Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Thực trạng hiến xác, hiến bộ phận cơ thể ở việt nam hiện nay....

Tài liệu Thực trạng hiến xác, hiến bộ phận cơ thể ở việt nam hiện nay.

.DOC
12
136
56

Mô tả:

Table of Contents A- MỞ ĐẦU.......................................................................................................................................................1 B- NỘI DUNG CHÍNH......................................................................................................................................1 I- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN HIẾN XÁC, HIẾN BỘ PHẬN CƠ THỂ CỦA CÁ NHÂN.............................................................................................................................................................1 1. Một số khái niệm....................................................................................................................................1 2. Cơ sở lý luận...........................................................................................................................................2 3. Cơ sở thực tễn.......................................................................................................................................3 II- NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN HIẾN BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI; HIẾN XÁC SAU KHI CHẾT. 4 1. Quy định về quyền hiến bộ phận cơ thể người, hiến xác sau khi chết của cá nhân trong Bộ luật dân sự 2005.......................................................................................................................................................4 2. Vai trò và ý nghĩa của việc thừa nhận quyền hiến bộ phận cơ thể người hiến xác sau khi chết..........5 III. THỰC TRẠNG HIẾN BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI HOẶC HIẾN XÁC SAU KHI CHẾT....................6 1. Thực trạng của việc thực hiện quyền hiến bộ phận cơ thể người hoặc hiến xác sau khi chết............6 2. Thực trạng về nhu cầu ghép mô, bộ phận cơ thể người ở Việt Nam...................................................6 3. Thực trạng hiến xác ở Việt Nam.............................................................................................................7 IV- NHỮNG BIỆN PHÁP VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN HIẾN BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI, HIẾN XÁC SAU KHI CHẾT..................................................................................................8 1. Phương hướng hoàn thiện.................................................................................................................8 2. Hoàn thiện về pháp luật về hiến xác, hiến bộ phận cơ thể sau khi chết...............................................9 C- KÊT LUẬN..................................................................................................................................................11 ĐỂ BÀI SỐ 10: Thực trạng hiến xác, hiến bộ phận cơ thể ở Việt Nam hiện nay. BÀI LÀM A- MỞ ĐẦU Xã hội ngày càng phát triển thì con người lại phải đối mặt với vô vàn các nguy cơ gây bất ổn định như: Chiến tranh, hoả hoạn, bão lũ, phân biệt sắc tộc… Đặc biệt là dịch bệnh, với vô vàn các căn bệnh nan y, để rồi hàng ngày – hàng giờ Việt Nam nói riêng cũng như các nước trong khu vực và thế giới đã có biết bao nhiêu người phải từ biệt gia đình, bạn bè – cuộc sống và người thân để ra đi trong hàng ngàn, hàng vạn các lý do khác nhau mà y học không thể can thiệp, đẩy lùi và cứu chữa được. Để hạn chế được điều này, khắc phục được sự chết chóc do các căn bệnh nan y gây ra cho con người thì ngành y học của Việt Nam nói riêng, khu vực và thế giới nói chung nên quan tâm đến vấn đề: “Hiến xác nhân đạo”, “hiến bộ phận cơ thể người”, Hiến mô tạng, hiến máu nhân đạo… để nghiên cứu phục vụ y học hơn nữa. Trong nội dung của bài tập học kỳ này em xin tìm hiểu vấn đề “Thực trạng hiến xác, hiến bộ phận cơ thể ở Việt Nam hiện nay”. B- NỘI DUNG CHÍNH I- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN HIẾN XÁC, HIẾN BỘ PHẬN CƠ THỂ CỦA CÁ NHÂN 1. Một số khái niệm Thế nào là bộ phận cơ thể người? Theo TS Phùng Trung Tập xét về mặt sinh học: “Bộ phận cơ thể người là những thành tố cấu thành sự thống nhất của một cơ thể sống hoàn chỉnh và nó thực hiện được chức năng trao đổi chất giúp cho cơ thể tồn tại và phát triển bình thường theo quy luật của tự nhiên”. Có quan niệm khác lại định nghĩa theo cách liệt kê đối tượng, hộ cho rằng: “ Bộ phận cơ thể người là một phần của cơ thể như mắt, tay, chân, gan, thận, tim hoặc phần khác của cơ thể”. Đây là hai cách hiểu khác nhau về bộ phận cơ thể tuy nhiên theo quy định tại Điều 3 của Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác, cụ thể là tại khoản 2, 6, 8 quy định như sau: “2. Bộ phận cơ thể người là một phần của cơ thể được hình thành từ nhiều loại mô khác nhau để thực hiện các chức năng sinh lý nhất định. 6. Hiến mô, bộ phận cơ thể người là việc cá nhân tự nguyện hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống hoặc sau khi chết. 8. Ghép mô, bộ phận cơ thể người là việc cấy ghép mô, bộ phận tương ứng của cơ thể người hiến vào cơ thể của người được ghép”. 2. Cơ sở lý luận Con người sinh ra đã có quyền sống, quyền tự do…đó là quyền con người khi họ sống trong một Nhà nước nhất định thì quyền con người của họ luôn được đảm bảo thừa nhận và quyền hiến bộ phận cơ thể người , hiến xác sau khi chết cũng là một quyền con người. Do đó, lẽ tất nhiên nó cũng được Nhà nước thừa nhận và bảo vệ. Con người có quyền quyết định những gì thuộc về mình như quyền nhân thân, con người có quyền bảo vệ tên tuổi, danh dự, nhân phẩm, giữ gìn sức khỏe…bộ phận cơ thể người, đối với xác sau khi chết, nó cũng là một bộ phận của quyền nhân thân. Do đó, con người cũng có quyền được hiến, nhận bộ phận cơ thể người sau khi chết. Về mặt sinh học con người là một thể thống nhất gồm nhiều bộ phận hợp lại để hoạt động các bộ phận đấy, các cơ quan đấy phải thực hiện quá trình trao đổi chất. Tuy nhiên không phải ai sinh ra các bộ phận cơ thể cũng hoàn thiện mà có những người họ bị khuyết thiếu một bộ phận nào đó hoặc có người sinh ra họ phát triển binh thường nhưng vì một lý do nào đó họ phải cắt bỏ một phần cơ thể của mình và bộ phận cơ thể đó có thể cần cho mục đích nghiên cứu khoa học. Mặt khác trên thực tế có những người do tai nạn hoặc vì tình thương vì sự nhân đạo họ tự nguyện hiến bộ phận cơ thể mình cho người khác hoặc họ cũng có thể tự nguyện hiến xác, hiến bộ phận cơ thể mình sau khi chết để cứu chữa bệnh cho người khác hoặc nhằm mục đích phục vụ cho nhu cầu nghiên cứu khoa học. Về mặt pháp lý Quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng con người đã được quy định trong Hiến Pháp 1992 và Bộ luậ Dân sự 1995 và lần đầu tiên Quyền hiến bộ phận cơ thể người; hiến xác sau khi chết được thừa nhận và quy định ở Điều 33 Quyền hiến bộ phận cơ thể; Điều 34 Quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết; Điều 35 Quyền nhận bộ phận cơ thể người. 3. Cơ sở thực tiễn. Thực tế cuộc sống cho thấy nhiều trường hợp con người do tai nạn, do sự kiện bất ngờ dấn đến nhiều trường hợp chết lâm sàng hoặc chết thực sự. Tuy nhiên một số bộ phận cơ thể của họ vẫn còn sống và vẫn có thể dùng để cứu chữa người bệnh hoặc dùng để nghiên cứu khoa học. Thực tế cũng cho thấy rất nhiều người còn sống họ cũng tình nguyện hiến các bộ phận cơ thể của mình để cứu người bệnh trong cơn nguy kịch. Ở nước ta thì việc cha, mẹ hiến để chữa trị cho con cái hoặc những người thân thích với nhau là không hiếm…Nhưng nếu có quy định pháp lụt về vẫn đề này thì số người hiến sẽ không dùng lại ở phạm vi hẹp như trên mà có nhiều người hiến hơn nữa và đương nhiên là có nhiều người bệnh được cứu sống. Bên cạnh có một số người muốn sau khi mình chết đi thi thể cuả họ sẽ không bị chôn vùi một cách vô ích lãng quên cùng với cát bụi mà họ muốn hiến cho các trung tâm nghiên cứu y học hoặc cho người bệnh nhằm mục đích chữa bệnh hoặc nghiên cứu khoa học. Cùng với sự phát triển kinh tế là mặt trái của nó, môi trường ô nhiễm, tài nguyên cạn kiệt, bệnh tật ngày càng phát sinh nhiều và ngày càng nguy hiểm như bệnh viêm gan A, viêm gan B, teo thận, tim mạch…do đó nhu cầu về ghép nội tạng ngày càng tăng cao trong khi đó người hiến tạng lại không nhiều. Hơn nữa ở nước ta, những người chết vì rủi ro, bão lũ, tai nạn giao thông hàng năm là rất lớn trung bình mỗi tháng là 1000 người chết. Đó là một điều không may nhưng một người có thể cứu được ít nhất 7 người.Tại Hà Nội cũng có gần 1.500 người được chỉ định ghép gan nhưng do không có nguồn cho nên số bệnh nhân này đang trong tình trạng nguy hiểm tới tính mạng. Còn về nhu cầu mô, chúng ta có khoảng hơn 5.000 người bệnh đang chờ được ghép giác mạc. Riêng tại Viện Mắt Trung ương, mỗi năm nhu cầu ghép giác mạc từ 500 ca/năm trở lên nhưng từ năm 1985 đến nay mới chỉ ghép được 1.500 ca. Số giác mạc được dùng để ghép chủ yếu lấy từ nguồn viện trợ của các Tổ chức phi chính phủ (khoảng 50 - 100 giác mạc/năm) mà không có nguồn của người cho giác mạc. Trên thế giới một số nước như Pháp, Mỹ… đã cho phép hiến bộ phận cơ thể người, hiến xác sau khi chết và đã đem lại hiểu quả rất ấn tượng, mỗi người bệnh sau khi được ghép thận, gan, có khả năng sống cao hơn, lâu dài hơn và chi phí ít tốn kém hơn so với chạy thận nhân tạo…Từ những lý luận cũng như thực tiễn cho thấy việc quy định Quyền hiến bộ phận cơ thể người, hiến xác sau khi chết là hoàn toàn đúng đắn và hợp lý trong bối cảnh đất nước ta hiện nay. II- NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN HIẾN BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI; HIẾN XÁC SAU KHI CHẾT. 1. Quy định về quyền hiến bộ phận cơ thể người, hiến xác sau khi chết của cá nhân trong Bộ luật dân sự 2005 Bộ luật Dân sự 2005 đã đề cập đến một vấn đề hoàn toàn mối mà từ khi lập pháp đế nay ở nước ta vấn chưa đề cập tới. Đố là lần đầu tiên trong Bộ luật Dân sự 2005 quy định Quyền hiến bộ phận cơ thể, hiến xác sau khi chết, trong đó đã đề cập đến hai vấn đề đó là Quyền hiến bộ phận cơ thể ngươi khi còn sống được quy định ở Điều 33 và hiến xác, bộ phận cơ thể người sau khi chết được quy đinh tại Điều 34, ngoài ra để đảm bảo việc thực hiện quyền nàu có hiểu quả trong Bộ luật này cũng quy định quyền nhân bộ phận cơ thể người được quy định ở Điều 35. Tại Điều 33 Bộ luật Dân sự 2005: “cá nhân được quyền hiến bộ phận cơ thể của mình cho người khác vì mục đích chữa bệnh và nghiên cứu khoa học. Việc hiến bộ phận cơ thể người được thực hiện theo quy định của pháp luật”. Đặc biệt việc thừa nhận Quyền hiến xác, hiến bộ phận cơ thể của cá nhân khi cá nhân đó chết đi được quy định tại Điều 34 của Bộ luật dân sự 2005: “Cá nhân có quyền hiến bộ phận cơ thể của mình hoặc hiến xác sau khi chết vì mục đích chữa bệnh hoặc nghiên cứu khoa học. Việc sử dụng xác, bộ phận cơ thể của người chết được thực hiện theo quy định của pháp luật”. Qua đó ta thấy ở đây pháp luật cũng chỉ quy định rất khái quát, chung chung về việc cá nhân có quyền hiến xác, hiến bộ phân cơ thể sau khi chết chứ không quy đinh củ thể về vấn đề điều kiện về đổ tuổi, sức khỏe đối với người hiến… Bên cạnh quy định về quyền được hiến bộ phận cơ thể người , hiến xác sau khi chết, Bộ luật Dân sự 2005 còn quy định về quyền được nhận bộ phận cơ thể người Điều 35 quy định: “Cá nhân có quyền nhận bộ phận cơ thể của người khác để chữa bệnh cho mình. Nghiêm cấm việc nhận, sử dụng bộ phận cơ thể người khác vì mục đích thương mại”. 2. Vai trò và ý nghĩa của việc thừa nhận quyền hiến bộ phận cơ thể người hiến xác sau khi chết. Việc thừa nhận quyền hiến bộ phận cơ thể, hiến xác sau khi chết có vai trò vô cùng quan trọng: - Việc thừa nhận quyền hiến và nhận các bộ phận cơ thể người hoặc hiến xác sau khi chết là tia hy vọng giúp có đủ nguồn mô tạng để cấy, ghép cứu chữa kịp thời, giúp người bệnh vượt qua cơn nguy kịch về tính mạng và kéo dài tuổi thọ cho họ. Đồng thời giảm được những chi phí thuốc thang, chi phí về chạy thận nhân tạo và các chi phí không cần thiết khác. - Thể hiện được tình cảm cũng như lòng nhân đạo bao dung của mình đối với người bệnh và đối với nghành giải phẫu học. Những người hiến này họ cũng được Nhà nước, cơ sở y tế hoặc người bệnh đền bù cho sự đồng ý cao cả đó. Từ đó ta thấy nó thể hiện tính nhân văn sâu sắc của dân tộc ta đồng thời góp phần tạo điều kiện cho việc hình thành ngân hàng mô tạng ở nước ta trong tương lai không xa. - Đối với nhà nước: Việc thừa nhận hiến bộ phận cơ thể người, hiến xác sau khi chết nó thể hiện Nhà nước ta ngày càng quan tâm đến quyền lợi, sức khỏe nhân dân. Nó còn giúp nhà nước xây dựng một hệ thống y tế phát triển để phục vụ cho quyền này có hiểu quả, đáp ứng tốt hơn những nhu cầu chữa bệnh của nhân dân và nghiên cứu khoa học, việc thừa nhận quyền này cũng có vai trò to lớn đưa nước ta hội nhập với thế giới. III. THỰC TRẠNG HIẾN BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI HOẶC HIẾN XÁC SAU KHI CHẾT. 1. Thực trạng của việc thực hiện quyền hiến bộ phận cơ thể người hoặc hiến xác sau khi chết. Tuy đã đổi mới gần 20 năm nhưng phải đến Bộ luật Dân sự 2005 mới thừa nhận và quy định tại Điều 33, Điều 34 mặc dù việc hiến cấy ghép bộ phận cơ thể người đã được nghiên cứu và thực hiện trước đó hàng chục năm. Trong thực tế số người cần được ghép tạng trên thế giới nói chung và ở việt nam nói riêng ngày càng nhiều. Do đó chỉ thừa nhận việc hiến bộ phận cơ thể người khi còn sống một cách tự nguyện là không thể đáp ứng được nhu cầu cấy ghép mô tạng. Dô đó luật cần phải thừa nhận thêm việc hiến bộ phận cơ thể, hiến xác sau khi chết. Ngoài ra việc lấy bộ phận cơ thể, lấy xác của người chết để chữa bệnh hoặc nghiên cứu khoa học cũng đã được quy định và thực hiện khá hiểu quả ở một số nước phát triển như Mỹ, Pháp, Bỉ… Tuy nhiên ở Việt Nam vấn đề hiến xác, bộ phận cơ thể người sau khi chết từ trước năm 2005 về mặt pháp lý chưa có một văn bản pháp luật nào quy định về vấn đề này, tức là chưa có văn bản pháp luật nào thừa nhận quyền hiến bộ phận cơ thể hiến xác sau khi chết. Do vậy thực tiễn bày từ năm 2005 trở về trước ít người hiến xác hoặc trường hợp trước khi chết họ đồng ý hiến song khi họ chết đi gia đình họ không đồng ý. Sau hơn một năm kể từ khi ra đời, Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác được coi là chỗ dựa về mặt luật pháp và có tính quyết định đến sự thúc đẩy việc phát triển trong lĩnh vực ghép mô, bộ phận cơ thể người ở Việt Nam. 2. Thực trạng về nhu cầu ghép mô, bộ phận cơ thể người ở Việt Nam. Ở Việt Nam trong những năm qua, nhu cầu được ghép mô và nhu cầu có xác để phục vụ việc nghiên cứu khoa học, giảng dạy là rất lớn và ngày một gia tăng. Cả nước có khoảng 5.000 – 6.000 người suy thận mạn cần được ghép thận. Riêng Hà Nội đã có gần 1.500 người được chỉ định ghép gan. Do không có nguồn của người hiến nên cho đến nay đã có hàng trăm người phải sang Trung Quốc, Singapore và một số nước khác để ghép thận, ghép gan. Còn ở trong nước chỉ có khoảng 300 ca được ghép thành công, trong đó chủ yếu là ghép thận chiếm tỷ lệ cao nhất sau đó đến ghép tế bào máu (ghép tủy) và ghép gan. Tất cả các ca ghép này đều lấy thận, gan của người sống là cha, mẹ, anh, chị, em trong gia đình, cùng huyết thống, có các chỉ số sinh học tương đương. Trong khi đó, trên thế giới các nguồn lấy mô, bộ phận cơ thể người để ghép đều có nguồn từ người cho sống cùng huyết thống và từ người cho sống không cùng huyết thống. Đó là những người bị chết não hay bệnh nhân đã ngừng tim. Nhu cầu ghép giác mạc rất cao, theo số liệu điều tra năm 2007, tỷ lệ mù lòa trong cả nước là 0,59% (trong đó có 5,6% mù do sẹo giác mạc và mù do đục giác mạc chiếm tỷ lệ 8,9%, trong tổng số người mù do các nguyên nhân khác nhau) ước tính sơ bộ tương đương với khoảng 27.800 người mù do các bệnh lý giác mạc đòi hỏi cần có giác mạc để ghép, nhưng trên thực tế không có đủ nguồn của người cho giác mạc. Tuy nhiên, không chỉ Việt Nam mà trên thế giới, tình trạng thiếu mô, bộ phận cơ thể người để ghép luôn tạo nên những sức ép lớn, theo số liệu của WHO (năm 2002) thì trên thế giới có 36.857 triệu người mù, trong đó 5,1% là mù lòa do bệnh giác mạc và mỗi năm có khoảng 10 triệu người bị mù do hỏng giác mạc, nhưng chỉ khoảng 120.000 người được ghép giác mạc. Riêng châu Á, ước tính mỗi năm có khoảng 1 triệu bệnh nhân bị suy thận mạn giai đoạn cuối nhưng chỉ có khoảng 60.000 bệnh nhân được ghép thận (50% từ người chết não và 50% từ người cho sống). Để đạt được mục tiêu đến năm 2020 có thể thực hiện được khoảng 1.000 ca ghép thận, 80-100 ca ghép gan, 20-30 ca ghép tim và 10-15 ca ghép phổi, 2.000 ca ghép giác mạc, nước ta phải có nhiều mô, bộ phận cơ thể người hiến tự nguyện, nếu chỉ chờ vào nguồn hiến bộ phận cơ thể người của người thân là không thể đủ. Do đó, việc lấy mô, bộ phận cơ thể ở người hiến tự nguyện ngoài huyết thống và đặc biệt là ở người hiến sau khi chết là vô cùng cấp thiết. 3. Thực trạng hiến xác ở Việt Nam Môi trường sống và làm việc là một yếu tố quan trọng để phát triển tâm lý và phát triển năng lực, cũng như khả năng nắm bắt được các nguồn thông tin mới về y học, tầm quan trọng của vấn đề “hiến xác nhân đạo”, “hiến bộ phận cơ thể người” và sự ra đời của Luật “Hiến, lấy, ghép bộ Phận cơ thể người và hiến lấy xác” trong thời gian vừa qua. Từ góc độ này có thể lý giải, và dễ hiểu một điều rằng: Vì sao vấn đề hiến xác nhân đạo ở một số tỉnh, thành phố lớn ở khu vực phía Nam lại nhận được nhiều sự chú ý, quan tâm, sự ủng hộ của người dân nơi đây. Theo báo Thanh Niên (22/01/2007) Thủ tục hiến xác cho khoa học: Tại khu vực phía Nam, người tình nguyện hiến xác có thể mang chứng minh thư hay hộ khẩu đến đăng ký với trường Đại học Y ở địa phương, hoặc gửi đơn tình nguyện (có xác nhận của địa phương) về Đại học Y Dược TPHCM thì họ sẽ nhận được giấy chứng nhận hiến xác. Tất cả những người từ đủ 18 tuổi trở lên đều có thể đăng ký hiến xác. Bác sỹ Phan Bảo Khánh – Phó chủ nghiệm bộ môn giải phẫu, trường Đại học Y Dược TP HCM cho biết điều này. Trung bình mỗi năm, ĐH Y Dược TP HCM cần 20 xác. Đến nay, trường đã nhận được 99 xác và gần 5.300 đơn tình nguyện hiến xác (có sự đồng ý của gia đình) từ những người đang sống. Bác sỹ Khánh cũng cho biết, việc hiến xác giúp các sinh viên y khoa có giáo cụ để thực hành mổ xẻ. Hơn thế nữa, đức hy sinh và lòng nhân ái của người hiến xác sẽ giúp họ phục vụ bệnh nhân một cách vô tư và trong sáng. Hiện nay ở nước ta có 3 trường Đại học: Y Hà Nội, Y Huế, Y TP.HCM là có quyền được nhận xác hiến cho nghiên cứu khoa học. IV- NHỮNG BIỆN PHÁP VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN HIẾN BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI, HIẾN XÁC SAU KHI CHẾT. 1. Phương hướng hoàn thiện Thứ nhất, tăng cường giáo dục nâng cao ý thức pháp luật cho người dân, đặc biệt là khuyến khích việc tự nguyện hiến xác, bộ phận cơ thể người sau khi chết. Giải thích cho họ biết ỹ nghĩa cũng như tầm quan trọng của việc hiến xác, hiến bộ phận cơ thể người sau khi chết, lợi ích có thể thấy được, việc tuyên truyền đó sẽ làm người dân hiểu hơn và sẽ dần có cái nhìn tích cực hơn về quyền này. Thứ hai, tăng cường đầu tư hệ thống trang thiết bị y tế hiện đại, đảm bảo cho việc lấy ghép bộ phận cơ thể an toàn hơn, đồng thời đó là việc đào tạo đội ngũ cán bộ, y bác sỹ có chuyên môn cao về việc cấy ghép bộ phận cơ thể sẵn sàng phục vụ nhân dân khi cần thiết. Mặt khác, nhà nước mà trực tiếp là Bộ y tế lập kế hoạch sớm xây dựng ngân hàng mô tạng nhằm đáp ứng nhanh hơn, kịp thời hơn nhu cầu của người ghép tạng bất cứ thời điểm nào, tình huống nào. Thứ ba, đẩy mạnh xây dụng một cơ chế về tài chính nhằm thay thế dần việc bao cấp của nhà nước bởi vì khi tiến hành cấy ghép bộ phận cơ thể, lúc đầu thì nhà nước có thể bao cấp được nhưng khi việc lấy ghép các bộ phận cơ thể được xã hội hóa, nhiều người tham gia vào việc cho hiến bộ phận cơ thể xác sau khi chết thì nhà nước không thể bao cấp được. Ở các nước phát triển trên thế giới thì các chi phí sẽ do các công ty bảo hiểm thanh toán toàn bộ trong quá trình cấy ghép do ở các nước này đời sống của nhân dân rất cao. Tuy nhiên ở nước ta do nền kinh tế còn đang trong thời kỳ hội nhập, đời sống của nhân dân dang cải thiện song nước ta không phải ai cũng có điều kiện tham gia bảo hiểm, mặt khác cũng chưa có loại bảo hiểm chuyên về vấn đề này, đồng thời số tiền đóng bảo hiểm của mỗi người quá nhỏ không đủ chi cho việc chữa bệnh của người dân mặc dù đã dùng đến quỹ dự phòng từ mấy năm trước. Do đó vấn đề kinh phí đang là một trong những vấn đề cấp thiết nhất không chỉ dụa vào sự bao cấp của nhà nước cũng như các công ty bảo hiểm. Vì vậy kinh phí là vẫn đề đặ ra cho toàn xã hội, do đó cần thu hút tài chính vào vấn đề này bằng mọi cách. Thứ tư, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền này. Đồng thời tham gai trao đổi kinh nghiệm với các nước có trình độ ghép tạng tiên tiến để học hỏi kinh nghiệm, và nâng cao kỹ thuật cấy nghép trong nước tiến tới ghép những bộ phận cơ thể đòi hỏi kỹ thuật phức tạp cũng như kinh nghiệm của cán bộ y tế như ghép gan, tim… 2. Hoàn thiện về pháp luật về hiến xác, hiến bộ phận cơ thể sau khi chết. - Việc cho, nhận tế bào vào phạm vi điều chỉnh của Luật ở Điều 1 vì Điều 6 của Luật có quy định về quyền hiến, nhận tinh trùng, noãn, mô trong thụ thai nhân tạo, đồng nghĩa với việc tế bào thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật. Như chúng ta đã biết noãn, tinh trùng, phôi… đang là những nội dung quan trọng và cần thiết phải quy định chặt chẽ. Do đó, cần phải có những quy định pháp luật cụ thể, chặt chẽ hơn về vấn đề này, vì việc hiến nhận tế bào còn có thể tạo ra một cơ thể hay một chủ thể pháp - Về độ tuổi của người hiến mô, bộ phận cơ thể người còn sống, Điều 5 của Luật là từ đủ 18 tuổi trở lên mới được hiến mô, bộ phận cơ thể. Tuy nhiên, đối với trường hợp người chết mà không có thẻ đăng ký hiến xác, hiến bộ phận cơ thể sau khi chết (Điều 22), thì Luật không nên giới hạn độ tuổi là đủ 18 tuổi trở lên, mà người dưới 18 tuổi cũng có thể được chấp nhận nếu được gia đình hoặc người giám hộ hợp pháp của họ đồng ý. Bởi lẽ, mô, bộ phận cơ thể của người dưới 18 tuổi vẫn có thể dùng để cấy, ghép cho người bệnh được và khi những người thân thích của người chết muốn hiến thì không có lý do gì mà cơ sở y tế lại không được nhận. Mặt khác, việc hiến bộ phận cơ thể, hiến xác ngoài việc phục vụ chữa bệnh còn nhằm mục đích nghiên cứu khoa học và giảng dạy. - Về thẩm quyền xác định chết não, không cần thiết phải bắt buộc phải có sự tham gia của giám định pháp y trong việc xác định chết não vì thực tế cho thấy ở nước ta, số lượng chuyên gia pháp y là không nhiều, đặc biệt là ở một số bệnh viện, cơ sở y tế trung bình. Nếu quy định như điểm c, khoản 2, Điều 27 của Luật sẽ có nhiều trường hợp phải chờ sự có mặt của các chuyên gia pháp y. Do đó, sẽ kéo dài thời gian vàng cho phép lấy những bộ phận tạng được hiến ở điều kiện tốt nhất, chỉ bảo quản được trong thời gian ngắn. Ví dụ như tim chỉ được ghép tối ưu nhất trong vòng 24h kể từ khi lấy ra khỏi lồng ngực của người hiến, còn thận thì tuy bảo quản để ghép được có dài thời gian hơn, nhưng cũng không quá 72h. Việc xác định chết não nên giao cho một hội đồng độc lập gồm các chuyên gia thuộc chuyên khoa hồi sức, hồi sức tích cực nội – ngoại thần kinh đánh giá dựa trên dấu hiệu lâm sàng và cận lâm sàng của khoa học kỹ thuật y học hiện đại. Sau khi hội đồng có kết luận thống nhất thì thủ trưởng sẽ ra quyết định cuối cùng. - Luật nên nêu rõ chế tài áp dụng với từng hành vi cụ thể hoặc bổ sung vào Bộ luật Hình sự những điều khoản để xử lý loại tội phạm liên quan đến các hành vi bị cấm tại Điều 11. - Về thủ tục đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể người sống; thủ tục đăng ký hiến bộ phận cơ thể người hiến xác sau khi chết ở khoản 4 Điều 12 cũng như khoản 4, Điều 18 của Luật có nêu: trách nhiệm của cơ sở y tế là trực tiếp gặp người hiến để tư vấn về các thông tin có liên quan là không khả thi. Bởi quy định này dẫn đến trường hợp người dân sẽ hiểu rằng: các cơ sở y tế phải có trách nhiệm cử cán bộ tới nhà gặp trực tiếp người hiến để tư vấn mà cơ sở y tế thì không đủ người để có thể làm được điều đó. - Điểm a, khoản 2, Điều17 của Luật cần làm rõ hơn về quy định khám sức khoẻ định kỳ bởi quy định này quá chung chung và khó thực hiện trên thực tiễn. Ví dụ: nếu có bệnh liên quan đến việc hiến mô, bộ phận cơ thể người như suy quả thận còn lại sau khi đã hiến đi một quả thì có được miễn phí trong việc điều trị hay không? Nếu phải chạy thận nhân tạo hay thay thận thì giải quyết như thế nào? Việc này phải được thực hiện một cách nghiêm túc trên thực tiễn, bởi nếu thực hiện không tốt nó sẽ tác động xấu đến những người đang có ý định hiến mô, bộ phận cơ thể khi còn sống để cứu chữa người bệnh và góp phần đảm bảo quyền lợi cho người hiến. Nó cũng thể hiện được sự quan tâm cũng như chính sách của Nhà nước là tôn vinh những người hiến. C- KÊT LUẬN Vấn đề hiến xác nhân đạo, hiến bộ phận cơ thể người, hiến mô tạng… đã và đang được mỗi cá nhân, cùng toàn thể xã hội quan tâm. Nếu được Đảng Nhà nước và các cấp bộ ngành quan tâm thì chắc chắn và tin tưởng rằng việc hiến “xác” nhân đạo, hiến mô tạng, hiến bộ phận cơ thể người sẽ được đại bộ phận nhân dân ủng hộ, ngành y học nói chung ở Việt Nam và ngành khoa học “chứng cứ” nói riêng sẽ phát triển, việc giải phẫu trên cơ thể người và một số căn bệnh nan y, quái ác sẽ được hạn chế và đẩy lùi trong thời gian tới.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan