Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Thủ tục tiến hành xét xử phúc thẩm dân sự...

Tài liệu Thủ tục tiến hành xét xử phúc thẩm dân sự

.DOC
9
106
113

Mô tả:

BÀI LÀM: I_ Đặt vấn đề. Phúc thẩm dân sự là việc toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Về bản chất phúc thẩm không phải là lần xét xử đầu tiên đối với một vụ án mà là lần xét xử thứ hai. Thủ tục phúc thẩm được tiến hành sau thủ tục sơ thẩm, đây cũng là nội dung của nguyên tắc xét xử hai cấp mà hệ thống toà án của Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới áp dụng nhằm đảm bảo tính thận trọng cho các phán quyết nhân danh nhà nước. Tính chất phúc thẩm quy định tại Điều 242 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 ( BLTTDS), từ đó chúng ta có thể đưa ra một khái niệm tương đối về phiên toà phúc thẩm dân sự như sau: Phiên toà phúc thẩm là phiên họp của toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án dân sự đã được toà án cấp dưới giải quyết bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng cáo hoặc kháng nghị nhằm xác định tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định đó. II_ Giải quyết vấn đề. 1. Thủ tục tiến hành phiên toà phúc thẩm dân sự. 1.1. Chuẩn bị khai mạc phiên toà phúc thẩm và thủ tục bắt đầu phiên toà. Theo quy định tại Điều 267 BLTTDS và theo hướng dẫn tại phần III.3 của Nghị quyết 05/2006/NQ- HĐTP thì việc chuẩn bị khai mạc phiên toà phúc thẩm và thủ tục bắt đầu phiên toà phúc thẩm cũng được thực hiện theo các Điều 212, 213, 215, 216 của BLTTDS. Do đó, khi chuẩn bị khai mạc phiên toà phúc thẩm và tiến hành thủ tục bắt đầu phiên toà phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm phải thi hành đúng các quy định tại các điều luật nêu trên của BLTTDS và sự hướng dẫn tại phần III.5 của Nghị quyết 02/2006/NQ- HĐTP. 1.2. Thủ tục hỏi tại phiên toà phúc thẩm dân sự. * Theo quy định khoản 1 Điều 268 BLTTDS thì sau khi kết thúc thủ tục bắt đầu phiên toà phúc thẩm, một thành viên hội đồng xét xử phúc thẩm công bố nội dung của vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm và nội dung kháng cáo, kháng nghị. Nếu có nhiều đương sự cùng kháng cáo và có kháng nghị của Viện kiểm sát ( VKS) thì công bố lần lượt kháng nghị của VKS trước rồi đến nội dung kháng cáo của từng đương sự: nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án. * Tiếp theo, chủ toạ phiên toà tiến hành hỏi các đương sự về các vấn đề sau: Căn cứ khoản 2 Điều 268 BLTTDS chủ tọa phiên toà tiếp tục hỏi nguyên đơn có thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện hay không. Nếu nguyên đơn trả lời là có rút lại đơn khởi kiện thì theo Điều 269 BLTTDS, Chủ toạ đặt câu hỏi với bị đơn: Ông ( bà) có chấp nhận việc rút lại đơn khởi kiện của nguyên đơn hay không? Nếu bị đơn đồng ý thì Hội đồng xét xử chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 269 BLTTDS thì việc chấp nhận yêu cầu rút đơn được thể hiện bằng quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Khi đình chỉ, Hội đồng xét xử huỷ bản án sơ thẩm, nếu bị đơn không đồng ý cho nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì Hội đồng xét xử không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. Việc quy định hỏi ý kiến của bị đơn trước khi xét xử phúc thẩm trong trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện là cần thiết bởi mọi vấn đề phát sinh, thay đổi, chấm dứt trong quá trình tố tụng về thực chất đều dựa trên yêu cầu của các đương sự. Trường hợp nguyên đơn không rút đơn khởi kiện hoặc rút đơn khởi kiện nhưng không được bị đơn đồng ý thì hội đồng xét xử đặt câu hỏi với người kháng cáo, kiểm sát viên trong trường hợp VKS có kháng nghị về việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị hay không. Nếu người kháng cáo thay đổi, bổ sung kháng cáo; VKS thay đổi, bổ sung kháng nghị thì hội đồng xét xử phải xem xét việc thay đổi, bổ sung có vượt quá nội dung kháng cáo, kháng nghị ban đầu hay không. Nếu người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo, VKS rút toàn bộ kháng nghị thì hội đồng xét xử quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần có kháng cáo, kháng nghị đã rút. Trong tố tụng dân sự các đương sự có quyền tự định đoạt nên có quyền thay đổi, bổ sung, rút các yêu cầu của mình; có quyền thoả thuận với nhau các vấn đề tranh chấp mà không trái với pháp luật và đạo đực xã hội. Việc chủ toạ phiên toà hỏi đương sự các vấn đề như trên trước khi hỏi về nội dung vụ án nhằm khẳng định quyền tự định đoạt của đương sự trong việc giải quyết vụ án mà toà án chỉ tíêp tục giải quyết vụ án khi đương sự vẫn tiếp tục yêu cầu. Ngoài ra, để bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự, Điều 270 BLTTDS quy định sau khi các đương sự đã trả lời xong về yêu cầu kháng cáo, hội đồng xét xử hỏi các đương sự có thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không? Nếu đương sự thoả thuận được với nhau, hội đồng xét xử cần hỏi rõ họ đã thoả thuận với nhau như thế nào để làm cơ sở cho việc có chấp nhận thoả thuận đó hay không? Sau khi xét thấy thoả thuận của họ là tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội, hội đồng xét xử phúc thẩm ra bản án phúc thẩm, sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thoả thuận của đương sự theo quy định của Điều 270 BLTTDS. * Sau khi chủ toạ phiên toà đã hỏi các đương sự mà nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, người kháng cáo giữ nguyên kháng cáo, VKS giữ kháng nghị và các đương sự không thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án thì hội đồng xét xử bắt đầu xét xử bằng việc nghe lời trình bày của các đương sự theo thứ tự sau đây: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự kháng cáo trình bày về nội dung kháng cáo, căn cứ kháng cáo. Sau khi người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trình bày xong yêu cầu kháng cáo thì hỏi người kháng cáo có đồng ý với phần trình bày của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ không? Có bổ sung gì thêm không? Nếu tất cả các đương sự đều kháng cáo thì thứ tự trình bày là nguyên đơn trình bày trước rồi tới bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Nếu chỉ có VKS kháng nghị thì kiểm sát viên trình bày về nội dung kháng nghị và các căn cứ của việc kháng nghị. Nếu vừa có kháng cáo và kháng nghị thì chủ toạ yêu cầu người kháng cáo trình bày kháng cáo trước, sau đó kiểm sát viên trình bày về kháng nghị. Tiếp theo người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự khác có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị được trình bày ý kiến về nội dung kháng cáo, kháng nghị. Sau đó, đương sự có quyền bổ sung ý kiến. Trong trường hợp đương sự không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình thì họ tự trình bày ý kiến về nội dung kháng cáo, kháng nghị và đề nghị của mình. Tại phiên toà phúc thẩm, đương sự, Kiểm sát viên, có quyền xuất trình, bổ sung chứng cứ. * Thủ tục hỏi và công bố tài liệu, xem xét vật chứng tại phiên toà phúc thẩm. Sau khi nghe các đương sự trình bày yêu cầu đề nghị của mình hội đồng xét xử tiến hành hỏi các vấn đề nhằm làm sáng tỏ nội dung vụ án. Theo Điều 272 BLTTDS thủ tục hỏi, công bố tài liệu, xem xét vật chứng tại phiên toà phúc thẩm được thực hiện giống như ở phiên toà sơ thẩm. Tuy nhiên, ở phiên toà phúc thẩm Hội đồng xét xử phúc thẩm chỉ hỏi những vấn đề thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm quy định tại Điều 263 BLTTDS. Mặt khác, Hội đồng xét xử phúc thẩm không có Hội thẩm nhân dân tham gia nên sau khi chủ toạ phiên toà hỏi thì các thẩm phán khác là thành viên của Hội đồng xét xử hỏi, sau đó đến người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, đương sự, kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác. Sau khi hỏi các đương sự, công bố các tài liệu có trong hồ sơ và xem xét tài liệu, vật chứng, Hội đồng xét xử tiến hành hỏi người giám định nếu người giám định được mời tới phiên toà. Theo Điều 230 BLTTDS, Chủ toạ phiên toà yêu cầu người giám định trình bày kết luận của mình về vấn đề giám định. Kiểm sát viên, những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên toà có quyền nhận xét về kết luận giám định, được hỏi những vấn đề còn chưa rõ, hoặc có mâu thuẫn trong kết luận giám định hoặc có mâu thuẫn với những tình tiết khác của vụ án. Khi người tham gia tố tụng không đồng ý với kết luận giám định được công bố tại phiên toà và có yêu cầu giám định bổ sung, giám định lại nếu thấy việc giám định bổ sung, giám định lại là cần thiết cho việc giải quyết vụ án thì hội đồng xét xử quyết định giám định bổ sung, giám định lại; trong trường hợp này Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà. Khi nhận thấy tình tiết vụ án được xem xét đầy đủ thì chủ toạ phiên toà hỏi kiểm sát viên, đương sự, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, những người tham gia tố tụng khác xem họ có yêu cầu hỏi vấn đề gì nữa không; trường hợp có yêu cầu và xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ thì chủ toạ phiên toà quyết định tiếp tục việc hỏi. 1.3. Tranh luận tại phiên toà phúc thẩm dân sự. Theo Điều 273 BLTTDS thì “ tranh luận tại phiên toà phúc thẩm được thực hiện như tranh luận tại phiên toà sơ thẩm, thứ tự phát biểu được thực hiện theo quy định tại Điều 271 của bộ luật này và chỉ được tranh luận về các vấn đề thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm và đã được hỏi tại phiên toà phúc thẩm”. Như vậy, ngoài việc vận dụng các quy định tại Điều 273 BLTTDS, chủ toạ phiên toà còn phải vận dụng các quy định từ Điều 232 đến Điều 235 BLTTDS để điều khiển phần tranh luận. Theo các quy định này, thứ tự phát biểu khi tranh luận được thực hiện như sau: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn phát biểu, sau đó nếu nguyên đơn có ý kiến thì nguyên đơn có quyền bổ sung ý kiến. Trong trường hợp cơ quan, tổ chức khởi kiện thì đại diện cơ quan, tổ chức trình bày ý kiến. Người có quyền và lợi ích được bảo vệ có quyền bổ sung ý kiến, sau đó người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn phát biểu, nếu bị đơn có ý kiến bổ sung thì có quyền đứng lên phát biểu. Sau khi người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn và bị đơn phát biểu thì tới người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phát biểu. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền bổ sung ý kiến. Nếu có kiểm sát viên tham gia phiên toà thì sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, chủ toạ phiên toà đề nghị kiểm sát viên phát biểu ý kiến của VKS về việc giải quyết vụ án. Trong trường hợp nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì họ tự mình phát biểu khi tranh luận. Sau những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, Chủ toạ phiên toà đề nghị Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của VKS về hướng giải quyết vụ án. Ở thủ tục này, vai trò của Thẩm phán Chủ toạ phiên toà trong thủ tục này là rất lớn, việc tranh luận có làm rõ sự thật khách quan hay không phụ thuộc một phần rất lớn vào việc điều khiển phiên toà của thẩm phán- Chủ toạ phiên toà. Cuối cùng, sau khi phát biểu về đánh giá chứng cứ, đề xuất quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án, người tham gia tranh luận phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã thu thập được và đã được xem xét, kiểm tra tại phiên toà cũng như kết quả việc hỏi tại phiên toà. Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác. Chủ toạ phiên toà không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án. 1.4. Các quy định về nghị án trong phiên toà phúc thẩm dân sự. Theo Điều 274 BLTTDS, “ Việc nghị án, trở lại việc hỏi và tranh luận, theo thời gian nghị án, tuyên án, sửa chữa, bổ sung bản án phúc thẩm được thực hiện như thủ tục sơ thẩm”, thủ tục nghị án của phiên toà sơ thẩm được quy định tại Điều 236 BLTTDS như sau: “ 1. Sau khi kết thúc phần tranh luận, Hội đồng xét xử vào phòng nghị án để nghị án. 2. Chỉ có các thành viên của Hội đồng xét xử mới có quyền nghị án. Khi nghị án, các thành viên của Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề. Hội thẩm nhân dân biểu quyết trước, Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án. 3. Khi nghị án chỉ được căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên toà, kết quả việc hỏi tại phiên toà và phải xem xét đầy đủ ý kiến của những người tham gia tố tụng, Kiểm sát viên. 4. Khi nghị án phải có biên bản ghi lại ý kiến đã thảo luận và quyết định của Hội đồng xét xử. Biên bản nghị án phải được các thành viên Hội đồng xét xử ký tên tại phòng nghị án trước khi tuyên án. 5. Trong trường hợp vụ án có nghiều tình tiết phức tạp, việc nghị án đòi hỏi phải có thời gian dài thì Hội đồng xét xử có thể quyết định thời gian nghị án, nhưng không quá năm ngày làm việc kể từ khi kết thúc tranh luận tại phiên toà. Hội đồng xét xử phải thông báo cho những người có mặt tại phiên toà và người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên toà biết giờ, ngày và địa điểm tuyên án; nếu Hội đồng xét xử đã thực hiện việc thông báo mà có người tham gia tố tụng vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành việc tuyên án theo quy định tại Điều 239 của Bộ luật này.” Như vậy, so với các quy định của các văn bản pháp luật tố tụng dân sự trước đây về thủ tục nghị án, Điều luật này đã quy định khá đầy đủ và chi tiết để đảm bảo việc giải quyết đúng vụ án, điều luật này không những đã quy định rõ thành phần nghị án, thủ tục, nội dung nghị án mà cả các căn cứ nghị án và thời gian nghị án. Mặt khác, điều luật này cũng đã quy định trong quá trình nghị án nếu xét thấy có tình tiết vụ án chưa được xem xét, việc hỏi chưa đầy đủ hoặc cần xem xét thêm thì Hội đồng xét xử quyết định việc hỏi và tranh luận, đây là quy định cần thiết vì thực tế đã cho thấy nhiều trường hợp khi nghị án thì Hội đồng xét xử mới phát hiện ra các tình tiết vụ án chưa được sáng tỏ. Ngoài ra, điều luật này cũng đã quy định cụ thể việc ghi biên bản phản ánh lại diễn biến của việc các án có tác dụng nâng cao trách nhiệm của các thành viên hội đồng xét xử trong việc nghị án. Theo đó, Chủ toạ phiên toà thay mặt thành viên khác của Hội đồng xét xử chịu trách nhiệm ghi biên bản, trong biên bản nghị án phải ghi lại đầy đủ các ý kiến đã thảo luận về từng vấn đề một và quyết định theo đa số của Hội đồng xét xử về từng vấn đề đó. Các thành viên của Hội đồng xét xử phải ký vào biên bản nghị án tại phòng nghị án trước khi tuyên án. 1.5. Các quy định về tuyên án trong phiên toà phúc thẩm dân sự. Theo Điều 274 BLTTDS thủ tục tuyên án tại phiên toà phúc thẩm dân sự thực hiện như tại phiên toà sơ thẩm quy định tại Điều 239 BLTTDS. Theo quy định này khi tuyên án mọi người trong phòng xử phải đứng dậy, trừ trường hợp đặc biệt được phép của chủ toạ phiên toà hoặc một thành viên khác của hội đồng xét xử đọc bản án và sau khi đọc xong có thể giải thích thêm về việc thi hành bản án hoặc quyền kháng cáo. Trong trường hợp có đương sự không biết tiếng việt thì sau khi tuyên án, người phiên dịch phải dịch lại cho họ nghe toàn bộ bản án sang ngôn ngữ mà họ biết. Để thực hiện được quy định này thống nhất, tại mục 11 phần III của nghị quyết 02/2006/QĐ- HĐTP ngày 12/05/2006 của HĐTPTANDTC đã hướng dẫn: “ khi tuyên án mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy. Nếu thấy có người không đứng dậy, thì Thư ký Toà án phải nhắc nhở họ, nếu người đó báo cáo vì lý do sức khoẻ nên không thể đứng dậy được, thì chủ toạ phiên toà cho phép ngồi tại chổ và sau đó mới tuyên án. Chủ toạ phiên toà hoặc một thành viên khác của Hội đồng xét xử đọc bản án; nếu bản án dài thì có thể thay nhau đọc bản án. Trong trường hợp bản án quá dài, thì chủ toạ phiên toà có thể chỉ yêu cầu mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy khi đọc phần mở đầu và phần quýêt định của bản án. Sau khi đọc xong bản án, tuỳ vào từng trường hợp cụ thể, chủ toạ phiên toà hoặc một thành viên khác của Hội đồng xét xử giải thích thêm về việc thi hành bản án và quyền kháng cáo của đương sự. Đối với đương sự không biết tiếng Việt, thì sau khi tuyên án xong người phiên dịch phải dịch lại cho họ nghe toàn bộ bản án sang thứ tiếng mà họ biết ( bao gồm cả phần bản án có liên quan đến họ và phần bản án có liên quan đến các đương sự khác trong vụ án).” Tuy pháp luật không quy định cụ thể trường hợp xét xử kín việc tuyên án được thực hiện như thế nào, tuy vậy, trong thực tiễn trường hợp xử kín một phần hay toàn bộ vụ án thì tuỳ từng trường hợp có thể đọc toàn bộ bản án hoặc chỉ đọc tóm tắt nội dung sự việc và nhận định của toà án nhưng phần quyết định của toà án phải được đọc toàn văn và công khai. Đối với trường hợp vắng mặt đương sự, trong BLTTDS không có điều luật nào quy định tuyên án khi vắng mặt đương sự, tuy nhiên, trên thực tế nếu ở phần thủ tục hỏi và phần tranh luận các đương sự có mặt nhưng khi toà án tuyên án lại vắng mặt thì toà án tiến hành tuyên án như bình thường. 2_ Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thủ tục tiến hành phiên toà phúc thẩm dân sự. Muốn hoàn thiện được các quy định về thủ tục tiến hành phiên toà phúc thẩm dân sự thì cần phải đáp ứng được các yêu cầu về các vấn đề như sau: yêu cầu nâng cao hiệu quả xét xử phúc thẩm; yêu cầu mở rộng tranh tụng trong tố tụng dân sự; yêu cầu về hoàn thiện trong hệ thống pháp luật Việt nam; yêu cầu về đổi mới hệ thống toà án; yêu cầu nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán...Sau đây là một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thủ tục tiến hành phiên toà phúc thẩm dân sự: 2.1. Về thủ tục hỏi và thủ tục tranh luận tại phiên toà phúc thẩm. Việc quy định về thủ tục hỏi như trong BLTTDS vẫn đề cao vai trò của Thẩm phán và coi nhẹ vai trò của các bên đương sự. Trong quá trình xét xử tại phiên toà Hội đồng xét xử vẫn giữ vai trò chủ động và tích cực tham gia vào các hoạt động hỏi các đương sự, người đại diện của đương sự, người làm chứng, người giám định...vai trò của luật sư tại phiên toà bị mờ nhạt, các bên đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, những người tham gia tố tụng khác chỉ tham gia vào quá trình chứng minh ở mức độ hạn chế. Việc quy định như vậy không phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp. Do đó, BLTTDS cần thu hẹp việc hỏi tại phiên toà, việc làm sáng tỏ những vấn đề còn mâu thuẫn sẽ được giải quyết tại phần tranh luận của phiên toà. Khi xét xử các bên đương sự thực hiện trách nhiệm chứng minh còn toà án chỉ thẩm tra tư cách các đương sự và những người tham gia tố tụng khác để bảo đảm tính hợp pháp của quá trình tranh tụng tại phiên toà Hội đồng xét xử có quyền tham gia vào quá trình đó bất cứ thời điểm nào khi thấy cần thiết phải làm sáng tỏ các tình tiết, chứng cứ nào đó về vụ án chưa được các bên làm rõ. Do đó thủ tục tiến hành phiên toà cần được quy định như sau: sau thủ tục bắt đầu phiên toà, Hội đồng xét xử cho đương sự trình bày yêu cầu, xuất trình chứng cứ và tranh luận. Điều 272 BLTTDS quy định về thủ tục hỏi và công bố tài liệu, xem xét vật chứng tại phiên toà phúc thẩm, Sửa đổi khoản 1 Điều 272 BLTTDS như sau: “ 1. Thủ tục hỏi những người tham gia tố tụng và công bố tài liệu, xem xét vật chứng tại phiên toà phúc thẩm được thực hiện theo quy định tại các Điều 222, 223, 224, 225, 226, 227, 228, 229, 230 và 231 của Bộ luật này.” 2.2.Về tranh luận tại phiên toà. Hiện nay tranh luận tại phiên toà trong BLTTDS cũng mới chỉ đề cập đến trình tự phát biểu khi tranh luận, phát biểu khi tranh luận và đối đáp, phát biểu của VKS và trở lại việc xét hỏi mà chưa đề cấp cụ thể đến những người có quyền tham gia tranh luận, phạm vi, căn cứ của việc tranh luận trong khi đó đây là những vấn đề có ý nghĩa quan trọng để ra những bản án, quyết định có căn cứ và hợp pháp. Ngoài ra, quy định về tranh luận trong BLTTDS không phát huy được tính tích cực của các bên đương sự. Về những người tham gia tranh luận: cần bổ sung thêm điều luật quy định về những người có quyền tham gia tranh luận tại phiên toà phúc thẩm đó là: đương sự, người đại diện của đương sự hoặc người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền tham gia tranh luận. Trong trường hợp VKS kháng nghị thì VKS có quyền tranh luận. Sửa đổi Điều 273 BLTTDS như sau: “ Tranh luận tại phiên toà phúc thẩm: 1- Trình tự phát biểu tranh luận tại phiên toà thực hiện theo quy định tại Điều 271 của Bộ luật này. 2- Về phạm vi phát biểu khi tranh luận và đối đáp. Phát biểu của Kiểm sát viên và việc trở lại việc hỏi được thực hiện theo quy định tại Điều 233, 234 và 235 Bộ luật này. 3- Chỉ được tranh luận về vấn đề thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm theo quy định tại Điều 263 Bộ luật này.” Sửa đổi Điều 233 BLTTDS như sau: “ 1- Khi phát biểu về đánh giá chứng cứ, đề xuất quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án, người tham gia tranh luận phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã thu thập được và đã được xem xét, kiểm tra tại phiên toà cũng như kết quả việc hỏi tại phiên toà. Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác. Chủ toạ phiên toà không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án. 2- Nếu tranh luận kéo dài sang ngày khác thì việc tranh luận được tiếp tục vào ngày tiếp theo, chủ toạ phiên toà phải thông bảo cho những người có mặt tại phiên toà thời gian và địa điểm của việc tranh luận.” 2.3. Về nghị án tại phiên toà phúc thẩm. Điều 274 BLTTDS quy định: “ Việc nghị án, tuyên án, sửa chữa, bổ sung bản án phúc thẩm được thực hiện như thủ tục sơ thẩm”. Các quy định kiểu này đã gây lúng túng cho các toà án cấp phúc thẩm không biết phải áp dụng quy định nào, áp dụng thế nào cho các trường hợp xét xử tại phiên toà phúc thẩm. Vì vậy, cần hoàn thiện quy định này theo hướng quy định cụ thể điều luật mà quy định đó dẫn chiếu như sau: Sửa đổi Điều 274: Nghị án và tuyên án. “ Việc nghị án, trở lại tranh luận, tuyên án, sửa chữa, bổ sung bản án phúc thẩm được thực hiện như thủ tục sơ thẩm quy định tại các Điều 236, 237, 239, 240 của Bộ luật này”. Về thời hạn nghị án, Khoản 5 Điều 236 BLTTDS quy định: “ Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, việc nghị án đòi hỏi phải có thời gian dài thì Hội đồng xét xử có thể quyết định thời gian nghị án, nhưng không quá năm ngày làm việc kể từ khi kết thúc tranh luận tại phiên toà...”. Bản án là kết quả cụ thể của toàn bộ quá trình điều tra, xét xử một vụ án. Nó xác định sự thật khách quan, rút ra những kết luận về những vấn đề liên quan đến tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm, lợi ích của con người, của tập thể, của Nhà nước và những vấn đề liên quan đến toàn bộ xã hội. Do đó, thẩm phán phải mất rất nhiều thời gian để trình bày nội dung, phân tích, đánh giá các chứng cứ, các tình tiết của vụ án, việc vận dụng pháp luật làm căn cứ để xác định sự việc, chứng minh cho những kết luận, những vấn đề cần phải giải đáp trong vụ án, làm cơ sở cho việc ra phán quyết. Đối với trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp thì có những trường hợp thời hạn 5 ngày có thể là không đủ để Hội đồng xét xử có thể xem xét và đưa ra quyết định đúng đắn. Vậy vấn đề đặt ra là Hội đồng xét xử sẽ giải quyết như thế nào đối với những trường hợp hết 5 ngày làm việc mà Hội đồng xét xử vẫn chưa thể tuyên án được. Việc xử lý sẽ phụ thuộc vào kỹ năng của từng thẩm phán. Theo quy định của BLTTDS thì các thủ tục hỏi, tranh luận và nghị án có thể đan xen. Qua nghị án, nếu xét thấy có tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc hỏi chưa đầy đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử quyết định trở lại việc hỏi và tranh luận và như vậy thì việc nghị án lại có thêm 5 ngày làm việc nữa. Do đó, quy định về thời hạn nghị án là 5 ngày trong BLTTDS là hợp lý. Đối với những vụ án bình thường, BLTTDS không quy định về thời hạn nghị án, việc nghị án và tuyên án có thể diễn ra ngay sau khi kết thúc tranh luận. Trên thực tế hầu như đối với việc xét xử các vụ án dân sự bản án đều được viết sẵn. Về mặt lý luận, bản án được chuẩn bị trước khi nghị án là không đúng và khi bản án đã được viết trước như vậy thì quá trình tranh luận tại phiên toà trở nên vô nghĩa, việc tham gia tố tụng của các luật sư để bảo vệ quyền lợi cho các đương sự cũng bị hạn chế...bởi vì các thành viên của Hội đồng xét xử đã định hình sẵn phương hướng giải quyết vụ án trước khi giai đoạn xét xử được diễn ra, việc giải quyết vụ án đã được quyết định trước bởi một tập thể thẩm phán. Bởi vậy, em đồng tình với quan điểm cho rằng thời gian nghị án không chỉ áp dụng đối với những vụ án có nhiều tình tiết phức tạp mà thời gian nghị án này phải được áp dụng đối với tất cả các vụ án ngay cả đối với vụ án có thể nghị án ngay được thì cũng không nên tuyên án ngay vì Hội đồng xét xử cần có đủ thời gian cần thiết để bàn bạc, thảo luận về các vấn đề cần phải giải quyết trong vụ án trên cơ sở đó là Hội đồng xét xử ra được bản án, quyết định đúng đắn, chính xác và bảo vệ quyền lợi chính đáng của các đương sự. Do đó, Điều 236 cần được quy định như sau: “ Sau khi kết thúc phần tranh luận, chủ toạ phiên toà tuyên bố và quyết định thời gian nghị án nhưng không được quá 5 ngày làm việc”. 2.4. Về phát biểu của Kiểm sát viên khi tranh luận tại phiên toà phúc thẩm. Điều 234 BLTTDS quy định: “ Trong trường hợp kiểm sát viên tham gia phiên toà thì sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, Chủ toạ phiên toà đề nghị kiểm sát viên phát biểu ý kiến của VKS về việc giải quyết vụ án”. Đây là quy định đáng suy nghĩ về mặt học thuật. Tại phiên toà phúc thẩm nói riêng và tại các phiên toà dân sự nói chung, việc phát biểu của VKS về việc giải quyết vụ án có thể bao gồm cả việc đánh giá chứng cứ, tình tiết, sự kiện của vụ án và đường lối áp dụng để giải quyết. Nói cách khác, VKS cũng làm công tác như Toà án là tìm hiểu sự thật vụ án và nghiên cứu pháp luật để giải quyết vụ án. Như vậy, Kiểm sát viên cũng làm nhiệm vụ xét xử và kết quả là có sự chồng chéo về chức năng giữa Toà án và VKS. Việc phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án tại phiên toà phần nào đã làm mất đi bản chất của tranh luận trong tố tụng dân sự. Nên chăng, để bảo vệ trật tự công cộng, tính thống nhất của hệ thống pháp luật, VKS vẫn cần kiểm sát việc áp dụng và tuân thủ pháp luật của Toà án. Tuy nhiên, tại phiên toà phúc thẩm, VKS có quyền tham gia tranh luận trong trường hợp VKS kháng nghị, VKS chỉ phát biểu khi có những vi phạm về pháp luật tố tụng và sau phiên toà có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm, giám đốc thẩm về bản án khi Toà án áp dụng pháp luật sai hoặc có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. 2.5. Sửa đổi khoản 1 Điều 269 BLTTDS như sau: “ Nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm. 1- Trước khi mở phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không và tuỳ từng trường hợp mà giải quyết như sau: a) Bị đơn không đồng ý thì không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn; b) Bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp này, Hội đồng xét xử căn cứ vào quyết định của Toà án cấp sơ thẩm về án trong bản án sơ thẩm bị huỷ, Toà án phúc thẩm quyết định đương sự nào phải chịu án phí và mức án phí sơ thẩm. Đối với trường hợp này, các đương sự còn phải chịu một nửa án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.” III_ Kết thúc vấn đề. Phiên toà phúc thẩm dân sự có những ý nghĩa rất lớn cả về mặt chính trị, xã hội và pháp lý. Việc tiến hành tốt phiên toà phúc thẩm dân sự là một yêu cầu tất yếu khách quan đặt ra đối với hoạt động xét xử của Toà án. Từ khi BLTTDS 2004 được ban hành, các vấn đề tố tụng dân sự đã được bộ luật này quy định tường đối đầy đủ, cụ thể, tuy nhiên cũng vẫn còn một số tồn tại. Trên đây là một vài nghiên cứu của em về thủ tục tiến hành phiên toà phúc thẩm dân sự và một vài kiến nghị, hy vọng rằng bài nghiên cứu của em sẽ đóng góp một phần nào đó trong việc hoàn thiện pháp luật về thủ tục tiến hành phiên toà phúc thẩm nói riêng và hoàn thiện bộ luật tố tụng dân sự nói chung.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan