hợp miễn trừ........................................................................................6 2.3. Điều tra, xử lý vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh...........................................7 3. Thực trạng thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam................................................8 4. Một số bất cập và phương hướng hoàn thiện pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh................................................................................................................................10 4.1. Một số bất cập trong những quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.............10 4.2. Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả của pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.............................................................................................................................11 KẾT THÚC VẤN ĐỀ........................................................................................................13 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................13 1 ĐẶT VẤN ĐỀ “ Cạnh tranh với tính cách là một hiện tượng xã hội chỉ xuất hiện dưới những tiền đề kinh tế và pháp lý cụ thể” đó là nền kinh tế thị trường với các hình thức sở hữu khác nhau, có nhiều chủ thể kinh tế cùng tham gia trên thị trường với những lợi ích kinh tế riêng, môi trường pháp lý thừa nhận và đảm bảo quyền tự do kinh doanh, quyền tự chủ của các chủ thể đó. Trong điều kiện như vậy thì cạnh tranh là quy luật vận động cơ bản, đồng thời là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Xét một cách toàn diện thì cạnh tranh là một xu hướng chi phối mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Song cũng chính từ quá trình cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế lại xuất hiện những yếu tố mà nếu không được pháp luật điều chỉnh thì sẽ dẫn đến triệt tiêu cạnh tranh, đó là: hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị thế độc quyền của nhiều doanh nghiệp… Có thể nói, trong những biến dạng tiêu cực của cạnh tranh thì hành vi hạn chế cạnh tranh được coi là đặc biệt nguy hiểm bởi nếu không được kiểm soát sẽ đi đến thủ tiêu cạnh tranh, gây hại cho người tiêu dùng và đồng thời là cả nền kinh tế. Hành vi hạn chế cạnh tranh được hiểu là hành vi làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường và được chia làm 3 nhóm chủ yếu: nhóm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, nhóm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và vị trí độc quyền, nhóm hành vi tập trung kinh tế. Và để tìm hiểu cụ thể hơn về pháp luật thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, em xin được trình bày về đề bài: thực trạng pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Những vấn đề lý luận cơ bản về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. 1.1. Khái niệm. Luật mẫu về cạnh tranh của Liên hợp quốc ban hành năm 2003, cũng như Luật cạnh tranh của Việt Nam đều không đưa ra khái niệm trực tiếp về “thỏa thuận hạn chế cạnh tranh” mà giúp hiểu khái niệm này thông qua việc liệt kê các thỏa thuận cụ thể. Trên cơ sở đó thì có thể đưa ra khái niệm về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh như sau: “thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là thỏa thuận của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường liên quan 2 phối hợp hành động với nhau để thủ tiêu cạnh tranh giữa chúng, nâng cao vị thế của các thành viên tham gia thỏa thuận, cản trở sự tham gia thị trường của các đối thủ cạnh tranh, cũng như sự nhập cuộc của các doanh nghiệp tiềm năng”. Pháp luật cạnh tranh của nhiều quốc gia trên thế giới đều quy định thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào, chính thức hoặc không chính thức, có thể thực hiện bằng miệng hoặc văn bản. Trên cơ sở mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia thỏa thuận, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thường được chia làm hai loại: thỏa thuận ngang và thỏa thuận dọc. Thỏa thuận ngang là thỏa thuận giữa các tác nhân kinh tế cùng ngành hàng, nằm ở vị trí ngang nhau trong quá trình sản xuất và phân phối. Còn thỏa thuận dọc là thỏa thuận của các tác nhân kinh tế nằm ở vị trí (các khâu) khác nhau trong chu trình sản xuất. Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh dù là thỏa thuận ngang hay dọc đều là những biến dạng nguy hiểm của cạnh tranh. Song pháp luật cạnh tranh của nhiều quốc gia trên thế giới (trong đó có Việt Nam) thường đặc biệt chú trọng hơn đến các thỏa thuận ngang bởi cho rằng đó là dạng thỏa thuận có thể gây tác động xấu đến cạnh tranh lành mạnh ở mức cao hơn. 1.2. Các yếu tố cấu thành cơ bản của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Cạnh tranh chỉ xuất hiện trong điều kiện nền kinh tế thị trường với những tiền đề vật chất và pháp luật nhất định đủ để cho nó tồn tại và phát triển. Bản chất của cạnh tranh là cuộc chạy đua của các thành viên trong thương trường để giành giật nhau về những cơ hội, điều kiện, khả năng… Và tất yếu sau những cuộc chạy đua sẽ dẫn đến sự phân hóa rõ rệt giữa các chủ thể kinh doanh, những đối tượng có năng lực cạnh tranh yếu kém sẽ bị tụt lại và dần bị đào thải. Đây là lúc trong nền kinh tế đã xuất hiện những điều kiện thuận lợi cho những thỏa thuận nhằm hạn chế cạnh tranh ra đời với những yếu tố cấu thành cơ bản sau: - Về mặt hành vi, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh của các chủ thể kinh doanh trên thị trường được biểu hiện qua các hành vi thỏa thuận sau đây: thỏa thuận về giá, thỏa thuận về chất lượng, số lượng; thỏa thuận về phân chia thị trường cung ứng dịch vụ; thỏa thuận về loại bỏ khỏi thị trường hoặc ngăn cản các doanh nghiệp tiềm năng; thỏa thuận để thắng thầu… Với những hành vi như vậy thì hình thức biểu hiện của nó là vô cùng phong phú, có thể bằng văn bản, lời nói hoặc bằng hành động… 3 - Về mặt chủ thể, các nhóm chủ thể có xu hướng liên kết với nhau thực hiện thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thường là các nhóm chủ thể kinh doanh có năng lực cạnh tranh bằng nhau, có vị thế ngang nhau trên thương trường. Ví dụ như nhóm các chủ thể kinh doanh dẫn đầu có xu hướng thỏa thuận với nhau về những vấn đề nhằm triệt tiêu cạnh tranh giữa họ và đảm bảo vị thế của họ trên thương trường một cách dài lâu; hoặc nhóm các chủ thể kinh doanh có vị thế kém hơn thì họ sẽ liên kết lại với nhau nhằm mục đích vươn lên làm tăng vị thế của nhóm và khả năng cạnh tranh trên thị trường. - Về mục đích của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thì xuất phát từ các nhóm chủ thể khác nhau trên cơ sở các dạng hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh khác nhau mà mục đích hướng tới cụ thể của các thỏa thuận là không giống nhau. Song tất cả đều xuất phát từ động cơ chung là nhằm triệt tiêu cạnh tranh giữa các chủ thể tham gia thỏa thuận, nâng cao vị thế trên thị trường và hạn chế khả năng cạnh tranh của các bên không phải là thành viên của thỏa thuận. 2. Pháp luật kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam. 2.1. Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm. Chuyển sang nền kinh tế thị trường với mặt trái của các quy luật kinh tế đã khiến cho các doanh nghiệp nghĩ ra nhiều phương cách để có lợi thế trên thương trường. Một trong những cách mà các chủ thể thường dùng đó là ký kết các thỏa thuận giữa các đối thủ cạnh tranh nhằm hạn chế khả năng tham gia thị trường của các đối thủ cạnh tranh có tiềm năng, tìm cách loại bỏ một số đối thủ cạnh tranh nào đó, đồng thời thủ tiêu sự cạnh tranh giữa những đối thủ cạnh tranh. Theo pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới thì những thỏa thuận nhằm hạn chế cạnh tranh đều cấm và khi xuất hiện dưới bất kỳ hình thức nào chúng đều bị tuyên bố là vô hiệu. Luật cạnh tranh 2004 đã quy định cụ thể những hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, bao gồm: 1. Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; 2. Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ; 4 3. Thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, dịch vụ; 4. Thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư; 5. Thoả thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng; 6. Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh; 7. Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thoả thuận; 8. Thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ. Điều luật chỉ liệt kê các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh mà không phân chia rõ giữa các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang và các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc của chu trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, nếu xem xét tính chất của các hành vi bị coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được quy định trong Luật cạnh tranh thì cũng có thể phân chia các thỏa thuận này thành hai nhóm: thỏa thuận theo chiều ngang và thỏa thuận theo chiều dọc. Loại thỏa thuận theo chiều dọc đã được đề cập tại khoản 5 Điều 8 của Luật cạnh tranh 2004. Theo Điều 9 Luật cạnh tranh thì luật cũng gián tiếp chia các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thành hai loại nhưng không phải là thỏa thuận ngang và thỏa thuận dọc mà chia thành hai loại với hướng xử lý khác nhau, 1 loại đối với những thỏa thuận từ khoản 1 đến khoản 5 – thỏa thuận hạn chế cạnh tranh gián tiếp tức là không chỉ ra đối tượng bị hạn chế cạnh tranh một cách cụ thể và loại còn lại là những thỏa thuận từ khoản 6 đến khoản 8 của Điều 8 – thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trực tiếp, chỉ ra đối tượng bị hạn chế cạnh tranh một cách cụ thể. Theo Điều 9, những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trực tiếp bị cấm hoàn toàn còn những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh gián tiếp thì chỉ bị cấm trong những trường hợp nhất định, đó là khi các bên tham gia thỏa thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên. 5 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 15/9/2005 quy định chi tiết thi hành một số quy định của Luật cạnh tranh đã đề cập cụ thể hóa và chi tiết hơn các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được quy định tại Điều 8 Luật cạnh tranh. Song trên thực tế, việc xác định thế nào là thị trường liên quan và thị phần trên thị trường liên quan làm căn cứ để kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh vẫn là vấn đề khó khăn, phức tạp. Đây là một trong những lý do dẫn đến hiệu quả chống hạn chế cạnh tranh nói chung và kiểm soát thỏa thuận chống hạn chế cạnh tranh nói riêng của Luật cạnh tranh còn chưa phát huy hết hiệu quả trên thực tế. 2.2. Các trường hợp miễn trừ. Đối với Luật cạnh tranh của Việt Nam thì những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh quy định tại các Khoản 1,2,3,4,5 Điều 8 sẽ được miễn trừ khi các bên tham gia thỏa thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên. Tuy nhiên, sự miễn trừ được quy định có thời hạn và phải đáp ứng những điều kiện nhất định. Khoản 1 Điều 10 Luật cạnh tranh quy định những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thuộc diện bị cấm được miễn trừ như sau: 1. Thoả thuận hạn chế cạnh tranh quy định tại khoản 2 Điều 9 của Luật này được miễn trừ có thời hạn nếu đáp ứng một trong các điều kiện sau đây nhằm hạ giá thành, có lợi cho người tiêu dùng: a) Hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh; b) Thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ; c) Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm; d) Thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán nhưng không liên quan đến giá và các yếu tố của giá; đ) Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa; e) Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế. Như vậy, các thỏa thuận quy định tại các khoản 6,7,8 Điều 8 Luật cạnh tranh bị cấm tuyệt đối, các thỏa thuận còn lại có thể được miễn trừ khi đáp ứng điều kiện do luật định. 6 Đối với các quy định tại điểm a,b,c,d khoản 1 điều 10 cũng tương tự như quy định về điều kiện miễn trừ trong luật của nhiều quốc gia trên thế giới. Còn đối với quy định tại điểm d,e thì được coi là điều kiện khá đặc trưng của Luật cạnh tranh Việt Nam, xuất phát từ đặc thù nền kinh tế chủ yếu bao gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ, do đó mà sự tăng trưởng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp này hết sức cần thiết trong quá trình phát triển nền kinh tế. Hành vi thuộc trường hợp được miễn trừ chỉ được phép thực hiện sau khi được cơ quan quản lý cạnh tranh xem xét và chấp nhận bằng văn bản. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 25 Luật cạnh tranh Việt Nam thì Bộ trưởng Bộ thương mại là người có quyền xem xét, quyết định việc miễn trừ bằng văn bản đối với các trường hợp thỏa thuận hạn chế cạnh tranh tại Điều 10. Và Điều 26 đã xác định rõ đối tượng được quyền nộp hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ. Đồng thời Điều 28 đã quy định cụ thể về hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ, đây là cơ sở pháp lý quan trọng để các bên thực hiện việc miễn trừ và cũng là cơ sở pháp lý để cơ quan quản lý cạnh tranh thụ lý hồ sơ theo luật định. 2.3. Điều tra, xử lý vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Để có cơ sở pháp lý trong việc đưa vụ việc cạnh tranh ra điều tra chính thức đồng thời giảm thiểu những thủ tục tố tụng khi phát hiện ra không có vi phạm pháp luật thuộc phạm vi điều chỉnh của luật cạnh tranh thì mọi vụ việc cạnh tranh đều bắt đầu bằng thủ tục đều tra sơ bộ được triển khai bằng quyết định của thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh và được tiến hành bởi các điều tra viên. Thời hạn điều tra sơ bộ là 30 ngày, kể từ ngày có quyết định điều tra sơ bộ (Điều 87). Căn cứ vào kết quả điều tra sơ bộ và kiến nghị của điều tra viên, thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh ra một trong các quyết định đình chỉ điều tra nếu kết quả điều tra sơ bộ cho thấy không có hành vi vi phạm quy định của pháp luật hoặc điều tra điều tra chính thức nếu kết quả điều tra sơ bộ cho thấy có dấu hiệu vi phạm quy định của Luật cạnh tranh (Điều 88). Quy định này tạo ra tính nghiêm minh, chặt chẽ của pháp luật, tránh sự tùy tiện của cơ quan có thẩm quyền trong việc đình chỉ điều tra hoặc tiến hành điều tra chính thức khi có đầy đủ cơ sở pháp lý. Điều 89 đã quy định rõ nội dung điều tra chính thức đối với vụ việc hạn chế cạnh tranh và thời hạn điều tra chính thức đối với vụ việc là 180 ngày, kể từ ngày ra quyết định; trường hợp cần thiết, thời hạn này có thể được Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh gia hạn, nhưng không quá hai lần, mỗi lần không quá 60 ngày. 7 Quyết định điều tra chính thức như trên nhằm đảm bảo việc điều tra được tiến hành nhanh chóng, kịp thời, phát huy hiệu quả việc ngăn chặn và phát hiện hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh, đồng thời bảo đảm quyền và lợi ích của bên bị điều tra cũng như của người khiếu nại. 3. Thực trạng thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam. Chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, quá trình chuyển đổi khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã diễn ra rất chậm chạp. Bản chất của việc giảm đáng kể số lượng các DNNN chỉ là sắp xếp lại, sáp nhập, hình thành những Tổng công ty. Dù rằng trong Tổng công ty có những doanh nghiệp thành viên được mang tính độc lập, song đương nhiên những công ty này phải chịu sự chỉ đạo của Tổng công ty và được thoả thuận với nhau một cách hợp pháp. Nguy hiểm hơn, sau một thời gian dài, quá trình tách chức năng chủ quản ở các bộ quản lý ngành vẫn chưa được thực hiện. Sự thoả thuận, phối hợp giữa các đơn vị doanh nghiệp trong bộ vẫn được tiến hành công khai hoặc bán công khai dưới sự chỉ đạo trực tiếp hoặc gián tiếp của bộ quản lý ngành. Hiện tượng các đơn vị trong bộ phải có trách nhiệm cung ứng cho nhau, hoặc bộ chỉ đạo cho các công ty chỉ được phép mua sản phẩm của các công ty trong bộ, hiện tượng “khép kín kinh doanh” trong một bộ là những hiện tượng vẫn thường xuyên diễn ra công khai hoặc không công khai trong thực tiễn (mặc dù hiện nay đã giảm bớt). Tuy những hiện tượng liên kết tự nguyện hoặc không tự nguyện này đã có những ảnh hưởng rất tiêu cực đến môi trường cạnh tranh, song về mặt pháp lý, những hành vi này hoàn toàn không trái với pháp luật cho đến khi Luật Cạnh tranh ban hành. Một hình thức thoả thuận khác cũng tương đối phổ biến ở Việt Nam là hình thức thoả thuận trên cơ sở hiệp hội ngành nghề. Trước đây, Việt Nam vẫn chưa có luật hoặc pháp lệnh nào quy định việc hình thành và tổ chức của các hiệp hội. Cho đến khi Luật Cạnh tranh ban hành, các hiệp hội vẫn có thể công khai thoả thuận về giá sản phẩm dịch vụ mà hiệp hội cung cấp, thậm chí còn có thể thoả thuận về phân chia khu vực ảnh hưởng. Trong đó, phải kể đến những vụ việc như vụ Hiệp hội Thép ra nghị quyết ấn định giá bán, vụ Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam thống nhất nâng mức phí bảo hiểm cho tất cả các đối tượng khách hàng… Tháng 5 năm 2002, Pháp lệnh về giá đã được ban hành, hành vi liên kết độc quyền về giá đã bị cấm (khoản 1, điều 28, Pháp lệnh giá), trong nội dung quản lý nhà nước về giá bao gồm cả kiểm soát giá độc quyền (khoản 5, điều 31), cơ quan quản lý nhà nước về giá có thể đình chỉ việc thực hiện giá hàng hoá, dịch vụ do tổ chức, cá nhân 8 liên kết độc quyền về giá quyết định (khoản 1, điều 21). Tuy vậy, việc vận dụng và thực hiện các điều trong luật là hoàn toàn không dễ dàng bởi khái niệm về giá độc quyền trong Pháp lệnh giá còn rất chung chung, chưa khoa học và không định lượng được (khoản 4 và 5, điều 4). Sự thoả thuận ở mức độ tương đối cao giữa các doanh nghiệp ở Việt nam đã ảnh hưởng tiêu cực đến người tiêu dùng nói riêng và toàn xã hội nói chung. Mức độ tác hại của sự thoả thuận giữa các doanh nghiệp hoàn toàn giống như tác động tiêu cực của tập trung kinh tế, đặc biệt là ở việc lạm dụng vị thế độc quyền (nhóm) trong việc nâng giá hoặc giảm chất lượng sản phẩm (trong trường hợp giá phải chịu sự quản lý của Nhà nước. Sự thoả thuận ở Việt nam trong thời gian qua đã diễn ra không chỉ dưới hình thức thoả thuận theo chiều ngang mà còn ở cả với hình thức thoả thuận theo chiều dọc. Hiện tượng đấu thầu “khép kín” đã trở thành một chủ đề “nóng” trong kỳ họp Quốc hội tháng 11/2004 và đã được khẳng định là một nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiện tượng thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản ở nước ta. Về bản chất, hiện tượng này chính là một sự “thoả thuận theo chiều dọc” và tệ hại hơn, đó không những là sự thoả thuận giữa các doanh nghiệp với nhau mà còn là sự thoả thuận giữa các doanh nghiệp với các cơ quan nhà nước. Hiện tượng này đã có tác động rất tiêu cực đến môi trường cạnh tranh của nước ta trong lĩnh vực xây dựng. Theo số liệu của Bộ kế hoạch và đầu tư, tính đến ngày 23/8/2011 cả nước đã có 602.171 doanh nghiệp đăng ký hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Với số lượng doanh nghiệp lớn như vậy, Luật cạnh tranh 2004 được đánh giá là kịp thời, hạn chế được những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các doanh nghiệp cũng như toàn xã hội. tuy nhiên, cho đến nay pháp luật cạnh tranh của Việt Nam chưa thể hiện rõ và đầy đủ vai trò, nhiệm vụ là công cụ pháp lý quan trọng của Nhà nước để điều tiết kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường. Số lượng vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được đưa ra và xử lý ít hơn so với thực tiễn cạnh tranh đang diễn ra ngày càng nhiều và đang có xu hướng diễn biến ngày càng phức tạp. Tại Hội thảo “ 5 năm thực thi pháp luật cạnh tranh trong kiểm soát hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam” vào ngày 28/12/2010 tại thành phố Hồ Chí Minh do dự án hỗ trợ thương mại đa biên tổ chức. Sau 5 năm thực thi Luật cạnh tranh, chỉ có hơn 40 vụ liên quan đến vi phạm quy định của Luật được xử lý; trong đó 3 vụ việc lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền, 9 thống lĩnh, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, bị xử phạt số tiền hàng tỉ đồng. Trong khi đó, theo Báo cáo kết quả cạnh tranh trong 10 lĩnh vực của nền kinh tế do Cục quản lý cạnh tranh Bộ Công thương công bố ngày 14/10/2010 tại Hà Nội: trong một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có quy mô thị trường lớn như thép xây dựng, xi măng, sữa bột, ngân hàng, bảo hiểm… đều có hiện tượng thỏa thuận ngầm nhằm hạn chế cạnh tranh, đầu cơ, nâng giá, lũng đoạn thị trường. 10 lĩnh vực được nhóm nghiên cứu của Cục quản lý cạnh tranh điều tra, khảo sát bao gồm 5 ngành sản xuất: sữa, thép, xi măng, thức ăn chăn nuôi, phân bón, và 5 loại hình dịch vụ: ngân hàng, bảo hiểm, phân phối xăng dầu, viễn thông và hàng không thì trong đó có 5 lĩnh vực sản xuất đã xuất hiện hiện tượng thỏa thuận hạn chế cạnh tranh như liên kết về giá, điển hình là ngành sữa. Cụ thể, việc các hãng sữa ngoại đề nghị giá bán lẻ ra trên thị trường Việt Nam quá cao so với giá gốc và gần gấp đôi so với mức trung bình trên thế giới (mặc dù mức thuế nhập khẩu so sánh không cao) là một điều không bình thường và đủ cơ sở để có những quan ngại về sự thao túng thị trường của họ. Hay như trong lĩnh vực thép, vào giữa năm 2008, lợi dụng thị trường thế giới đang có “bão” giá, đã xuất hiện một số hành vi đầu cơ, nâng giá, lũng đoạn thị trường thép. Trong hoạt động ngân hàng, thỏa thuận ấn định lãi suất trần của các tổ chức tín dụng trong Hiệp hội ngân hàng cũng được Cục quản lý cạnh tranh xác định là một hình thức thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Trong kinh doanh xăng dầu cũng xảy ra hiện tượng các doanh nghiệp đồng loạt tăng giá liên tục mà theo cơ quan này thì đó là dấu hiệu thỏa thuận ấn định giá… Cục quản lý cạnh tranh cũng thừa nhận rằng “khó có bằng chứng cho hành vi câu kết, lũng đoạn thị trường vì doanh nghiệp không có thỏa thuận bằng văn bản”. 4. Một số bất cập và phương hướng hoàn thiện pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. 4.1. Một số bất cập trong những quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Quy định tại Điều 8 Luật cạnh tranh 2004 không có quy định mở, cách tiếp cận này phù hợp với hoàn cảnh hiện tại của Việt Nam nhưng trong tương lai thì có thể “khiến cho Luật Cạnh tranh trở nên cứng nhắc và có thể lạc hậu trong tương lai trước sự thay đổi không ngừng của các hoạt động kinh doanh”. Pháp luật cạnh tranh đối với chế định khoan hồng mới chỉ dừng lại ở việc quy định chung chung về tình tiết giảm nhẹ trong xử lý các quy định về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh, các quy định này chưa thể hiện rõ chính sách khoan hồng đối với các thành viên chủ động khai báo và cung cấp thông tin 10 cho các cơ quan có thẩm quyền. Vấn đề xử phạt các hiệp hội ngành nghề tham gia vào thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chưa được quy định rõ ràng. Điều 8 và Điều 9 Luật Cạnh tranh đều không đề cập đến các hiệp hội. Đây thực sự là điểm khiếm khuyết của Luật Cạnh tranh Việt Nam trong bối cảnh các hiệp hội Việt Nam thường đóng vai trò rất tích cực trong việc giúp các thành viên hình thành nên các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Quy định đối với hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm “có thể phạt tiền tối đa 10% tổng doanh thu của tổ chức, cá nhân vi phạm trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm”. Theo ông Nguyễn Trọng Nghĩa, vụ trưởng Vụ Pháp chế thì “quy định này dẫn tới trường hợp doanh nghiệp kinh doanh đa ngành nhưng vi phạm Luật cạnh tranh đối với một hoạt động mà bị tính phạt trên toàn bộ doanh thu là rất lớn, ảnh hưởng đến hiệu lực của quyết định xử phạt”. Còn theo TS Nguyễn Thị Vân Anh, giảng viên trường Đại học Luật Hà Nội thì “mức phạt tiền tối đa 10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm còn quá chung chung, dễ dẫn đến tùy tiện trong quyết định mức phạt đối với từng vụ việc. Nếu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm không có doanh thu thì mức phạt sẽ là…0 đồng. Điều này dẫn đến mục đích của việc áp dụng chế tài phạt tiền để ngăn ngừa, răn đe không đạt được. Bởi vậy, cần quy định mức phạt tối thiểu đối với doanh nghiệp tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm”. Theo ông Nguyễn Sinh Nhật Tân, Vụ trưởng Vụ pháp chế - Bộ công thương thì đối tượng “doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt Nam” chưa thống nhất trong cách hiểu cũng như chưa được làm rõ trong các văn bản hướng dẫn chuyên ngành. Vì thế, khi triển khai Luật cạnh tranh có vướng mắc, như thỏa thuận xuyên biên giới đối với một số sản phẩm dược phẩm và sữa, hoặc việc bán hàng đa cấp xuyên biên giới thông qua các hoạt động trên internet tại Việt Nam chưa có chế tài cụ thể để xử lý. 4.2. Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả của pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh của nước ta vẫn còn một số vấn đề cần phải sửa đổi, hoàn thiện để phù hợp với thông lệ quốc tế và đảm bảo thực thi pháp luật về cạnh tranh một cách có hiệu quả trên thực tế. Đầu tiên, cần phải có quy định mở trong Điều 8 Luật cạnh tranh, giống như pháp luật của một số quốc gia trên thế giới, nên có thêm quy định “các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh khác” để phù hợp sự thay đổi của các hoạt động kinh doanh trong tương lai. 11 Tiếp theo, để đáp ứng yêu cầu kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hiệu quả cũng như phù hợp với thông lệ quốc tế thì cần phải phân biệt thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang và thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc. Như ta đã biết, mức độ gây thiệt hại của hai loại thỏa thuận hạn chế cạnh tranh này trên thị trường liên quan là khác nhau vì vậy yêu cầu kiểm soát đối với chúng cần có sự khác nhau. Xét về phương diện kinh tế, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang có tính chất thủ tiêu cạnh tranh, phá vỡ quy luật thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển còn các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc với mục đích chính là thu được lợi nhuận cao, do đó mà thiệt hại trực tiếp tác động đến người tiêu dùng trong xã hội. Thông thường, mức độ kiểm soát của pháp luật các nước đối với hai loại này cũng khác nhau; cụ thể là: mức thị phần kết hợp trên thị trường liên quan của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang được ấn định ở mức thấp hơn so với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc. Như vậy, yêu cầu về kiểm soát và can thiệp vào các thỏa thuận theo chiều ngang đòi hỏi phải cao hơn và nghiêm khắc hơn. Có thể nói, theo Luật cạnh tranh Việt Nam hiện nay, quy định chung một giới hạn tỉ lệ cho cả hai loại thỏa thuận mà ở giới hạn đó làm căn cứ để xác định thỏa thuận hợp pháp hay bất hợp pháp là không hợp lý, cần thiết phải định lượng cho hai loại thỏa thuận này tỷ lệ phần trăm khác nhau đối với thị phần kết hợp trên thị trường liên quan làm căn cứ cho việc kiểm soát, nhằm đảm bảo tính khoa học trong điều chỉnh của luật đối với hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và để phù hợp với thông lệ quốc tế. Bên cạnh đó, về lý luận cũng như thực tiễn, không nên coi thị phần là căn cứ duy nhất để kết luận một hành vi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hợp pháp hay bất hợp pháp như hiện nay. Cần cân nhắc để bổ sung vào quy định của Luật cạnh tranh một số tiêu chí cơ bản sau để làm căn cứ đánh giá thỏa thuận hạn chế cạnh tranh như: tiêu chí về giá cả hàng hóa, dịch vụ; tiêu chí sản lượng, khối lượng mua, bán hàng hóa, dịch vụ; tiêu chí số lượng đơn chào hàng, đặt hàng… Hơn nữa, cần thiết phải quy định một chế tài riêng cho loại hành vi đấu thầu thông đồng để phù hợp với thông lệ quốc tế và ngăn chặn những tác hại tiêu cực của nó với nền kinh tế. Đồng thời, cần củng cố bộ máy nhà nước kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở những khía cạnh sau: nâng cao trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức trong Cục quản lý cạnh tranh; thực hiện liên kết với đội ngũ cộng tác viên ngoài cục, bởi việc giám sát và kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đòi hỏi phải 12 có sự hỗ trợ, phối hợp của các bộ các ban, ngành khác; cần phải nâng cao vị trí pháp lý của cơ quan quản lý, kiểm soát cạnh tranh, cần phải trao cho cơ quan này các quyền lực phù hợp tạo đối trọng với quyền lực kinh tế trên thị trường của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận; xây dựng chương trình giảng dạy và kế hoạch tiếp cận thực tiễn về pháp luật cạnh tranh trong các trường đại học, cao đẳng thuộc ngành kinh tế, luật đồng thời phối hợp chặt chẽ với các viện nghiên cứu có liên quan về chính sách kinh tế và pháp luật. Ngoài hệ thống văn bản pháp lý và bộ máy quản lý nhà nước ra thì việc thực thi pháp luật về cạnh tranh nói chung và kiểm soát hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nói riêng còn phụ thuộc rất nhiều vào cơ chế thực thi pháp luật. Để có một cơ chế thực thi đủ mạnh vừa đảm bảo các quy định của pháp luật được thi hành một cách nghiêm minh, đồng thời bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp trên thị trường thì cần chú ý một số vấn đề sau: cần bảo đảm nguyên tắc độc lập trong hoạt động của các cơ quan quản lý cạnh tranh đồng thời chú ý tới nguồn thông tin để phục vụ cho công tác quản lý cạnh tranh và cần xây dựng một cơ chế đảm bảo tính khoa học, công bằng, minh bạch khách quan cho các quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh. Và để nâng cao hơn nữa hiệu quả thực hiện của pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thì các doanh nghiệp cần có những chiến lược ổn định, bền vững, nâng cao hiệu biết về pháp luật cũng như năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mình. KẾT THÚC VẤN ĐỀ Thông qua việc tìm hiểu về pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cũng như thực trạng thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hiện nay ở Việt Nam, ta thấy được bên cạnh một số kết quả đạt được thì vẫn còn nhiều thiếu sót cần được khắc phục. Hy vọng trong thời gian tới, những tồn tại nêu trên của pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh sớm được khắc phục qua đó thiết lập một môi trường cạnh tranh lành mạnh để các doanh nghiệp cùng hợp tác phát triển. 13 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luật cạnh tranh năm 2004. 2. Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/09/2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật cạnh tranh. 3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật cạnh tranh, Nxb. CAND, Hà Nội, 2011. 4. Đồng Ngọc Dám, Luận văn thạc sĩ luật học, Kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Hà Nội, 2007. 5. Lê Việt Nga, Khóa luận tốt nghiệp, Kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo pháp luật Việt Nam, Hà Nội, 2008. 6. Và một số trang web: 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan