MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
2
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2
1. Những vấn đề chung về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh…...2
1.1. Khái niệm về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh…………..2
1.2. Đặc điểm về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh …………..4
1.3. Phân loại quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh………………….....5
2. Quy định pháp luật về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh…….6
2.1. Quảng cáo so sánh…………………………………………………..….6
2.2. Quảng cáo bắt chước……………………….……………………...…...7
2.3.Quảng cáo gây nhầm lẫn ……………………………………………….9
3. Thực tiễn thực hiện quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh………10
3.1. Thực tiễn hoạt động quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh….10
3.2. Bất cập và phương hướng hoàn thiện …………………………..…….12
KẾT LUẬN
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
17
ĐẶT VẤN ĐỀ
1
Cạnh tranh có vai trò rất quan trọng và là một trong những động lực mạnh
mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Nó buộc người sản xuất phải năng động, nhạy bén,
tích cực nâng cao tay nghề, cải tiến kỹ thuật, áp dụng khoa học công nghệ, hoàn
thiện tổ chức quản lý để nâng cao năng suất lao động, hiệu quả kinh tế. Ở đâu thiếu
cạnh tranh hoặc có biểu hiện độc quyền thì thường trì trệ và kém phát triển.
Bên cạnh mặt tích cực, cạnh tranh cũng có những tác động tiêu cực thể hiện
ở cạnh tranh không lành mạnh như những hành động vi phạm đạo đức hay vi phạm
pháp luật như buôn lậu, trốn thuế, tung tin phá hoại… Một trong những hành vi
cạnh tranh không lành mạnh đó là quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
đang diễn ra hết sức phức tạp, tạo ra nhiều bức bối cho xã hội. Thông qua vấn đề
đã nêu ra, em xin chọn đề tài: “Thực trạng pháp luật cạnh tranh Việt Nam về
quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh” để phân tích. Cụ thể là, tìm hiểu
những vấn đề chung về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, những quy
định pháp luật về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, và thực tiễn thực
hiện quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh hiện nay.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Những vấn đề chung về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh
1.1. Khái niệm về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh là một vấn đề cần quan tâm trong
nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Hành vi quảng cáo không chỉ đơn giản
là hành vi quảng cáo cho sản phẩm hay doanh nghiệp mà còn là sự cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp, tổ chức cá nhân tiến hành hoạt động kinh doanh.
Quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh là một hành vi trong số các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh. Hiện nay khái niệm cạnh tranh không lành mạnh
được ghi nhận tại khoản 4 Điều 3 luật cạnh tranh 2004: “Hành vi cạnh tranh
không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh
doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại
hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng”. Định nghĩa cạnh tranh không lành
2
mạnh được ghi nhận trong luật cạnh tranh 2004 tương tự như Điều 10bis Công ước
Paris và pháp luật các nước có nền kinh tế thị trường trên thế giới. Đây được đánh
giá là khái niệm mở.
Theo quan điểm một số nước trên thế giới như Hiệp hội Hoa Kỳ (AMA) đưa
ra khái niệm quảng cáo: “Quảng cáo là hoạt động truyền bá thông tin trong đó nói
rõ ý đồ của quảng cáo, tuyên truyền hàng hóa, dịch vụ của quảng cáo trên cơ sở
thu phí quảng cáo, không trực tiếp nhằm công kích người tiêu dùng”. Khái niệm
này được đưa ra dựa trên sự phát triển thực tại của nền kinh tế và hoạt động quảng
cáo tại nơi đó. Còn ở Việt Nam đưa ra khái niệm quảng cáo tại khoản 1, Điều 2
Luật quảng cáo 2012: “Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện nhằm giới
thiệu đến công chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi; sản
phẩm, dịch vụ không có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm,
hàng hoá, dịch vụ được giới thiệu, trừ tin thời sự; chính sách xã hội; thông tin cá
nhân”. Như vậy hoạt động quảng cáo của doanh nghiệp là những nỗ lực nhằm tác
động tới hành vi, thói quen mua hàng của người tiêu dùng hay khách hàng bằng
cách cung cấp những thông điệp bán hàng theo cách thuyết phục về sản phẩm hay
dịch vụ của người bán nhằm thu được lợi nhuận một cách hiệu quả nhất. Mặt hàng
của hoạt động quảng cáo phong phú và đa dạng gồm hàng hóa và dịch vụ.
Trong luật cạnh tranh 2004 không có quy định nào định nghĩa cụ thể quảng
cáo cạnh tranh không lành mạnh nhưng tại Điều 45 có liệt kê danh sách những
hành vi bị cấm nhằm hạn chế hành vi quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh.“ 1.
So sánh trực tiếp hàng hoá, dịch vụ của mình với hàng hoá, dịch vụ cùng loại của
doanh nghiệp khác; 2. Bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn
cho khách hàng; 3. Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng.
Các nhà lập pháp đưa ra một danh sách liệt kê thay cho khái niệm cụ thể, việc liệt
kê này cụ thể hóa những hành vi bị coi là quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh,
tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thực hiện và kiểm tra hoạt quảng cáo của
doanh nghiệp.
1.2. Đặc điểm về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
3
Quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh là một trong các hành vi của cạnh
tranh không lành mạnh, hành vi quảng cáo có đặc điểm chung giống với hành vi
cạnh tranh không lành mạnh và có đặc điểm riêng biệt:
Thứ nhất, hành vi quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh là một hành vi
cạnh tranh do các chủ thể kinh doanh trên thị trường thực hiện nhằm mục đích lợi
nhuận. Trên thị trường cạnh tranh, mỗi hành vi kinh doanh của một doanh nghiệp
cũng chính là hành vi cạnh tranh trong tương quan với doanh nghiệp khác. Để thu
được lợi nhuận doanh nghiệp buộc phải cạnh tranh với đối thủ hoạt động trong
cùng lĩnh vực nhằm thu hút khách hàng về phía mình. Chủ thể thực hiện hành vi
quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh là các doanh nghiệp tham gia hoạt động
kinh doanh trên thị trường, bao gồm: Mọi tổ chức hay cá nhân tham gia tìm kiếm
lợi nhuận một cách thường xuyên, chuyên nghiệp.
Thứ hai, hành vi quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh là hành vi có tính
chất đối lập, đi ngược lại các thông lệ tốt, các nguyên tắc đạo đức kinh doanh (có
thể hiểu là các quy tắc xử sự chung đã được chấp nhận rộng rãi và lâu dài trong
hoạt động kinh doanh trên thị trường). Các quy định về quảng cáo cạnh tranh
không lành mạnh được hình thành và hoàn thiện qua bề dày thực tiễn phát triển
kinh tế xã hội. Để có thể phán định một hành vi có đi ngược lại những quy tắc xử
sự chung trong kinh doanh hay không thì đòi hỏi cơ quan xử lý hành vi quảng cáo
cạnh tranh không lành mạnh cần hiểu biết và đánh giá sâu sắc về thực tiễn thị
trường.
Thứ ba, hành vi quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh cần được ngăn chặn
khi nó gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại cho đối tượng khác. Hành vi
quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh là hành vi gây thiệt hại nhất định dù thiệt
hại này đã xảy ra hay chưa và hành vi này cần được ngăn chặn. Những thiệt hại
cũng gắn liền với trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhằm bảo vệ quyền lợi cho các
bên. Đặc điểm này mang ý nghĩa về tố tụng và gắn liền với yêu cầu bồi thường
thiệt hại.
Trên đây là đặc điểm chung của cạnh tranh không lành mạnh và quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh, những đặc điểm riêng của quảng cáo nhằm
4
cạnh tranh không lành mạnh xuất hiện cụ thể trong từng hình thức quảng cáo riêng
biệt.
1.3. Phân loại quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh
Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh được chia ra làm 3 loại tùy
thuộc vào hành vi quảng cáo cụ thể, bao gồm: Quảng cáo so sánh, quảng cáo bắt
chước, quảng cáo gây nhầm lẫn.
-
Theo Đại từ điển Black’s Law, quảng cáo so sánh được định nghĩa
như sau:“Quảng cáo so sánh là quảng cáo mà so sánh một cách đặc biệt nhãn
hiệu hàng hóa này với nhãn hiệu hàng hóa khác của cùng một loại sản phẩm”.
Hiện nay ở Việt Nam chưa xây dựng khái niệm quảng cáo so sánh. Hiểu một cách
chung nhất: Quảng cáo so sánh là quảng cáo trong đó có nội dung so sánh giữa
hàng hóa, dịch vụ, khả năng kinh doanh của một doanh nghiệp (người quảng cáo)
với đối tượng cùng loại của một hay một số doanh nghiệp cạnh tranh khác. Đây là
hoạt động quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh phổ biến nhất. Vì lợi ích
của mình và nhằm cạnh tranh không lành mạnh với đối thủ mà bên đưa ra quảng
cáo sẽ tìm cách so sánh hàng hóa, dịch vụ của mình với bên đối thủ để hạ thấp
hàng hóa, dịch vụ của đối thủ và thu hút khách hàng, lợi nhuận về phía mình.
-
Quảng cáo bắt chước hiểu một cách đơn giản là làm theo cách của
người khác. Quảng cáo bắt chước là quảng cáo được thực hiện với nội dung, cách
thức giống hệt hoặc tương tự quảng cáo của người khác. Khi thấy lợi ích nhất định
của quảng cáo đem lại cho hàng hóa, dịch vụ đối với doanh nghiệp đó thì doanh
nghiệp khác có thể bắt chước về nội dung, hình thức, phương pháp quảng cáo với
mong muốn tạo ra hiệu quả như sản phẩm, dịch vụ trước đó được quảng cáo.
-
Quảng cáo gây nhầm lẫn chia ra làm hai loại quảng cáo gian dối và
quảng cáo gây nhầm lẫn:
+
Quảng cáo gian dối có thể hiểu là đưa ra thông tin sai những nội
dung sai lệch so với thực tế khách quan, từ đó lừa dối người tiêu dùng. Khi doanh
nghiệp muốn nhận được lợi nhuận cao nhất họ có thể đưa ra nhiều thông tin về sản
phẩm mà những thông tin đó có thể không có thật, không đúng về sản phẩm.
5
+
Quảng cáo gây nhầm lẫn không đưa ra thông tin sai nhưng nội dung
không đầy đủ không rõ ràng hoặc bỏ sót từ đó tạo ra sự hiểu lầm cho người tiêu
dùng. Khi doanh nghiệp muốn người tiêu dùng chú ý đến mặt hàng của mình thì họ
có thể đưa thông tin không đầy đủ, không cụ thể nhằm gây hiểu lầm nhất định về
mặt hàng và hiểu lầm đó có thể đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.
2. Quy định pháp luật về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
2.1. Quảng cáo so sánh
Quảng cáo so sánh là nội dung truyền thống của pháp luật cạnh tranh không
lành mạnh, quá trình phát triển và hoàn thiện các quy định về quảng cáo so sánh
phản ánh những đặc thù của quá trình phát triển pháp luật về cạnh tranh không
lành mạnh.
Theo ghi nhận tại Khoản 1 Điều 45 luật cạnh tranh 2004 thì cấm hành vi
quảng cáo so sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ. Hành vi quảng cáo so sánh trực tiếp
thể hiện qua những nội dung quảng cáo về một loạt hàng hóa, dịch vụ cạnh tranh
hoặc đối thủ cạnh tranh đã cung cấp hàng hóa, dịch vụ đó. Nội dung đó có thể là
lời nói, chữ viết, hình ảnh, âm thanh… khiến người tiếp nhận quảng cáo (khách
hàng, người tiêu dùng) nhận thức về hàng hóa, dịch vụ và đối thủ cạnh tranh.
Những trường hợp ám chỉ, suy diễn sẽ không được coi là thuộc phạm vi so sánh
trực tiếp (Điều 2c Chỉ thị 2006/114/EC).
Về bản chất hành vi quảng cáo so sánh nhằm cạnh tranh không lành mạnh
có thể được xem xét dưới góc độ lợi dụng uy tín hoặc công kích, gièm pha đối thủ
cạnh tranh. Quảng cáo so sánh gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh khi thu hút
khách hàng về phía mình thông qua hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Về nội dung, quảng cáo so sánh bao gồm nhiều nội dung nhưng chủ yếu so
sánh về giá và quảng cáo so sánh về đặc điểm của hàng hóa, dịch vụ như tính năng,
công dụng, chất lượng… đây là những nội dung mà khách hàng quan tâm khi lựa
chọn hàng hóa, dịch vụ.
Về hình thức, quảng cáo so sánh bao gồm so sánh tương đối và so sánh tuyệt
đối. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về quảng cáo so sánh tương đối và tuyệt đối
nhưng có thể thấy rõ nhất cấp độ so sánh của hai loại hình quảng cáo này hoàn
6
toàn khác nhau. Khi quảng cáo so sánh tuyệt đối đi kèm sự kiểm chứng, xác nhận
của một bên thứ ba độc lập, khách quan (hiệp hội ngành nghề, tổ chức tiêu dùng,
cơ quan truyền thông…) thì đây là cơ sở kiểm chứng thông tin và đồng thời là cơ
sở để xử lý vi phạm nếu có. Trường hợp ngoại lệ của quảng cáo so sánh theo pháp
luật Việt Nam ghi nhận trong Nghị định số 37/2006/NĐ - CP cho phép thương
nhân có thể thực hiện so sánh hàng hóa của mình với hàng giả, hàng vi phạm
quyền sở hữu trí tuệ trong sản phẩm quảng cáo thương mại sau khi có xác nhận của
cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về việc sử dụng hàng giả, hàng vi phạm
quyền sở hữu trí tuệ để so sánh.
Như vậy tính chất không lành mạnh của hành vi quảng cáo so sánh được
đánh giá theo hai hướng: Lợi dụng tên tuổi, uy tín, lợi thế cạnh tranh của người
khác hoặc công kích, hạ thấp uy tín đối thủ cạnh tranh. Khi thông tin quảng cáo
chính xác những lợi thế có thật của người này so với đối thủ cạnh tranh thì sẽ làm
giảm chi phí, thời gian và công sức tìm hiểu thông tin của người tiêu dùng, góp
phần minh bạch hóa thị trường. Mặt khác khi doanh nghiệp có những lợi thế cạnh
tranh chính đáng so với đối thủ, sẽ không hợp lý khi ngăn cản người đó công bố
chúng, nếu ngăn cản có thể gây ảnh hưởng tiêu cực với cạnh tranh. Trong mối
quan hệ đối lập về lợi ích giữa các doanh nghiệp tham gia thị trường, quảng cáo so
sánh luôn có nguy cơ lệch hướng trở thành cạnh tranh không lành mạnh, ảnh
hưởng tới người tiêu dùng, làm mất uy tín doanh nghiệp. Nên pháp luật cạnh tranh
không lành mạnh cần đặt hành vi này trong sự giám sát chặt chẽ chống lại việc lạm
dụng.
2.2. Quảng cáo bắt chước
Quảng cáo bắt chước được quy định tại khoản 2 Điều 45 luật cạnh tranh
2004: “Bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách
hàng”. Tính chất không lành mạnh của quảng cáo bắt chước thể hiện ở việc lợi
dụng thành quả đầu tư lợi thế cạnh tranh của người khác gây hậu quả tạo sự nhầm
lẫn không đáng có cho khách hàng (người tiêu dùng). Nhầm lẫn có thể chia ra
nhiều loại khác nhau như nhầm lẫn về nguồn gốc, nhầm lẫn về liên hệ…
7
Nhầm lẫn về nguồn gốc: Khi khách hàng tiếp nhận những quảng cáo giống
nhau gây nên sự ngộ nhận rằng hai loại hàng hóa, dịch vụ được quảng cáo thuộc
cùng một chủ sản xuất. Nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa chính là thương hiệu của
sản phẩm, điều tạo nên lòng tin cho người tiêu dùng, khi người tiêu dùng có nhầm
lẫn về nguồn gốc của hai loại hàng hóa dẫn tới nhu cầu tiêu dùng của họ bị tác
động và gây hậu quả nhất định đối với hàng hóa, dịch vụ bị nhầm lẫn.
Nhầm lẫn về liên hệ: Khi hai loại hàng hóa, dịch vụ được quảng cáo thuộc
cùng một nguồn gốc, người tiếp nhận quảng cáo vẫn có thể cho rằng giữa hai nhà
sản xuất có mối liên quan, liên hệ, cùng thuộc một tập đoàn, có quan hệ đối tác hay
ủy thác, nhượng quyền. Hành vi này tạo dựng niềm tin không có thật cho người
tiêu dùng nhằm thu hút lợi nhuận cho doanh nghiệp tiến hành hoạt động quảng cáo.
Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh còn xem xét quảng cáo bắt chước ở
trường hợp đặc biệt là bắt chước mù quáng: Tính không trung thực, tính không
thiện chí thể hiện ở chỗ người bắt chước không có sự nghiên cứu, đầu tư, sáng tạo,
mà chỉ biết sao chép một cách đơn giản thành quả của người khác, bất chấp thực tế
rằng có những phương thức cạnh tranh hiệu quả khác. Đây là hành vi lợi dụng đặc
biệt, sản phẩm sao chép không chỉ lặp lại các điểm cơ bản, quan trọng của sản
phẩm mẫu, mà còn sao chép cả chi tiết mỹ thuật… mà những chi tiết này hoàn toàn
có thể biến đổi, thay thế được. Có thể do hiệu quả mà quảng cáo trước đó đạt được
nên doanh nghiệp khác khi muốn quảng cáo hàng hóa, dịch vụ đã chấp nhận bắt
chước y hệt mẫu quảng cáo có sẵn, hành vi có thể gây nên tác dụng xấu cho doanh
nghiệp quảng cáo bắt chước khi gặp phải sự phản ứng từ phía người tiêu dùng và
doanh nghiệp quảng cáo trước đó.
2.3.Quảng cáo gây nhầm lẫn
Quảng cáo gây nhầm lẫn là loại hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không
lành mạnh phổ biến nhất và thường gặp trong thực tiễn cuộc sống nhất. Quy định
quảng cáo gây nhầm lẫn tại khoản 3 Điều 45 luật cạnh tranh 2004: “Đưa thông tin
gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về một trong các nội dung sau đây:
a) Giá, số lượng, chất lượng, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, ngày sản
xuất, thời hạn sử dụng, xuất xứ hàng hoá, người sản xuất, nơi sản xuất, người gia
8
công, nơi gia công; b) Cách thức sử dụng, phương thức phục vụ, thời hạn bảo
hành; c) Các thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn khác”.
Tính trung thực được đánh giá theo tác động đến đối tượng của hành vi
quảng cáo trực tiếp là khách hàng và người tiêu dùng. Nhưng bên cạnh đó không
thể phủ nhận những tác động của quảng cáo gây nhầm lẫn đến đối thủ cạnh tranh
khi khách hàng mua sản phẩm dựa trên những trên những thông tin sai lệch và chịu
thiệt hại nhất định về kinh tế thì đồng nghĩa với việc các đối thủ cạnh tranh mất
khách hàng này. Quảng cáo gây nhầm lẫn tạo nên hậu quả xấu làm thị trường trở
nên không minh bạch và phúc lợi nền kinh tế bị tổn hại.
Quảng cáo gây nhầm lẫn và quảng cáo gian dối là hai loại quảng cáo khác
nhau, có nhiều quan điểm về hai loại quảng cáo này nhưng theo quy định luật cạnh
tranh 2004 thì hai hành vi này được quy định trong cùng một điều luật với cách
thức và chế tài xử lý giống nhau. Điều 45 liệt kê nhiều nội dung quảng cáo có thể
gian dối hoặc gây nhầm lẫn và từ thực tiễn cho thấy các nội dung quảng cáo gây
nhầm lẫn hoặc quảng cáo gian dối thuộc các trường hợp sau: Gian dối gây nhầm
lẫn về sản phẩm hàng hóa, dịch vụ bao gồm giá cả, chất lượng, đặc điểm, khả năng
và tình trạng cung ứng; gian dối gây nhầm lẫn về uy tín, năng lực kinh doanh của
doanh nghiệp; gây nhầm lẫn, gian dối về bản chất của giao dịch.
Các hình thức quảng cáo gây nhầm lẫn và quảng cáo gian dối tồn tại trong
mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Thực tiễn pháp lý ở nhiều nước cho thấy mỗi ngành
kinh tế phải có những chế định chống quảng cáo gian dối và quảng cáo gây nhầm
lẫn đặc thù. Trong ngành hàng không quảng cáo gây nhầm lẫn và quảng cáo gian
dối thường liên quan giá vé máy bay, trong ngành kinh doanh bất động sản quảng
cáo gây nhầm lẫn và quảng cáo gian dối thường liên quan đến diện tích bất động
sản được bán, dịch vụ kèm theo… Trong ngành bảo hiểm quảng cáo gây nhầm lẫn
và quảng cáo gian dối thường liên quan các ưu đãi dịch vụ bảo hiểm, cam kết trả
bảo hiểm…
Bên cạnh tính chất cạnh tranh không lành mạnh thì hành vi này còn xem xét
dưới góc độ pháp luật dân sự và pháp luật hình sự:
9
Xét dưới góc độ dân sự: Việc cung cấp thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn
trong quảng cáo không chỉ vi phạm nguyên tắc trung thực mà còn vi phạm nguyên
tắc tự nguyện vì khách hàng, người tiêu dùng đã thể hiện ý chí mua hàng đối với
sản phẩm mà người đó nhận biết khi xem quảng cáo thay vì sản phẩm thực tế. Giao
dịch xác lập từ sự nhầm lẫn do quảng cáo gây ra khi đó không phản ánh ý chí đích
thực của người mua sản phẩm, vi phạm tự do ý chí dẫn tới hợp đồng vô hiệu.
Xét góc độ hình sự: Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009 quy định về
tội quảng cáo gian dối tại Điều 168: “1. Người nào quảng cáo gian dối về hàng
hoá, dịch vụ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi
này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị
phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến
ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Người phạm tội còn có thể bị
phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định từ một năm đến năm năm”. Đây là cơ sở pháp lý cho những
trường hợp hành vi vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng đến người tiêu dùng và đời
sống xã hội nói chung.
3. Thực tiễn thực hiện quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
3.1. Thực tiễn hoạt động quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Cạnh tranh là một trong những quy luật kinh tế cơ bản của nền kinh tế thị
trường. Đảm bảo cạnh tranh tự do và công bằng là giải pháp quan trọng nhằm đảm
bảo môi trường đầu tư kinh doanh lành mạnh, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế
chung của đất nước.
Để chống lại đối thủ cạnh tranh, duy trì sự tồn tại, mở rộng thị trường, thu
nhiều lợi nhuận, không phải lúc nào doanh nghiệp cũng sử dụng phương pháp cạnh
tranh công bằng, lành mạnh. Thay vào đó, nhiều trường hợp, doanh nghiệp sẵn
sàng sử dụng cả các thủ đoạn cạnh tranh bị coi là “không lành mạnh”. Thực tiễn
cho thấy nhiều trường hợp các doanh nghiệp thực hiện hành vi quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh. Theo số liệu báo cáo của cơ quan quản lý ở các tỉnh,
thành phố, chỉ tính riêng giai đoạn 2002 - 2006, thanh tra ngành văn hóa đã xử lý
9.947 trường hợp vi phạm, phạt tiền hơn 11 tỷ đồng, buộc tháo dỡ hàng nghìn sản
10
phẩm quảng cáo trên bảng hiệu và các phương tiện quảng cáo khác. Riêng
Tp.HCM đã xử lý hơn 6.000 trường hợp vi phạm, phạt hơn 7,5 tỷ đồng. Đây là vi
phạm trong lĩnh vực quảng cáo nói chung và chưa có số liệu cụ thể về những vi
phạm trong quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Dưới đây là những vụ án có hành vi vi phạm về quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh:
+
Tháng 07/2003, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã công
bố Quyết định số 20/2003/HĐTP - DS ngày 23/06/2003 về vụ án hai Công ty Vạn
Thành và Ưu Việt kiện công ty Kymdan yêu cầu công ty Kymdan chấm dứt hành
vi quảng cáo và xin lỗi công khai. Vụ kiện nảy sinh khi tháng 7/2001, Kymdan
đăng quảng cáo với nội dung: “Đối với nệm lò xo, do tính chất không ưu việt của
nguyên liệu sản xuất nên chất lượng nệm sẽ giảm dần theo thời gian. Nếu độ đàn
hồi của lò xo cao, lò xo dễ bị gãy, gây nguy hiểm cho người sử dụng. Đối với nệm
nhựa tổng hợp poly-urethane (nệm mút xốp nhẹ) tính dẻo ưu việt nên không có độ
đàn hồi, mau bị xẹp. Chính vì những lý do đó mà Kymdan hoàn toàn không sản
xuất nệm lò xo cũng như nệm nhựa poly-urethane. Tất cả các sản phẩm của
Kymdan đều được làm từ 100% cao su thiên nhiên, có độ bền cao và không xẹp
lún theo thời gian...”. Ngay sau khi mẫu quảng cáo trên phát hành, 2 công ty sản
xuất nệm lò xo và nệm mút đã khởi kiện Kymdan ra toà với lý do quảng cáo của
Kymdan không có căn cứ, gây thiệt hại đến uy tín sản phẩm của họ. Có thể thấy,
trong vụ án này, sản phẩm quảng cáo của công ty Kymdan chỉ đưa ra thông tin so
sánh giữa sản phẩm đệm mút và sản phẩm đệm lò xo. Qua thông tin đó, khách
hàng đã nhận dạng và khoanh vùng loại sản phẩm và nhóm doanh nghiệp có sản
phẩm bị so sánh, các loại đệm này là cùng loại vì cùng đáp ứng cho một nhu cầu
của người tiêu dùng.
+
Hành vi bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho
khách hàng. Việc nhãn hiệu gây nhầm lẫn của công ty cà phê Trung Nguyên: Công
ty cà phê Trung Nguyên với thương hiệu G7 nổi tiếng cũng bị quy vào một trong
những doanh nghiệp có hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Công ty Trung Nguyên đã sử dụng nhãn hiệu ba chiều hình cốc đỏ của Nestles để
11
so sánh trực tiếp sản phẩm G7 của họ với sản phẩm Nescafe của Nestles. Đó thực
chất là việc so sánh trực tiếp sản phẩm nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
+
Tháng 8-12/2008 Cục Quản lý cạnh tranh khởi xướng điều tra đối với
hoạt động bán hàng đa cấp của Công ty Việt Am phát hiện hành vi quảng cáo sai
lệch về doanh nghiệp, sản phẩm bán hàng đa cấp và buộc người tham gia mua sản
phẩm để tham gia bán hàng đa cấp. Cục đã tiến hành theo thủ tục tố tụng cạnh
tranh và quyết định phạt 240 triệu đồng (Quyết định số 115/QĐ-QLCT ngày
22/12/2008).
+
Tháng 10-12/2008 Cục Quản lý cạnh tranh tự khởi xưởng điều tra Vụ
việc Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Vĩnh Nhật Quang với nội dung quảng
cáo sai lệch phát hiện hành vi: Quảng cáo sai lệch về tính năng, công dụng sản
phẩm và đưa ra quyết định phạt 40 triệu (Quyết định số 126/QĐ-QLCT ngày
31/12/2008).
3.2. Bất cập và phương hướng hoàn thiện
Luật Quảng cáo 2012 ra đời với 5 chương, 43 điều, với mục tiêu điều chỉnh
toàn diện hoạt động về quảng cáo trên lãnh thổ Việt Nam, xác định những vấn đề
cơ bản về nội dung, hình thức quảng cáo. Sau khi ban hành Luật quảng cáo cùng
với luật cạnh tranh 2004 đã thống nhất tạo nên cơ sở pháp lý vững chắc kiểm soát
quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Tuy nhiên hiện nay việc xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói
chung và xử lý vi phạm về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh nói riêng
còn hết sức khiêm tốn. Điều này có nguyên nhân từ sự thiếu kinh nghiệm trong
công tác đấu tranh chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Trong thời gian qua, để triển khai Luật Cạnh tranh cũng như các quy định xử
lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản
quan trọng như: Nghị định 116/2005/NĐ - CP ngày 15/9/2005 quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Cạnh tranh; Nghị định số 120/2005/NĐ - CP ngày
12
30/9/2005 quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh; Nghị
định 05/2006/NĐ - CP ngày 09/01/2006 về việc thành lập và quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh; Nghị định số
06/2006/NĐ - CP ngày 09/01/2006 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh. Nhưng để triển khai có hiệu quả các
quy định về cạnh tranh không lành mạnh, vẫn còn nhiều vấn đề về mặt pháp lý cần
phải được hoàn thiện như:
Thứ nhất, cần xác định lại bản chất “thương mại” của hoạt động quảng cáo,
pháp luật thương mại, pháp luật quảng cáo không nên điều chỉnh luôn cả hoạt động
quảng cáo phi thương mại như hiện nay. Điều này sẽ giúp cho hoạt động quảng cáo
nói chung và quảng cáo so sánh nói riêng được thông suốt, thuận lợi hơn về mặt
quản lý nhà nước. Nên điều chỉnh hoạt động quảng cáo so sánh tập trung trong một
hoặc hai văn bản nhất định như Luật Cạnh tranh và một văn bản hướng dẫn thi
hành Luật này có liên quan đến quảng cáo so sánh. Các văn bản luật khác như:
Luật Thương mại, Luật Quảng cáo chỉ nên quy định cấm các hành vi quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của pháp luật cạnh tranh. Điều
này sẽ giúp cho các quy định liên quan đến quảng cáo so sánh được thống nhất và
nâng cao vai trò và tầm quan trọng thích đáng của pháp luật cạnh tranh trong xử lí
các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh.
Thứ hai, định hướng xây dựng những nội dung cụ thể của vấn đề quảng cáo
so sánh. Trong định nghĩa quảng cáo so sánh tại Chỉ thị 84/450/EEC có đề cập đến
“sự làm nhận ra một cách trực tiếp” và “sự làm nhận ra một cách gián tiếp”
nhưng lại không giải thích thêm như thế nào là “sự làm nhận ra một cách trực
tiếp, gián tiếp”. Việc nêu ra “sự làm nhận ra một cách trực tiếp, gián tiếp” trong
định nghĩa có mục đích thông tin về các cách thức thực hiện một quảng cáo so
sánh và điều này không ảnh hưởng gì đến khả năng áp dụng của các quy định pháp
luật trên. Có thể đưa ra một định nghĩa như sau: “Quảng cáo so sánh là quảng cáo
làm nhận ra một hoặc một vài đối thủ cạnh tranh hoặc các sản phẩm hay các dịch
vụ cùng loại mà đối thủ cạnh tranh sản xuất, cung ứng hay phân phối và đáp ứng
được một số điều kiện khác do pháp luật quy định”.
13
Về chủ thể thực hiện được phép tiến hành hoạt động quảng cáo. Nên
quy định rõ ràng và cụ thể những đối tượng nào được phép thực hiện hoạt động
quảng cáo. Pháp luật cạnh tranh Việt Nam nên quy định cụ thể hơn các chủ thể:
Nhà sản xuất, nhà cung ứng dịch vụ và nhà phân phối hàng hóa, dịch vụ đều được
tham gia hoạt động này để: Tránh gây phân biệt đối xử giữa các thành phần thương
nhân; không gây ra một lỗ hổng khi không điều chỉnh những quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh được thực hiện bởi một trong các chủ thể nêu trên.
Về mức phạt của hành vi vi phạm pháp luật khi thực hiện quảng cáo
so sánh nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Điều 35 Nghị định số 120/2005/NĐ CP của Chính phủ ngày 30/09/2005 về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh
tranh phải được sửa đổi lại mức phạt cao hơn để góp phần răn đe các doanh nghiệp
và phù hợp với thực trạng quảng cáo tại Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại. Vấn đề bồi thường thiệt
hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra không được quy định cụ thể mà
Luật lại dẫn chiếu đến pháp luật dân sự (Điều 117 Luật Cạnh tranh). Như vậy, vấn
đề khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
sẽ được áp dụng theo các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của Bộ
luật dân sự năm 2005. Cần xác định rõ chủ thể có quyền khởi kiện yêu cầu bồi
thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra và theo quy định tại
Điều 9 Bộ luật dân sự năm 2005. Đồng thời cần xác định rõ những loại chế tài nào
sẽ được áp dụng cho các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Thứ tư, hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh không lành mạnh. Khoản 1 Điều 115 Luật Cạnh tranh quy định: “Trường
hợp không nhất trí với quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh, các bên có liên quan có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với một
phần hoặc toàn bộ nội dung của quyết định giải quyết khiếu nại ra Tòa án nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền”. Việc giải quyết đơn
kiện tại Toà Hành chính đối với Quyết định giải quyết khiếu nại quyết định xử lý
vụ việc cạnh tranh, trong đó có hành vi cạnh tranh không lành mạnh được thực
hiện theo pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Vấn đề đặt ra là Toà
14
Hành chính sẽ xem xét lại toàn bộ vụ việc từ đầu, xem xét lại cả nội dung và thủ
tục cạnh tranh đã được áp dụng bởi các cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh hay
chỉ xem xét về mặt hình thức. Giá trị pháp lý của Quyết định giải quyết khiếu nại
của Toà án như thế nào. Điều này cần có văn bản hướng dẫn cụ thể của Toà án
nhân dân tối cao, đặc biệt là cơ chế phối hợp giữa Cơ quan quản lý cạnh tranh với
Toà án trong việc xem xét, giải quyết đơn khởi kiện.
Thứ năm, về sự phối hợp giữa cơ quan quản lý cạnh tranh với Tòa án trong
việc xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Thực tế ở Việt Nam, Tòa án
chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Chính vì thế, việc phối kết hợp giữa Tòa án với Cơ quan quản lý cạnh tranh không
lành mạnh trong quá trình xử lý các vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra là rất cần thiết.
Thứ sáu, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực pháp luật chống cạnh tranh không
lành mạnh. Đấu tranh với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh là nhiệm vụ khá
mới mẻ đối với Việt Nam nhưng lại là lĩnh vực mà nhiều quốc gia trên thế giới rất
có kinh nghiệm. Trong bối cảnh ấy, việc tham khảo, học tập kinh nghiệm nước
ngoài trong việc xử lý các vấn đề về cạnh tranh trong đó có cạnh tranh không lành
mạnh là rất cần thiết. Trong thời gian tới Bộ Thương mại cần có các chương trình
hợp tác nghiên cứu, học tập trao đổi kinh nghiệm với các nước có kinh nghiệm lâu
năm trong lĩnh vực pháp luật cạnh tranh nói chung và trong việc đấu tranh chống
hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói riêng để tạo điều kiện thuận lợi cho Cơ
quan quản lý cạnh tranh của Việt Nam và các cán bộ của cơ quan ấy có thêm kiến
thức, năng lực và trình độ để xử lý các vấn đề mà thực tiễn Việt Nam đặt ra.
KẾT LUẬN
Như vậy, từ việc tìm hiểu những vấn đề chung về quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh, những quy định pháp luật về quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh, và thực tiễn thực hiện quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh ở trên đã cho chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về thực trạng pháp luật cạnh
tranh Việt Nam về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh hiện nay. Bên
15
cạnh những quy định thắt chặt của các nhà làm Luật cũng còn nhiều vấn đề bất cập
còn tồn tại. Chúng ta hi vọng các nhà làm Luật có những trù liệu toàn diện hơn
trong việc ban hành các văn bản pháp lý nhằm hạn chế những kẽ hở của pháp luật
về lĩnh vực cạnh tranh không lành mạnh nói chung cũng như trong lĩnh vực quảng
cáo nhằm mục đích cạnh tranh không lành mạnh nói riêng để có thể đáp ứng được
nhu cầu phát triển của đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Tập bài giảng cạnh tranh, Hà Nội, 2011.
2.
Luật Cạnh tranh năm 2004.
3.
Luật quảng cáo 2012.
4.
Nghi định 116/NĐ_CP/2005 quy định chi tiết thi hành một số điều
luật cạnh tranh ngày 15 tháng 9 năm 2005.
5.
Pháp lệnh 39/2001/PL-UBTVQH10.
6.
TS. Phạm Văn Lợi Ths. Nguyễn Văn Cương, Nghiên cứu trao đổi
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hành vi cạnh tranh khụng lành mạnh, Tạp chí
Tạp chí số 2/2006, Phát hành năm 2006.
16
7.
Một số vụ việc cạnh tranh không lành mạnh do cục quản lý cạnh tranh
xử lý. Cổng thông tin điện tử Cục quản lý cạnh tranh_Bộ Công thương.
8.
Phan Huy Hồng, Quảng cáo so sánh trong pháp luật cạnh tranh – một
nghiên cứu so sánh luật, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện Khoa học xã hội
Việt Nam, số 01/2007.
9.
Trương Hồng Quang, Một số vần đề về hành vi quảng cáo so sánh
theo pháp luật Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số tháng
08/2010.
17
- Xem thêm -