Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Thực trạng pháp luật cạnh tranh việt nam về lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí đ...

Tài liệu Thực trạng pháp luật cạnh tranh việt nam về lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền

.DOC
22
272
71

Mô tả:

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................2 NỘI DUNG...............................................................................................................2 I. Khái quát về hành vi lạm dụng vụ trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền......2 1. Khái niệm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền...........2 2. Đặc điểm của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền......3 3. Phân loại hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền.............3 II. Quy định về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền theo luật cạnh tranh Việt Nam..........................................................................................4 1. Xác định vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền của doanh nghiệp.............4 2. Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.................................................4 3. Hành vi lạm dụng vị trí độc quyền........................................................................7 4. Hậu quả pháp lý của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền.........................................................................................................................8 5. Các biện pháp kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí độc quyền...............................9 III. Thực trạng pháp luật cạnh tranh Việt Nam về lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền.................................................................................................................10 1. Tác động của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền đến cạnh tranh nói chung và nền kinh tế nói riêng.........................................................10 2. Thực trạng pháp luật cạnh tranh Việt Nam về lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền.................................................................................................................12 3. Phương hướng hoàn thiện pháp luật cạnh tranh Việt Nam về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền.....................................................................19 KẾT LUẬN.............................................................................................................21 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................22 LỜI MỞ ĐẦU Mỗi doanh nghiệp khi tham gia kinh doanh đều mong muốn phát triển hơn nữa thế lực của mình, nhất là những doanh nghiệp có thị phần lớn. Việc các doanh nghiệp phát triển lành mạnh là điều tất cả các nước đều khuyến khích. Nhưng không thể đảm bảo một doanh nghiệp tham gia thị trường lành mạnh lúc nào cũng tuân thủ pháp luật. Do đó cần xây dựng một thị trường kinh doanh lành mạnh, công bằng, bình đẳng; Pháp luật cạnh tranh cần đặc biệt chú ý tới cơ chế phát triển hoạt động của các thương nhân khi tham gia thị trường. Pháp luật cạnh tranh Việt Nam đã có những quy định về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền của doanh nghiệp, vậy thực trạng của quy định này trong thực tiễn ra sao? NỘI DUNG I. Khái quát về hành vi lạm dụng vụ trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền. 1. Khái niệm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền. Bộ quy tắc về cạnh tranh của Liên hợp quốc thông qua ngày 22/04/1980, thì “Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh và vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh là hành vi hạn chế cạnh tranh mà doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền sử dụng để duy trì hay tăng cường vị trí của nó trên thị trường bằng cách hạn chế khả năng gia nhập thị trường hoặc hạn chế quá mức cạnh tranh”1. Luật cạnh tranh 2004 không đưa ra khái niệm về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền, mà chỉ đưa ra khái niệm chung về hành vi hạn chế cạnh tranh. Hành vi hạn chế cạnh tranh là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường, bao gồm hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế (Khoản 3 Điều 3 Luật cạnh tranh 2004). Luật cạnh tranh 2004 chỉ 1 Xem: Mục B đoạn 1 Bộ quy tắc về cạnh tranh của Liên hợp quốc. 2 liệt kê những hành vi được coi là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền. 2. Đặc điểm của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền. Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi là doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường hoặc có vị trí độc quyền trên thị trường liên quan. Thứ hai, doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường hoặc doanh nghiệp có vị trí độc quyền đã thực hiện những hành vi mà pháp luật quy định là hạn chế cạnh tranh trên thị trường liên quan. Thứ ba, hậu quả của hành vi lạm dụng là làm sai lệch, cản trở hoặc giảm cạnh tranh giữa các đối thủ cạnh tranh trên thị trường liên quan. 3. Phân loại hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền. Dựa trên đối tượng bị xâm hại, hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền được phân chia thành hai nhóm: - Nhóm hành vi lạm dụng mang tính bóc lột: là những hành vi doanh nghiệp sử dụng vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền đó như một lợi thế trong các quan hệ với khách hàng nhằm thu lợi nhuận độc quyền. - Hành vi lạm dụng mang tính độc quyền: là những nỗ lực của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền trên thị trường liên quan kìm hãm cạnh tranh bằng những thủ đoạn loại bỏ hoặc ngăn cản đối thủ tham gia thị trường nhằm duy trì, củng cố quyền lực thị trường. Nếu dựa trên mục đích và tính chất của hành vi thì hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền được phân loại thành : hành vi làm tăng chi phí của đối thủ để chiếm lĩnh thị trường; Thâu tóm khách hàng để ngăn cản hoặc loại bỏ đối thủ; Hành vi định giá huỷ diệt; Hành vi chi phối giá thị trường; Hành vi chi phối các yếu tố khác của thị trường; Hành vi phân biệt giá; Hành vi hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. 3 II. Quy định về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền theo luật cạnh tranh Việt Nam. 1. Xác định vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền của doanh nghiệp. a) Xác định vị trí thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp. Theo Điều 11 Luật cạnh tranh 2004, doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị truờng khi thuộc một trong những trường hợp sau: Trường hợp thứ nhất, một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan. Trường hợp thứ hai, doanh nghiệp có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể. Nghị định 116/2005/NĐ-CP đã quy định cụ thể căn cíư xác định khả năng gây hạn chế một cách đáng kể của doanh nghiệp. Trường hợp thứ ba, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường. Theo khoản 2 Điều 11 Luật cạnh tranh 2004, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường khi thoả mãn hai điều kiện sau: - Các doanh nghiệp đã hoặc đang thực hiện cung một hành vi hạn chế cạnh tranh; - Tổng thị phần của nhóm doanh nghiệp đạt các mức sau: Hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị trường liên quan; Ba doanh nghiệp có tổng thị phần từ 65% trở lên trên thị trường liên quan; Bốn doanh nghiệp có tổng thị phần từ 75% trở lên trên thị trường liên quan. b) Xác định vị trí độc quyền của doanh nghiệp. Điều 12 Luật cạnh tranh 2004 quy định “ Doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu không có doanh nghiệp nào cạnh tranh về hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị trường liên quan”. Độc quyền là thuật ngữ để chỉ doanh nghiệp nào đó duy nhất tồn tại trên thị trường mà không có đối thủ cạnh tranh. Doanh nghiệp độc quyền có thể độc quyền nguồn cung (độc quyền bán) hoặc độc quyền cầu (độc quyền mua) trên thị trường. 2. Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường. 4 a) Bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh. Bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh là việc bán hàng, cung ứng dịch vụ thấp hơn tổng các chi phí: Chi phí cấu thành giá thành sản xuất hàng hoá, dịch vụ; Chi phí lưu thông hàng hoá, dịch vụ (Khoản 1 Điều 23 Nghị định 116/2005/NĐ-CP). Tại Khoản 2 Điều 23 của Nghị định này cũng loại trừ một số trường hợp bán hàng hoá dưới giá thành toàn bộ nhưng không bị coi là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, như hành vi hạ giá bán hàng hoá tươi sống; hạ giá bán hàng tồn kho do chất lượng giảm, lạc hậu về hình thức, không phù hợp với người tiêu dùng; Hạ giá bán hàng hoá theo mùa vụ; Hạ giá bán hàng hoá trong chương trình khuyến mại theo quy định của pháp luật; Các biện pháp thực hiện chính sách bình ổn giá của nhà nước theo quy định hiện hành của pháp luật giá; Hạ giá bán hàng hoá trong trường hợp phá sản, giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất kinh doanh, thay đổi địa điểm, chuyển hướng sản xuất, kinh doanh. b) Áp đặt giá mua hàng hoá, dịch vụ bất hợp lý gây thiệt hại cho khách hàng. Hành vi áp đặt giá mua hàng hoá bất hợp lý gây thiệt hạo cho khách hàng là việc doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường khi mua hàng hoá, dịch vụ đã áp đặt giá mua tại cùng thị trường liên quan thấp hơn giá thành sản xuất hàng hoá, dịch vụ trong điều kiện chất lượng hàng hoá, dịch vụ đặt mua không kém hơn chất lượng hàng hoá, dịch vụ đã mua trước đó và không có khủng hoảng kinh tế, thiên tai, địch hoạ. c) Hành vi áp đặt giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý gây thiệt hại cho khách hàng. Trong thời hạn tối thiểu sáu mươi ngày liên tiếp, giá bán lẻ trung bình của hàng hoá, dịch vụ trên cùng thị trường liên quan đã tăng vượt quá 5% so với giá bán trước thời gian tối thiểu đó, sự tăng giá này là không hợp lý. Và gây thiệt hại 5 cho khách hàng, thiệt hại mà khách hàng phải gánh chịu là mức giá bị tăng lên không căn cứ hợp lý. d) Hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng. Hành vi ấn định giá bán lại phản ánh mối quan hệ giữa doanh nghiệp thuộc ngành trên với các doanh nghiệp thuộc ngành dưới, theo đó doanh nghiệp thuộc ngành trên áp đặt một mức giá bán lại đối với sản phẩm buộc doanh nghiệp thuộc ngành dưới phải tuân thủ khi phân phối, tiêu thụ sản phẩm đó. Việc định giá bán lại của doanh nghiệp chỉ bị coi là bị vi phạm khi thoả mãn những điều kiện về cách thức ấn định giá và hậu quả của hành vi đối với khách hàng. Giá bán lại được ấn định ở mức tối thiểu, và hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng, và hành vi định giá này phải mang tính áp đặt. e) Hành vi hạn chế khả năng kinh doanh, khả năng phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng. Đây là nhóm hành vi theo đó doanh nghiệp thực hiện hành vi đã tự hạn chế khả năng kinh doanh của mình so với nhu cầu của thị trường hoặc hạn chế khả năng phát triển về khoa học kỹ thuật của thị trường. Tuỳ theo từng đối tượng tác động khác nhau mà nhóm hành vi này có những biểu hiện khác nhau như: Hành vi hạn chế sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ gây thiệt hại cho khách hàng; Hành vi giới hạn thị trường gây thiệt hại cho khách hàng. f) Hành vi áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong các giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh. Theo Nghị định 116/2005/NĐ-CP, hành vi áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong các giao dịch như nhau nhằm tạo sự bất bình đẳng trong kinh doanh được mô tả là hành vi của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh phân biệt đối xử với các doanh nghiệp mua, bán; giá cả; thời hạn thanh toán … trong những giao dịch tương tự về giá trị hoặc tính chất hàng hóa, dịch vụ để đặt một hoặc một số doanh nghiệp vào vị trí cạnh tranh có lợi hơn so với doanh nghiệp khác. g) Hành vi áp đặt điều kiện thương mại bất lợi cho khách hàng. 6 Luật cạnh tranh 2004, chia hành vi áp đặt điều kiện bất lợi cho khách hàng thành hai nhóm vi phạm, đó là nhóm hành vi áp đặt các điều kiện ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ: là việc áp đặt những điều kiện tiên quyết mà khách hàng phải chấp nhận trước khi ký kết hợp đồng, các điều kiện được đặt ra có nội dung hạn chế cạnh tranh. Và nhóm hành vi buộc các doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng, hành vi này được hiểu là việc doanh nghiệp có vị trí thống lính thị trường gắn việc mua bán hàng hoá, dịch vụ là đối tượng của hợp đồng đối với việc phải mua hàng hoá, dịch vụ khác từ nhà cung cấp hoặc người được chỉ định trước hoặc thực hiện thêm một hoặc một số nghĩa vụ nằm ngoài phạm vi cần thiết để thực hiện thêm một hoặc một số nghĩa vụ nằm ngoài phạm vi cần thiết đẻ thực hiện hợp đồng. h) Hành vi ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới. Hành vi này có những đặc điểm cơ bản sau: - Đối tượng hướng đến của hành vi là các đối thủ cạnh tranh mới; - Hành vi được thực hiện nhằm mục đích ngăn cản các đối thủ cạnh tranh tiềm năng gia nhập thị trường; - Việc ngăn cản được thực hiện bằng thủ đoạn tạo ra các rào cản cho sự gia nhập thị trường của đối thủ. 3. Hành vi lạm dụng vị trí độc quyền. a) Áp đặt điều kiện bất lợi cho khách hàng. Điều 32 Nghị định 116/2005/NĐ-CP quy định áp đặt điều kiện bất lợi cho khách hàng của doanh nghiệp có vị trí độc quyền là hành vi buộc khách hàng phải chấp nhận vô điều kiện những nghĩa vụ gây khó khăn cho khách hàng trong quá trình thực hiện hợp đồng. Hành vi phải được thực hiện trong các giao dịch giữa doanh nghiệp độc quyền với khách hàng. Nội dung của hành vi là áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng. Hành vi là sự áp đặt của doanh nghiệp độc quyền đối với khách hàng. 7 b) Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng. Hành vi này phải là hành vi đơn phương của doanh nghiệp độc quyền về việc thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng đã ký kết. Luật cạnh tranh không quy định việc đơn phương thay đổi hợp đồng là thay đổi nội dung hay chủ thể của hợp đồng đó, nên khi có bất kỳ sự thay đổi nào trong hai trường hợp nói trên do ý trí của doanh nghiệp độc quyền đều có thể kết luận là vi phạm. Trong pháp luật về hợp đồng vấn đề thay đổi chủ thể rất ít khi xảy ra. Huỷ bỏ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa vụ hoặc một phần nghĩa vụ hợp đồng. Trường hợp bãi bỏ một phần hợp đồng thì phần còn lại của hợp đồng vẫn còn hiệu lực.2 Việc thay đổi, huỷ bỏ hợp đồng của doanh nghiệp độc quyền là không có lý do chính đáng. Nghị định 116/2005/NĐ-CP xác định những trường hợp thay đổi, huỷ bỏ hợp đồng không có lý do chính đáng: “1. Đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng đã giao kết mà không cần thông báo trước cho khách hàng và không phải chịu biện pháp chế tài nào. 2. Đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng đã giao kết căn cứ vào một hoặc một số lý do không liên quan trực tiếp đến các điều kiện cần thiết để tiếp tục thực hiện đầy đủ hợp đồng và không phải chịu biện pháp chế tài nào” (Điều 33 Nghị định 116/2005/NĐ-CP). Ngoài hai hành vi trên, lạm dụng vị trí độc quyền còn bao gồm cả 6 hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường nhưng do doanh nghiệp độc quyền thực hiện. 4. Hậu quả pháp lý của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền. Luật cạnh tranh sử dụng phương pháp cấm tuyệt đối để xử lý hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh. Theo đó các hành vi lạm dụng bị cấm tuyệt đối trong mọi trường hợp và không áp dụng biện pháp miễn 2 Xem: Khoản 2, Khoản 3 Điều 312 Luật Thương mại 2005. 8 trừ. Luật cạnh tranh áp dụng biện pháp xử phạt hành chính đối với các doanh nghiệp thực hiện hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền. Trong đó biện pháp chính là phạt tiền với hai mức phạt tiền đến 5% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi của doanh nghiệp thống lĩnh thị trường hoặc từng doanh nghiệp trong nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường; phạt tiền từ 5% đến 10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi trong các trường hợp có tình tiết tăng nặng như doanh nghiệp thực hiện hành vi trong nhóm doanh nghiệp thống lĩnh có thị phần lớn nhất hoặc là doanh nghiệp có vai trò tổ chức, lôi kéo doanh nghiệp khác trong nhóm doanh nghiệp thực hiện hành vi. Đối với hành vi lạm dụng vị trí độc quyền của doanh nghiệp có vị trí độc quyền của doanh nghiệp có vị trí độc quyền sẽ bị phạt tiền đến 10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm. Bên cạnh hình thức phạt tiền, doanh nghiệp thực hiện hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền có thể bị áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung hoặc các biện pháp khắc phục hậu quả. 5. Các biện pháp kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí độc quyền. Để kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí độc quyền có hiệu quả, bên cạnh việc quy định cụ thể các hanh vi được coi là lạm dụng vị trí độc quyền, pháp luật cạnh tranh còn quy định rõ các biện pháp kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí độc quyền. hiện nay, hầu hết các quốc gia đều nhận thức được rằng không thể xoá bỏ độc quyền bằng sức mạnh nhà nước hay bất cứ hình thức nào khác. Nhà nước chỉ có thể áp dụng những biện pháp nhằm hạn chế và kiểm soát nó. Các biện pháp quản lý và kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền thường gặp như: - Các biện pháp hành chính – kinh tế: Thông qua biện pháp này nhà nước kiểm soát quá trình thành lập, sáp nhập, chia tách các doanh nghiệp thông qua chính sách phát triển ngành, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh trong thời gian dài; quá trình thành lập và tổ chức, hoạt động của các doanh nghiệp. 9 Kiểm soát hoạt động và xu thế tăng trưởng của các doanh nghiệp thông qua chính sách thuế. Ngoài những biện pháp can thiệp gián tiếp, bằng quyền lực của mình, Nhà nước còn can thiệp một cách trực tiếp nhằm ngăn cản sự lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền trên thị trường của các doanh nghiệp. Nhà nước cũng có những quy định về yêu cầu bảo vệ môi trường, an toàn lao động, chính sách phát triển nguồn nhân lực, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,… Nhà nước kiểm soát giá cả hàng hoá, dịch vụ độc quyền, các doanh nghiệp phải công khai hoá phương pháp xác định giá cả hàng hoá, dịch vụ của mình để Nhà nước phê duyệt, có nhiều loai hàng hoá, dịch vụ Nhà nước còn trực tiếp ấn định ‘‘mức giá trần’’, hay giá cả của một số loại hàng hoá, dịch vụ vào một thời điểm nhất định. Ví dụ như xăng dầu. Quốc hữu hoá các doanh nghiệp độc quyền, áp đặt sở hữu Nhà nước đối với các doanh nghiệp độc quyền ở một số lĩnh vực trong nền kinh tế, đặc biệt ở lĩnh vực liên quan đến quốc kế dân sinh và lợi ích của đại bộ phận dân chúng. - Biện pháp ban hành pháp luật chống cạnh tranh và kiểm soát thống lĩnh và độc quyền. Thông qua pháp luật, Nhà nước ta xác định đâu là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền và các chế tài áp dụng nếu doanh nghiệp vi phạm. Việc ban hành và cho thi hành pháp luật điều chỉnh hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền là công cụ có hiệu quả hơn cả vì nó là phương thức để đưa các công cụ điều tiết cạnh tranh khác vào nền kinh tế thị trường. III. Thực trạng pháp luật cạnh tranh Việt Nam về lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền. 1. Tác động của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền đến cạnh tranh nói chung và nền kinh tế nói riêng. a) Mặt tích cực. 10 Thống lĩnh thị trường, và độc quyền góp phần đẩy nhanh quá trình tích tụ, tập trung nguồn lực để phát triển, nhất là các ngành kinh tế mũi nhọn. Sau khi đã xác lập được vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền, các công ty thống lĩnh thị trường, công ty độc quyền nhanh chóng thành những tập đoàn hùng mạnh. Sự tích tụ và tập trung nguồn lực vào tay một hoặc một nhóm doanh nghiệp tạo điều kiện đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, mở rộng quy mô, tăng năng suất lao động, tạo ra những bước ngoặt mang tính đột phá cho bản thân doanh nghiệp và cho ngành sản xuất đó3. Sự mở rộng về quy mô sản xuất, đến lượt nó sẽ tạo động lực kích thích trở lại các doanh nghiệp, trên thực tế ai cũng biết rằng lợi nhuận của một doanh nghiệp sẽ tăng lên theo quy mô sản xuất kinh doanh. b) Mặt tiêu cực. Vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền đi ngược lại trật tự cạnh tranh không lành mạnh, kìm hãm độc lực phát triển của nền kinh tế. Khi đã có vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền, các doanh nghiệp luôn tìm cách duy trì vị trí thống lĩnh của mình bằng cách tiêu diệt các đối thủ tiềm năng, hạn chế sự xuất hiện trên thị trường của các đối thủ này. Bằng thủ đoạn bóp chết đối thủ cạnh tranh trên thương trường, mà một khi không còn cạnh tranh thì sẽ không còn áp lực để doanh nghiệp phát triển. Nó tạo ra nguy cơ khủng hoảng và suy thoái của nền kinh tế. Các doanh nghiệp thống lĩnh thị trường, các doanh nghiệp độc quyền sử dụng vị thế này vào việc tự định giá cả hàng hoá độc quyền, kìm hãm số lượng hàng hoá để tăng giá bán nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch mà không chú trọng tới việc đổi mới công nghệ, tăng năng suất nữa. Tình trạng này kéo dài sẽ làm cho năng lực của các công ty thống lĩnh, công ty độc quyền bị suy yếu, thậm chí dẫn đến bị suy giảm và suy thoái của cả một ngành sản xuất nào đó. Sự khan hiếm của hàng hoá và giá cả leo thang do tình trạng thống lĩnh thị trường, tình trạng độc quyền gây ra sẽ là nguyên 3 Xem: Đặng Vũ Huân, Luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2002, tr 32. 11 nhân đưa đến sự lạm phát và gây mất ổn định nền kinh tế, làm tăng số người thất nghiệp. Thống lĩnh thị trường, độc quyền tạo cho các công ty thống lĩnh, công ty độc quyền những khoản thu nhập bất chính từ lợi nhuận siêu ngạch, góp phần làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo, bất công trong xã hội. Lợi nhuận của các công ty thống lĩnh, công ty độc quyền có được thực chất là nhờ vào việc hưởng mức chênh lệch quá đáng của giá cả áp đặt so với giá trị tự nhiên của hàng hoá, tức là đã bòn rút thu nhập của đại bộ phận người tiêu dùng bỏ vào túi của một số ít các công ty thống lĩnh, công ty độc quyền, đẩy những người nghèo đi đến chỗ ngày càng nghèo thêm, còn các công ty thống lĩnh, công ty độc quyền phất lên nhanh chóng. Thống lĩnh thị trường và độc quyền còn dẫn đến tình trạng cửa quyền hay đặc quyền cho một nhóm người có lợi ích. Thống lĩnh thị trường, độc quyền sẽ tất yếu nảy sinh ra cơ chế xin – cho, ban phát và điều này ảnh hưởng không nhỏ đến dinh hoạt và sản xuất. Ngoài ra, thống lĩnh thị trường và độc quyền còn đồng hành với tiêu cực và tham nhũng. 2. Thực trạng pháp luật cạnh tranh Việt Nam về lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền. a) Những mặt tích cực. Luật cạnh tranh 2004 ra đời, với vai trò là đạo luật gốc điều chỉnh cạnh tranh, đã quy định về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền. Tại Chương II, Mục 2, Luật cạnh tranh 2004 đã quy định chi tiết các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền. Đây là một danh sách đóng quy định về các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền mà không hề có trường hợp được miễn trừ. Điều này thể hiện rõ nỗ lực của các nhà lập pháp trong việc minh bạch hoá pháp luật cạnh tranh và thái độ nghiêm khắc xử lý các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền. 12 Giống với các quốc gia khác trên thế giới đều duy trì độc quyền nhà nước ở một số lĩnh vực nhất định với mục đích đảm bảo lợi ích quốc gia, an ninh quốc phòng và lợi ích công cộng, Việt Nam vẫn duy trì các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền. Các doanh nghiệp giữa vị trí này sẽ bị Chính phủ áp dụng các biện pháp kiểm soát. Các biện pháp kiểm soát được quy định tại Điều 15 Luật cạnh tranh 2004: “Điều 15. Kiểm soát doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực độc quyền nhà nước, doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích: 1. Nhà nước kiểm soát doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực độc quyền nhà nước bằng các biện pháp sau đây: a) Quyết định giá mua, giá bán hàng hoá, dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước; b) Quyết định số lượng, khối lượng, phạm vi thị trường của hàng hoá, dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước. 2. Nhà nước kiểm soát doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích bằng các biện pháp đặt hàng, giao kế hoạch, đấu thầu theo giá hoặc phí do Nhà nước quy định. 3. Khi thực hiện các hoạt động kinh doanh khác ngoài lĩnh vực độc quyền nhà nước và sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, các doanh nghiệp không chịu sự điều chỉnh của quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này nhưng vẫn chịu sự điều chỉnh của các quy định khác của Luật này”. Ngoài Luật cạnh tranh 2004, và các văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật cạnh tranh chúng ta đã có nhiều văn bản pháp luật khác nhau điều chỉnh về hành vi lạm dụng vị tí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền. Như Pháp lệnh giá 2002; Luật Sở hữu trí tuệ 2005; Luật Chứng khoán 200; Luật Thương mại 2005;… Hệ thống pháp luật điều chỉnh hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền đã có những quy định điều chỉnh những vấn đề cơ bản nhất về hành vi lạm 13 dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền trong nền kinh tế thị trường hiện nay, nó làm cơ sở xây dựng môi trường pháp lý trong kinh doanh. Các quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền thể hiện tính ổn định và khả năng dự đoán của pháp luật, thể hiện sự tương thích của pháp luật cạnh tranh nước ta với pháp luật cạnh tranh của các nước có nền kinh tế thị trường và hệ thống pháp luật phát triển cao. Pháp luật điều chỉnh hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền không phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp ngoài quốc doanh khi cùng tham gia thị trường. Các cơ quan quản lý nhà nước khi lạm dụng thẩm quyền của mình làm ảnh hưởng xấu đến môi trường cạnh tranh cũng là đối tượng áp dụng của pháp luật. b) Những hạn chế còn tồn tại. Bên cạnh những mặt tích cực, pháp luật cạnh tranh Việt Nam về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền vẫn còn tồn tại một số bất cập: Nhiều chế định, khái niệm còn chưa rõ ràng, khó hiểu, một số quy định xác định hành vi trên cơ sở định tính, ví dụ như khái niệm gây thiệt hại cho khách hàng của hành vi định giá bán lại tối thiểu, mức độ phân biệt đối xử trong các điều kiện thương mại giữa các khách hàng, khả năng ngăn cản đối thủ cạnh tranh mới, xác định tính chất không liên quan đến đối tượng của hợp đồng trong các điều kiện thương mại hay nghĩa vụ bị áp đặt,… Việc xác định ranh giới hợp pháp hay bất hợp pháp của một số hành vi không có tiêu chí chung nhất và thường phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Quy định như vậy, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả áp dụng pháp luật, do đó, việc triển khai áp dụng pháp luật trên thực tiễn gặp không ít khó khăn, thậm chí có những vấn đề không thể giải quyết được. Việc phân biệt hai nhóm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và nhóm hành vi lạm dụng vị trí độc quyền là chưa phù hợp thực tiễn. Theo Điều 14 Luật Cạnh tranh, ngoài những hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh bị cấm, các doanh nghiệp độc quyền còn bị cấm thực hiện thêm hai hành vi gồm hành vi áp đặt các 14 điều kiện bất lợi cho khách hàng và hành vi lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng. Điều này có nghĩa, Luật Cạnh tranh đã đặt các doanh nghiệp độc quyền vào tình trạng bị giám sát về hành vi một cách nghiêm khắc hơn so với các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh. Tuy nhiên, trên thực tế, các hành vi trên có thể xảy ra ở bất kỳ môi trường kinh doanh nào có khiếm khuyết về cạnh tranh, nhất là khi có sự tồn tại của doanh nghiệp có sức mạnh thị trường. Vì vậy, khả năng xâm hại đến quyền lợi chính đáng của khách hàng hoặc xâm hại đến nguyên tắc bình đẳng được pháp luật hợp đồng bảo hộ bằng những hành vi trên đều có thể xảy ra ngay cả khi tồn tại doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh (không độc quyền) và hoàn toàn có thể gây tác động tiêu cực tới cạnh tranh trên thị trường. Trong một số lĩnh vực độc quyền nhà nước và sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, như bảo hiểm, ngân hàng, hàng không dân dụng,… pháp luật cạnh tranh về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền có nhiều nâng đỡ và ưu đãi. Các doanh nghiệp quốc doanh có vị trí độc quyền về cơ bản mới chỉ được Nhà nước kiểm soát về giá bán hàng hoá, dịch vụ, cơ chế thực thi còn thiếu đồng bộ, thiếu cơ sở pháp lý. Trong điều kiện như vậy, các doanh nghiệp quốc doanh dễ dàng biến vai trò của mình thành sự độc quyền, lợi dụng vị thế đó để hạn chế sự cạnh tranh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh; ép giá, nâng giá, gây bất lợi cho khách hàng, làm thiệt hại đến lợi ích của các chủ thể kinh doanh khác cũng như người tiêu dùng còn khá phổ biến, chẳng hạn như một số ngành độc quyền quốc doanh ở nước ta, giá sử dụng hàng hoá, dịch vụ cao hơn rất nhiều so với các nước khác trên thế giới, giá dịch vụ điện thoại cao nhất thế giới, giá điện cũng rất cao so với khu vực mà nhà nước vẫn phải bù lỗ, giá ô tô, xe máy cũng cao dẫn đầu thế giới,… Quy định về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền còn mang nặng tính định dạng, thiên về mô tả biểu hiện bên ngoài của hành vi mà chưa chú trọng đến các dấu hiệu đặc trưng của hành vi. Mô tả hành vi với cấu thành 15 pháp lý quá phức tạp đến mức gây khó khăn cho quá trình áp dụng luật trong thực tiễn. Liệt kê hành vi theo hình thức biểu hiện chi tiết dẫn tới việc bỏ sót hành vi phản cạnh tranh, tạo kẽ hở để doanh nghiệp lách luật. Xác định vị trí thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp dựa vào thị phần của doanh nghiệp.Thị phần của doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp X= (doanh thu hoặc doanh số của X/tổng doanh thu hoặc doanh số của ngành) x 100. Đây cũng là cách thức xác định được đa số các nước trên thế giới quy định và sử dụng. Tuy nhiên, khi áp dụng căn cứ thị phần để xác định vị trí thống lĩnh thị trường, cơ quan điều tra gặp phải một số vướng mắc như thị phần luôn thay đổi theo thời gian và theo nhu cầu của thị trường. Mọi diễn biến trên thị trường hoặc những yếu tố khách quan khác đều có thể ảnh hưởng đến cấu trúc thị phần của thị trường liên quan đó; Doanh thu, doanh số của doanh nghiệp có thể được hình thành từ việc nhiều thị trường liên quan. Việc kiểm tra chứng từ, sổ sách kế toán, tài chính chưa thể đem lại kết luận cần thiết và việc bóc tách số liệu sẽ không đơn giản do cần phải biết được phân khúc thị trường để xác định thị phần; Nếu theo nguyên tắc tính thị phần, cơ quan điều tra phải cộng dồn doanh thu, doanh số của tất cả các chủ thể trên phân khúc thị trường liên quan. Tuy nhiên, trên một trục dọc các hàng hóa, dịch vụ bị cộng dồn, doanh thu của một số doanh nghiệp đã bị cộng chồng, trong khi lượng hàng hóa, dịch vụ luân chuyển trong các doanh nghiệp này là như nhau. Để xử lý vấn đề này, cơ quan điều tra phải tốn kém thời gian bóc tách số doanh thu của các doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh với nhau, sau đó mới xác định thị phần của từng doanh nghiệp; Xác định thị phần theo giá trị dẫn đến trong nhiều trường hợp gây khó khăn cho cơ quan cạnh tranh trong quá trình thực thi vì không có cơ sở để xử lý vụ việc, đồng thời cũng tạo thêm gánh nặng cho doanh nghiệp trong quá trình cung cấp thông tin; Việc ấn định mức thị phần tương ứng với doanh nghiệp và nhóm doanh nghiệp không đủ để chứng minh các doanh nghiệp này có vị trí thống lĩnh thị trường. 16 Mặt khác trên thực tế vẫn có khả năng doanh nghiệp đứng đầu thị trường, mặc dù không nắm giữ tới 30% thị phần, nhưng lại có sức mạnh thị trường vượt trội so với phần còn lại của thị trường, nên hoàn toàn có khả năng đưa ra những quyết định có ảnh hưởng tới toàn thị trường. Các tiêu chí để xác định “khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể” chỉ được Luật cạnh tranh xem xét ở trạng thái tĩnh. Có nghĩa là, các yếu tố được cân nhắc đánh giá chỉ tập trung vào doanh nghiệp bị xem xét chứ không được so sánh trong mối tương quan với các đối thủ cạnh tranh khác trên thị trường, để từ đó cơ quan cạnh tranh có đánh giá chính xác hơn về sức mạnh trên thị trường của doanh nghiệp. Các hình thức xử lý hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền vẫn còn tồn tại một số hạn chế như: Về hình thức và mức độ xử lý đối với biện pháp phạt tiền có khung phạt quá rộng. Đó là chưa kể đến doanh nghiệp sẽ bị phạt trên tổng doanh thu chứ không phải là doanh thu trên thị trường liên quan. Mức phạt cũng không căn cứ trên lĩnh vực vi phạm, vai trò của doanh nghiệp và nhóm hành vi cụ thể; Về chính sách khoan hồng, Luật cạnh tranh cũng có đưa ra các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ làm căn cứ tính mức phạt, nhưng không có hướng dẫn cách tính cụ thể. Điều này gây nhiều tranh cãi về việc áp dụng có thể kéo theo sự tùy tiện của cơ quan cạnh tranh trong quá trình cân nhắc và xử phạt; Đối với những hành vi cố tình không hợp tác, từ chối cung cấp thông tin, cung cấp thông tin sai lệch hay hủy tài liệu chứng cứ, mức tiền phạt rất nhẹ chỉ từ “500.000 đến 3.000.000 đồng” nên không có tính giáo dục và răn đe; Đối với các biện pháp khắc phục hậu quả, nhìn chung còn mang tính hình thức, chưa gắn bó với thực tiễn hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và thực tiễn cạnh tranh trên thị trường. Các quy định về chế tài đối với hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền trong pháp luật cạnh tranh của Việt Nam còn khá cứng nhắc. Các quy phạm chủ yếu tập trung vào mục đích phạt răn đe, còn tính giáo dục chưa được 17 thể hiện nhiều và các biện pháp mang ý nghĩa tích cực khác chưa được xem xét áp dụng. Pháp luật cạnh tranh nước ta quy định cơ quan cạnh tranh bao gồm: Cơ quan quản lý cạnh tranh do Chính phủ quyết định thành lập và quy mô tổ chức, bộ máy và Hội đồng cạnh tranh là cơ quan do Chính phủ thành lập. Tuy nhiên, vị trí, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của hai cơ quan này vẫn chưa thực sự được quy định và phân định rõ ràng, không quy định rõ vị trí của cơ quan này và theo mô hình nào. Do đó, hiệu quả thực hiện chức năng quản lý và kiểm soát lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền còn hạn chế. Hai cơ quan này cũng đã bộc lộ nhiều bất cập trong lý luận và thực tiễn tổ chức, hoạt động. Xét về mặt tổ chức, hai cơ quan này chưa được tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc độc lập và chịu chi phối của Bộ Công thương. Cơ quan quản lý cạnh tranh thuộc Bộ Công thương, Bộ này lại là bộ chủ quản của nhiều doanh nghiệp nhà nước nên việc có đảm bảo tính khách quan, vô tư khi cơ quan quản lý cạnh tranh giải quyết các vụ tranh chấp giữa một bên là doanh nghiệp dân doanh và một bên là doanh nghiệp nhà nước mà cơ quan quản lý cạnh tranh lại là cơ quan trực thuộc bộ chủ quản là rất khó khăn; Chức năng, nhiệm vụ của hai cơ quan chưa phù hợp. Trong khi Cục Quản lý cạnh tranh quá nhiều nhiệm vụ như điều tra các vụ việc cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng… thì vai trò của Hội đồng cạnh tranh khá mờ nhạt. Bộ máy quản lý cạnh tranh của Việt Nam là mô hình duy nhất tồn tại trên thế giới; Các cơ quan hành chính như Chính phủ, các bộ ngành, ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thanh tra chuyên trách cũng được coi là bộ máy thực thi cạnh tranh theo quy định của luật chuyên ngành. Nhưng lại hạn chế về nguồn nhân lực: cán bộ hành chính chỉ am hiểu về một chuyên ngành cụ thể; số lượng chuyên viên hiểu biết và có kinh nghiệm chuyên sâu về cạnh tranh chưa nhiều; Hai hệ thống cơ chế giải quyết tranh chấp cạnh tranh hiện nay là cơ quan cạnh tranh và cơ quan hành chính. Với khung quy định về chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của các bộ máy này thì về cơ bản địa vị pháp lý, thẩm quyền giải quyết giữa chúng là ngang nhau mà không có sự phân định thẩm quyền. Điều đó sẽ dẫn 18 đến mâu thuẫn, chống chéo và ỉ lại của các cơ quan xét xử; Theo Báo cáo đánh giá năm thực thi luật cạnh tranh của Bộ Công thương, bộ máy giải quyết cạnh tranh ở Việt Nam vẫn còn lúng túng trong xử lý hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường vị trí độc quyền. Sự thiếu kinh nghiệm của cơ quan thực thi, thiếu kiến thức, ý thức của giới kinh doanh là một trong những nguyên nhân làm cho bộ máy thực thi chưa làm tròn nhiệm vụ của mình. Hiện nay, do tác động của nền kinh tế thị trường và thương mại toàn cầu hóa, ngày càng có nhiều vụ việc liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường diễn ra và bị xử lý trên thế giới, điển hình như trường hợp Microsoft, vụ Deutsche Telekom… Ở Việt Nam, từ khi Luật cạnh tranh ra đời cho đến nay, Cục quản lý cạnh tranh mới chỉ thụ lý và điều tra một số ít vụ việc liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh trên thị trường do doanh nghiệp nộp hồ sơ khiếu nại. Từ năm 2006 đến năm 2009 có 17 vụ được tham vấn về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền. Trong đó có chín vụ được đưa ra điều tra và chỉ vài ba vụ có quyết định xử lý. Có những vụ điển hình và đã bị xử lý như vụ Công ty Xăng dầu hàng không Vinapco ngừng cung cấp xăng máy bay cho Hãng Hàng không Jetstar Pacific, bị xem là lạm dụng vị trí độc quyền, bị phạt gần 3,4 tỉ đồng. Ngoài ra còn có vụ 19 công ty bảo hiểm liên kết ấn định mức phí bảo hiểm xe cơ giới, bị xem là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, bị phạt tổng cộng trên 1,7 tỉ đồng…Bên cạnh các vụ việc đã được cơ quan quản lý cạnh tranh phát hiện và đang tiến hành điều tra xử lý, trên thị trường Việt Nam hiện nay còn xuất hiện một loạt các hành vi khác có dấu hiệu vi phạm điều cấm lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường cần phải được kiểm soát nhưng chưa có căn cứ để tiến hành cáo buộc vi phạm như trường hợp hạn chế số lượng xuất bản lịch bloc, quyết định giá bán… Ở nước ta, các vụ việc liên quan đến lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền ngày càng tăng. 3. Phương hướng hoàn thiện pháp luật cạnh tranh Việt Nam về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền. 19 Để đánh giá chính xác hơn về sức mạnh kiểm soát thị trường của doanh nghiệp, các yếu tố cần xem xét có thể bao gồm năng lực vượt trội của doanh nghiệp; rào cản gia nhập thị trường; sức mạnh của người mua; các nguồn lực thiết yếu mà doanh nghiệp đang nắm giữ, điều kiện thị trường… Các tiêu chí đánh giá vị trí của doanh nghiệp trên thị trường, em cho rằng chỉ nên quy định các tiêu chí dưới dạng nguyên tắc chung. Thay vì các quy định mang tính liệt kê cụ thể một cách cứng nhắc, Luật Cạnh tranh cần đòi hỏi cơ quan thực thi pháp luật phải có các đánh giá, phân tích kinh tế chuyên sâu hơn khi đánh giá vị trí, sức mạnh thị trường của doanh nghiệp. Ngoài ra, khi đánh giá vị trí, sức mạnh thị trường của doanh nghiệp, cơ quan cạnh tranh cần đánh giá trong xu hướng vận động, phát triển của thị trường, bối cảnh kinh tế… thay vì chỉ xem xét trong trạng thái tĩnh như hiện nay. Cần thiết phải xây dựng hệ thống các tiêu chí đánh giá hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền, đồng thời phải có quy định bao quát các hành vi lạm dụng có tác động hạn chế cạnh tranh có thể xảy ra. Không nên phân biệt hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh và lạm dụng vị trí độc quyền để điều chỉnh như hiện nay. Thay vào đó, cần nhắm vào bản chất của hành vi lạm dụng sức mạnh thị trường của doanh nghiệp; Xây dựng các tiêu chí cơ bản nhằm đánh giá hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh. Các tiêu chí cần nhắm vào bản chất trục lợi hay đóng cửa thị trường của hành vi, không nên căn cứ vào mô tả về các biểu hiện bên ngoài của hành vi như hiện nay; Bên cạnh việc liệt kê liệt kê một số hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh biết được theo các tiêu chí hợp lý, Luật Cạnh tranh cần có điều khoản quét để bao quát hành vi có bản chất chất trục lợi hay đóng cửa thị trường của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh. Đảm bảo sự độc lập của bộ máy thực thi, cho dù được tổ chức theo mô hình nào đi nữa thì nguyên tắc quan trọng hàng đầu là phải đảm bảo cơ quan này không chịu bất kỳ một sự can thiệp hay chi phối nào từ các cơ quan khác để không làm ảnh hưởng đến sự công bằng trong xử lý vụ việc. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan