Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thơ tố hữu trong chương trình tiểu học...

Tài liệu Thơ tố hữu trong chương trình tiểu học

.PDF
102
26
76

Mô tả:

Trang 1 bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o tr­êng ®¹i häc s­ ph¹m hµ néi 2 PHÙNG THỊ HOA TH¥ Tè H÷U TRONG CH¦¥NG TR×NH TIÓU HäC luËn v¨n th¹c sÜ GI¸O DôC HäC HÀ NỘI, 2011 Trang 2 bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o tr­êng ®¹i häc s­ ph¹m hµ néi 2 PHÙNG THỊ HOA TH¥ Tè H÷U TRONG CH¦¥NG TR×NH TIÓU HäC Chuyªn ngµnh: Gi¸o dôc häc (BËc TiÓu häc) M· Sè: 601401 luËn v¨n th¹c sÜ GI¸O DôC HäC Ng­êi h­íng dÉn khoa häc TS. NguyÔn ThÞ TuyÕt Minh H NỘI, 2011 Trang 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong nền văn học dân tộc, văn học viết cho thiếu nhi là một bộ phận có vị trí rất quan trọng. Nó là phương tiện không thể thiếu trong việc bồi đắp làm giàu tâm hồn và xây dựng nhân cách mỗi con người ngay từ thuở ấu thơ, là hành trang cho các em trên suốt đường đời. Dòng văn học ấy phát triển mạnh mẽ song hành cùng với những cuộc kháng chiến cứu nước vĩ đại của dân tộc. Có thể kể đến những nhà văn, nhà thơ chuyên tâm cả đời sáng tác cho thiếu nhi như Tô Hoài, Phạm Hổ, Võ Quảng, Định Hải, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Nhật Ánh… Và còn rất nhiều nhà văn, nhà thơ tuy sáng tác cho nhiều đối tượng độc giả khác nhau vẫn dành tình cảm đặc biệt cho thiếu nhi như: Huy Cận, Đoàn Giỏi, Xuân Quỳnh..., trong số đó không thể không kể đến nhà thơ Tố Hữu. Với hàng chục tập thơ trải dọc theo đường đời, tương ứng với những chặng đường lớn của cách mạng Việt Nam như: Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa, Một tiếng đờn, Ta với ta, thơ Tố Hữu được xem là bộ biên niên sử bằng thơ của cách mạng Việt Nam. Thơ ông là tiếng ca vui của thời đại Hồ Chí Minh đấu tranh anh hùng và thắng lợi vẻ vang, là bài hát về những lẽ sống lớn, về ân tình cách mạng sâu nặng, về niềm tin cách mạng mới mẻ. Là đứa con của những cuộc đấu tranh, là người cổ động, người tuyên truyền của cách mạng, thơ Tố Hữu đã có sức cảm hoá, chinh phục được đông đảo quần chúng thanh thiếu niên đón nhận, say mê và đã góp vào hành trang tinh thần của nhiều thế hệ thanh thiếu niên Việt Nam trong thời kỳ dài suốt mấy mươi năm. Với vị trí cũng như sức mạnh của mình, thơ Tố Hữu vì thế có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hướng vận động chung của nền thơ cách mạng, đặc biệt là trong giai đoạn 1945 - 1975. Trang 4 Trong nhà trường, thơ Tố Hữu được giảng dạy từ cấp Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học phổ thông đến bậc Đại học. Thơ Tố Hữu đã tạo được niềm yêu mến, sự đam mê bền chắc trong lòng nhiều thế hệ độc giả. Vì vậy, việc nghiên cứu về thơ ông không chỉ đặt ra đối với giới phê bình, nghiên cứu mà còn với cả những người trực tiếp tham gia giảng dạy. Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài Thơ Tố Hữu trong chương trình Tiểu học với mong muốn được đóng góp một phần trong cái nhìn toàn diện về vị trí văn học sử của nhà thơ Tố Hữu. Đồng thời, là giáo viên Tiểu học, qua việc nghiên cứu này sẽ giúp tôi rất nhiều trong việc giảng dạy học sinh đọc và cảm thụ văn học góp phần bồi đắp cho các em tình yêu thơ ca, tình yêu Tổ quốc. 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đề tài Thơ Tố Hữu trong chương trình Tiểu học chúng tôi mong muốn có thêm được cái nhìn vừa cụ thể vừa đa dạng về giá trị nội dung, tư tưởng, giá trị giáo dục và giá trị nghệ thuật trong các tác phẩm của Tố Hữu, đặc biệt là những đoạn trích, những tác phẩm của nhà thơ được giảng dạy trong chương trình Tiểu học hiện nay. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Dựa trên nét đặc trưng phong cách thơ Tố Hữu, luận văn nghiên cứu những đoạn trích, những tác phẩm của nhà thơ được giảng dạy trong chương trình Tiểu học. Qua đó, thấy được những đóng góp to lớn về giá trị nội dung và nghệ thuật trong các sáng tác thơ của Tố Hữu. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những bài thơ của Tố Hữu được giảng dạy trong chương trình Tiểu học. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trang 5 - Những tài liệu nghiên cứu liên quan đến đặc trưng phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu. - Làm rõ nét đặc trưng phong cách thơ Tố Hữu. - Từ nét đặc trưng thơ Tố Hữu thấy được vẻ đẹp và giá trị giáo dục những bài thơ của ông trong chương trình Tiểu học. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn tập trung sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp thống kê, phân loại. - Phương pháp so sánh, đối chiếu. - Phương pháp phân tích tổng hợp. 6. Đóng góp mới của luận văn - Về lý luận: Làm rõ vẻ đẹp và giá trị giáo dục của thơ Tố Hữu trong chương trình Tiểu học. - Về thực tiễn: Từ việc tìm hiểu những đặc trưng thơ Tố Hữu, vận dụng vào quá trình dạy học phân môn Tập làm văn, Tập đọc, Chính tả, đặc biệt quá trình bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh Tiểu học. Trang 6 NỘI DUNG CHƯƠNG 1 TỐ HỮU TRONG NỀN THƠ CÁCH MẠNG VIỆT NAM 1.1. Tiểu sử, con người Tố Hữu Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 04 tháng 10 năm 1920. Quê ông ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế – mảnh đất giàu truyền thống lịch sử với một nền văn hóa bác học và nhiều sinh hoạt văn hóa cung đình. Huế là nơi phong cảnh hữu tình và là nơi sản sinh ra những điệu hò làm mê đắm lòng người như hò mái nhì, mái đẩy, điệu lý, điệu ca nam ai, nam bằng… Cha Tố Hữu vốn là một nhà Nho không đỗ đạt và phải chật vật kiếm sống bằng nhiều nghề nhưng lại ham thích văn thơ. Mẹ Tố Hữu là con của một cụ Tú, một phụ nữ xứ Huế giàu tình thương và thuộc nhiều tục ngữ, ca dao - dân ca. Tuổi thơ Tố Hữu đã được nuôi dưỡng bằng những câu ca, điệu hò quê hương mà trực tiếp qua giọng của mẹ, lại được người cha dạy làm thơ theo lối cổ ngay từ lúc 7, 8 tuổi. Gia đình và quê hương đã góp phần quan trọng hun đúc nên hồn thơ Tố Hữu. Ở cảnh ngộ riêng, tuổi thơ của Tố Hữu sớm phải chịu nhiều thiệt thòi, thiếu thốn về tình cảm: cha thường xuyên đi làm ăn xa, ông phải vào Đà Nẵng theo người anh để được đi học. Năm Tố Hữu 12 tuổi thì mẹ mất; 13 tuổi (1933) ông thi đỗ vào trường Quốc học Huế và hầu như sống tự lập từ đó. Cảnh ngộ tuổi thơ này như một ký ức cá nhân khiến tâm hồn nhà thơ Tố Hữu sau này luôn khát khao tình yêu thương, dễ rung động với những thân phận bất hạnh như: trẻ mồ côi, em bé đi ở hay gẩy đàn hát dạo, một chị vú em, một lão đầy tớ... Họ đều là những thân phận nghèo khổ, tủi cực trong cuộc đời. Ngay từ tuổi thanh niên, Tố Hữu đã sớm giác ngộ và tham gia hoạt động cách mạng. Đó là những năm phong trào Mặt trận dân chủ Đông Dương Trang 7 đang diễn ra sôi nổi trên khắp đất nước, đặc biệt là ở các thành phố lớn, lôi cuốn đông đảo tầng lớp nhân dân lao động, nhất là thanh niên, học sinh. Thành phố Huế lúc ấy là một trong những trung tâm sôi động nhất của phong trào Mặt trận Dân chủ. Được cuốn hút vào phong trào, năm 1936, Tố Hữu gia nhập Đoàn Thanh niên cộng sản. Ông được trực tiếp tiếp xúc với những chiến sĩ cộng sản lớn như Nguyễn Chí Diểu, Phan Đăng Lưu, Hải Triều, Lê Duẩn.....và chính họ đã nhóm lửa nhiệt tình cách mạng trong trái tim người thanh niên Tố Hữu. Tố Hữu trở thành người lãnh đạo chủ chốt của Đoàn Thanh niên dân chủ ở Huế, vừa hoạt động vừa sáng tác thơ ca. Năm 1937 ông đã có thơ đăng báo. Năm 1938, Tố Hữu gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1939 Tố Hữu bị bắt giam ở nhà lao Thừa Thiên Huế, rồi bị giải đến nhiều nhà tù ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên. Tháng 3 năm 1942, Tố Hữu vượt ngục thoát khỏi nhà tù Đắk Lay, tìm ra Thanh Hóa, bắt liên lạc với tổ chức Đảng và tiếp tục hoạt động cách mạng. Năm 1945, chuẩn bị Tổng khởi nghĩa, Tố Hữu được điều động trở lại Huế làm Chủ tịch ủy ban khởi nghĩa giành chính quyền tại thành phố quê hương. Cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Tám thành công, Tố Hữu tiếp tục đảm nhận những trọng trách trong chính quyền Cách mạng ở Huế (làm Bí thư xứ ủy Trung Kỳ) đồng thời làm nhiệm vụ tổng hợp đội ngũ văn nghệ sỹ, trí thức đến với cách mạng . Sau đó ông lên chiến khu Việt Bắc rồi trở về Hà Nội giữ nhiều cương vị và trọng trách khác nhau trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Nhưng dù ở cương vị và trọng trách nào, ông vẫn thể hiện được phẩm chất của một người chiến sỹ cách mạng. Đương thời ông từng giữ những trọng trách: Trưởng ban Tuyên huấn, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên bộ chính trị và Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (tương đương Phó thủ tướng Chính phủ). Trang 8 Năm 1986 ông nghỉ hưu. Cũng từ năm 1986 về sau, nhiều tác phẩm của Tố Hữu được xuất bản (và tái bản) gồm: - Phấn đấu vì một nền văn nghệ xã hôi chủ nghĩa (Tiểu luận - NXB Sự thật, Hà Nội 1986). - Tố Hữu – Trăm bài thơ (NXB Văn học, Hà Nội 1987). - Một tiếng đờn (Tuyển tập - NXB Văn học, Hà Nội 1992). - Đợi anh về (Thơ dịch – NXB Giáo dục, Hà Nội 1999). - Tố Hữu (Tuyển thơ – NXB Giáo dục, Hà Nội 1998). - Ta với ta ( Tập thơ - NXB Văn học, Hà Nội 2000). - Nhớ lại một thời (Hồi ký – NXB, Hội nhà văn Hà Nội 2000). Trong sự nghiệp sáng tác thơ của mình, Tố Hữu đã được trao tặng nhiều giải thưởng văn học cao quý: - Giải nhất cho tập thơ Việt Bắc của Hội nhà văn Việt Nam (1954 1955). - Giải thưởng Văn học Đông Nam Á cho tập thơ Một tiếng đờn (1996). - Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật đợt I (1996). Nhà thơ Tố Hữu từ trần ngày 09 tháng 12 năm 2002 tại Hà Nội. Có thể nói, điểm nổi bật ở con người Tố Hữu là sự thống nhất giữa nhà cách mạng và nhà thơ, giữa con đường cách mạng và con đường thơ. Sự gặp gỡ với lý tưởng của Đảng Cộng sản không chỉ quyết định đường đời của một con người mà còn quyết định con đường và toàn bộ sự nghiệp sáng tác của một nhà thơ. 1.2. Con đường thơ Tố Hữu Về nhà thơ Tố Hữu, nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai từng nhận định: “Tố Hữu là nhà thơ chỉ viết để phục vụ cách mạng, từ trước tới sau. Đó là vinh dự và Trang 9 cũng là đặc sắc của thơ Tố Hữu ”. Quả thật, Tố Hữu được mệnh danh là người biên niên sử hiện đại Việt Nam bằng thơ. Thơ với ông là một phần của sự nghiệp cách mạng, phục vụ cho lý tưởng cách mạng. Con đường thơ của Tố Hữu, do đó, song hành với con đường cách mạng của tác giả và gắn bó mật thiết với các chặng đường của cuộc đấu tranh cách mạng trên đất nước ta suốt hơn nửa thế kỷ kể từ thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936 - 1939). Con đường thơ ấy phản ánh quá trình hoạt động của một hồn thơ, đồng thời cũng phản ánh sự vận động của lịch sử với những biến cố lớn lao, những vấn đề trọng yếu của thời đại và âm vang của nó trong đời sống tinh thần của con người thời đại ấy. Con đường thơ Tố Hữu vừa giúp độc giả hình dung về một thời kỳ đầy biến động và cũng đầy anh hùng của lịch sử dân tộc, vừa cho thấy chân dung của một nhà thơ – chiến sỹ của thời đại. Thơ của Tố Hữu gồm 7 tập và được chia thành năm chặng đường. 1.2.1. Chặng 1: Tập thơ đầu - Từ ấy (1937-1946) Đây là chặng đầu mười năm thơ Tố Hữu cũng là mười năm hoạt động sôi nổi, say mê từ giác ngộ qua thử thách đến trưởng thành của một người thanh niên cách mạng trong một giai đoạn lịch sử lịch sử đầy sôi động: phong trào chống Phát xít trên thế giới đang phát triển mạnh, cuộc cách mạng dân chủ trong nước đang ở giai đoạn cao trào, tất cả làm rung chuyển và đổi thay sâu sắc xã hội Việt Nam. Riêng với Tố Hữu, sự ra đời của tập thơ Từ ấy là một mốc quan trọng, là giao điểm đầy ý nghĩa giữa cách mạng – tuổi trẻ và thi ca, ấy là thời kỳ ông bắt gặp lý tưởng cách mạng và trở thành người chiến sĩ cộng sản. Ban đầu tập thơ có tên là Thơ do Hội văn hóa cứu quốc ấn hành năm 1946. Trong lần tái bản có sửa chữa năm 1959 mới được đặt tên Từ ấy. Trang 10 Tập thơ gồm 71 bài (theo bản in năm 1959), được cấu trúc thành ba phần tương ứng với ba chặng đường hoạt động trong mười năm đầu của người thanh niên cách mạng Tố Hữu. Máu lửa: Là niềm vui phơi phới, là tiếng reo ca náo nức của một tâm hồn trẻ đang băn khoăn đi tìm chân lý sống thì gặp gỡ lý tưởng cách mạng mà nhà thơ hình dung là “mặt trời chân lý”: Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lý chói qua tim Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim (Từ ấy) Gặp gỡ lý tưởng cách mạng, được ánh sáng lý tưởng chiếu rọi, khiến tâm hồn người thanh niên Tố Hữu bừng nở một thế giới đầy hương sắc, tràn trề sức sống và niềm vui. Sự gặp gỡ lý tưởng đã làm thay đổi căn bản mối quan hệ giữa con người với toàn bộ thế giới, đem lại sự gắn bó ruột thịt giữa nhà thơ với muôn người lao khổ để tạo thành sức mạnh. Từ đây xuất hiện một cái tôi trữ tình kiểu mới trong thơ Tố Hữu: “cái tôi” tự ý thức sâu sắc về mình, đồng thời là cái tôi gắn bó với muôn người, ở giữa mọi người. Niềm vui tràn trề của một tâm hồn trong trạng thái bừng ngộ hòa vào niềm hân hoan của một thế hệ thanh niên cách mạng tạo nên một cảm xúc ngây ngất say mê: Ồ vui qúa! Rộn ràng trên vạn nẻo Bốn phương trời vào theo dấu muôn chân Cũng như tôi tất cả tuổi đương xuân Chen bước nhẹ trong gió đầy ánh sáng (Hy vọng) Bên cạnh những tiếng reo ca náo nức của tâm hồn trẻ gặp gỡ được ánh sáng cách mạng, độc giả còn bắt gặp trong những trang thơ của Tố Hữu một Trang 11 tâm hồn giàu cảm thông, sẵn sàng chia sẻ với những con người nhỏ bé ở quanh mình với những nỗi buồn tủi, cô đơn, đau khổ. Những sáng tác thơ đầu tiên như Mồ côi, Tương tri, Đi đi em... là những bài thơ của tình yêu thương đối với những người lao động nghèo khổ trước hết là những trẻ em không nơi nương tựa. Mỗi em nhỏ đều có cảnh đời đáng thương. Mỗi bài thơ là một tình yêu thương, một lời căn dặn, một lời khích lệ chân tình đối với những em nhỏ, những cánh chim non không tổ bơ vơ. Không thoáng qua, vô tình mà sâu xa, tình cảm ấy gắn bó với một quan niệm nhân sinh, một triết lý sống, một chỗ đứng chan hòa với quần chúng lao khổ: Tôi đã là con của vạn nhà Là em của vạn kiếp phôi pha Là anh của vạn đầu em nhỏ Không áo cơm cù bất cù bơ (Từ ấy) Nhà thơ nguyện đứng bên cạnh những người bạn đời nghèo khổ, đói rét ngay cả trong những ngày đen tối nhất của mùa xuân Ất Dậu: Lòng ưu tư giá lạnh như chiều nay Hãy đưa tôi nắm chặt lấy bàn tay của bạn Trong mưa phùn gió rét (Xuân đến) Những câu thơ cho thấy tấm lòng nhân ái sâu sắc của tác giả. Cảm thương cho số phận những con người nhỏ bé, Tố Hữu sẵn sàng sẻ chia với những đau khổ của những chị vú em, ông lão đầy tớ, và hơn hết là thân phận những cô gái giang hồ không may rơi vào cảnh ngộ tủi nhục xót xa: Trời ơi biết đến khi mô Thân em hết nhục dày vò năm canh Tình ơi gian dối là tình Trang 12 Thuyền em rách nát còn lành được không? (Tiếng hát sông Hương) Câu thơ như chất chứa bao nỗi tủi nhục, xót xa của thân phận những cô gái ở dưới đáy xã hội. Nhưng Tố Hữu không chỉ thương xót, lý tưởng cách mạng đã cho ông cái nhìn biện chứng đầy lạc quan về những điều tươi sáng của tương lai phía trước. Và những số phận cô gái như thế sẽ được tái sinh trong xã hội “ngày mai”: Ngày mai gió mới ngàn phương Sẽ đưa cô tới một vườn đầy xuân Ngày mai trong giá trắng ngần Cô thôi sống kiếp đày thân giang hồ Rõ ràng, Tố Hữu đã cho thấy mối liên hệ giữa cá nhân với lịch sử cách mạng. Hãy đến với cách mạng! Chỉ có cách mạng mới có đủ sức mạnh giải phóng cho những cuộc đời như thế. Cách mạng sẽ đem lại cho con người niềm hy vọng, lạc quan. Xiềng xích: Gồm những bài thơ được tác giả sáng tác trong ba năm bị giam cầm, đày ải trong nhà tù thực dân. Tố Hữu gia nhập Đảng vào tháng 7 năm 1938, đang say sưa hoạt động thì đến tháng 4 năm 1939 bỗng bị bắt và bị ném vào trong xà lim chật hẹp ngăn cách với cuộc sống bên ngoài, bị chuyển qua nhiều nhà lao khác nhau từ Thừa Thiên (1939 - 1940), Lao Bảo (1940 1941) rồi Quy Nhơn (1941 - 1944) và sau đó bị đày lên vùng rừng núi Tây Nguyên….Người thanh niên ấy không thể không thấm thía nỗi cô đơn vì phải xa phong trào, xa những người đồng chí. Tâm hồn nhạy cảm của Tố Hữu luôn hướng vào cuộc sống bên ngoài nhà tù, lắng nghe và đón nhận từng âm thanh của cuộc sống thiên nhiên và con người, từ một “tiếng dơi chiều đập cánh”, “tiếng lạc ngựa rùng chân bên giếng lạnh”, “tiếng guốc đi về” trên phố vắng, “tiếng chim tu hú” gọi vào hè… để rồi càng cháy bỏng nỗi khát khao tự do và Trang 13 sục sôi ước muốn được hoạt động. Những bài thơ: Tâm tư trong tù, Nhớ đồng, Nhớ người, Khi con tu hú….cho ta thấm thía tâm trạng đó của tác giả. Xiềng xích còn là một bản “quyết tâm thư” của người chiến sỹ cách mạng quyết giữ vững ý chí chiến đấu trước mọi gian nguy, thử thách: Tôi sẽ cười như kẻ sẵn lòng tin Giữ trinh bạch linh hồn trong bụi bẩn (Tâm tư trong tù) Suốt ba năm bị giam cầm, đày ải trong nhà tù thực dân, nếm trải nhiều gian nguy, có lúc cận kề bên cái chết, tinh thần và ý chí của người thanh niên cách mạng không vì thế mà mất đi, trái lại nó được tôi rèn để càng trở nên vững vàng, trong sáng. Con cá chột nưa là một thi phẩm thể hiện chân thật cuộc đấu tranh nội tâm của người tù để giữ vững khí tiết cách mạng; Tranh đấu và Giờ quyết định lại thể hiện hình ảnh và sức mạnh của tập thể những người tù cách mạng gắn bó thành một khối thống nhất, không lùi bước trước sự đàn áp khủng bố tàn bạo của kẻ thù; Trăng trối là những lời tha thiết, chân thành mà người thanh niên cách mạng muốn giữ lại cho đời, cho đồng chí dù “phút chết đã kề bên”: Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu Dấn thân vô là phải chịu tù đày Là gươm kề tận cổ súng kề tai Thân sống chỉ coi còn một nửa Bao khổ ấy thôi cần chi nói nữa… Bạn đời ơi! Ta đã hiểu nhau rồi Tố Hữu biết rõ dấn thân vào hoạt động cách mạng dưới chế độ thực dân phong kiến chắc chắn là phải chịu mọi gian khổ, thậm chí cả hy sinh. Nhưng nhà thơ vẫn sẵn sàng: Sống đã vì cách mạng anh em ta Trang 14 Chết cũng vì cách mạng chẳng phiền hà. (Trăng trối) Ở đây vấn đề “sống” và “chết” trong đấu tranh cách mạng đã được Tố Hữu đặt ra mang những ý tưởng mới mẻ dựa trên sự kế thừa quan niệm đạo lý, đạo đức trong văn thơ cổ “chết vinh hơn sống nhục”. Nhưng điều đáng nói là vấn đề tác giả đặt ra không chỉ chung chung mà là một nguyên tắc sống của người chiến sỹ cách mạng bằng những tấm gương cao đẹp của những cuộc đời đã hy sinh cho cách mạng như Bà má Hậu Giang, như người mẹ miền Nam quả cảm… Một điều đặc biệt đáng quý ở Xiềng xích là trải qua cảnh tù đày khốc liệt, tâm hồn người cách mạng trẻ tuổi vẫn nguyên sự nhạy cảm, tinh tế, càng giàu tình thương và luôn tha thiết với cuộc sống trong từng trạng thái bình dị và gần gũi, càng tha thiết với con người, với cuộc đời. Thoáng nghe mấy tiếng rao đêm lọt vào nhà lao Quy Nhơn, Tố Hữu hình dung ngay ra hình ảnh của em bé bán bánh: Anh thấy em, mình gió thổi nghiêng nghiêng Như cây dương liễu nhỏ tóc chưa viền Manh áo mỏng che em không kín ngực. (Một tiếng rao đêm) Trong cảnh tù đày, vất vả trên đường chuyển lao từ thành phố Quy Nhơn lên miền thượng Tây Nguyên, Tố Hữu nhìn mọi cảnh vật quen thuộc bỗng trở nên xiết bao thân thiết, mang lại cho người tù biết bao xúc cảm sâu sắc, muốn lưu giữ mãi những hình ảnh ấy trong tâm trí: Đường qua mấy phố Quy Nhơn Nhà sao trông lại yêu hơn mọi lần Người đi quần áo chen chân Ồ sao như đã quen thân từ nào? (Tiếng hát đi đày) Trang 15 Niềm căm hận kiếp tù đày, khát vọng tự do và ước muốn được hoạt động, tất cả đã dồn tụ trong lòng người chiến sỹ cách mạng để thổi bùng lên một quyết tâm hành động vượt ngục: Núi hỡi! Từ đây băng xuống đó Trải bao nhiêu dặm, mấy đêm trường? (Tiếng hát đi đày) Giải phóng: Gồm những bài thơ Tố Hữu sáng tác sau khi ra tù và tham gia hoạt động cách mạng đến kỷ niệm 1 năm ngày Quốc khánh (2/9/1946). Trong không khí sục sôi của Cách mạng tháng Tám và trong niềm hân hoan tưng bừng của độc lập, tự do, hồn thơ Tố Hữu như được chắp cánh bay bổng trong cảm hứng lãng mạn say sưa với niềm vui lớn của cả dân tộc, trong cuộc hồi sinh của đất nước. Bài thơ Huế tháng Tám ghi lại những hình ảnh kinh thành Huế trong từng giờ phút lịch sử trọng đại, ngày 23/8/1945 khi chính quyền về tay nhân dân. Cảm hứng lãng mạn tràn đầy đã khiến tác giả Từ ấy sáng tạo những hình ảnh vừa lớn lao, bay bổng, vừa kỳ ảo như “một thoáng siêu thực” (Xuân Diệu): Ngực lép bốn nghìn năm, trưa nay cơn gió mạnh Thổi phồng lên. Tim bỗng hóa mặt trời Có con chim nào trong tóc nhảy nhót hót chơi Ha! Nó hót cái gì vui vui nghe thiệt ngộ! Gió ơi gió! Hãy làm giông làm tố Cuốn tung lên cờ đỏ máu thơm tươi Vàng vàng bay, đẹp quá, sao sao ơi! Ta ngã vật trong lòng người cuộn thác Ôi thiên đường! Tai miên man lắng nhạc Từ muôn phương theo gót nện rầm rầm Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam muôn năm! (Huế tháng Tám) Trang 16 Và một năm sau, hòa vào dòng người trong đêm hội của Lễ kỷ niệm ngày độc lập ở Hà Nội, Tố Hữu vẫn sống với cảm hứng say sưa, sôi trào như muốn bay lên: Ta hát suốt đêm nay vui bất tuyệt Trống rung tim ta đập nhịp bồn chồn Đầu ta qua lớp lớp khải hoàn môn Hồn ta chạy sáng ngời trên ngọn đuốc Lòng ta múa lồng lên theo đám rước Ta xông lên trời với pháo thăng thiên Bay bay lên, hỡi đôi cánh thần tiên Đôi cánh mở của đất trời giải phóng (Vui bất tuyệt) Về nghệ thuật, Từ ấy là một thành công xuất sắc của văn học cách mạng đương thời và còn là một hiện tượng nghệ thuật đặc sắc của nền thơ ca hiện đại. Đặt nó trong bối cảnh thơ ca đương thời, xem xét mối tương quan của nó với phong trào Thơ mới, sẽ càng thấy rõ vị trí đặc biệt của tập thơ. Ở Từ ấy có sự gần gũi với Thơ mới trước hết ở thi pháp mà điểm đầu tiên có thể thấy chính là sự hiện diện của cái tôi – cái tôi trong suy nghĩ, xúc cảm, vui buồn, cái tôi có mặt với nhiều sắc thái thẩm mỹ. Tố Hữu đã tiếp nhận thành tựu của Thơ mới và biến nó thành phương tiện hữu hiệu để thể hiện tư tưởng, tình cảm cách mạng. Về ngôn ngữ, tập thơ rất giàu nhạc điệu. Tố Hữu quý trọng và yêu thích sự phong phú về nhạc điệu của ngôn ngữ dân tộc nên nhạc điệu của Từ ấy được tổ chức theo nhịp và ngân theo nhạc điệu của ngôn ngữ dân tộc, tạo tính trữ tình, mềm mại và gợi cảm mà vẫn đảm bảo sự chân thực, gần gũi với cuộc đời theo cách riêng. Từ ấy là tập thơ đầu, có vị trí đặc biệt trong con đường thơ của Tố Hữu. Tập thơ chứa đựng những rung động chân thành, niềm say mê trong trẻo Trang 17 của một tâm hồn trẻ ở đầu đến với lý tưởng cách mạng và với thơ ca. Là tập thơ đầu tay của một cây bút trẻ chưa thể đạt tới sự già dặn thành thục nên hạn chế còn tồn tại là điều khó tránh. 1.2.2. Chặng 2: Việt Bắc ( 1947 - 1954) Tập thơ in lần đầu vào cuối năm 1954, gồm 24 bài được tác giả sáng tác trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (trong đó có năm bài dịch thơ nước ngoài). Trong những lần in sau, Tố Hữu có bổ sung bốn bài được viết năm 1946 chưa đưa vào tập Từ ấy là: Đêm xanh, Lạnh nhạt, Trường tôi, Tình khoai sắn. Việt Bắc đánh dấu chặng thứ hai trên con đường thơ của Tố Hữu. Ở đây, tiếng nói say mê lý tưởng sôi nổi từng xuất hiện ở tập thơ Từ ấy trở nên trầm lắng hơn, nhường chỗ cho tiếng nói của một người cán bộ. Việt Bắc thể hiện sự chuyển biến mạnh mẽ của thơ Tố Hữu theo hướng dân tộc và đại chúng, điều này là hoàn toàn phù hợp với phương châm của nền văn nghệ thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Nếu như ở Từ ấy nhân vật trữ tình xuất hiện với tư cách cái tôi cá nhân tự ý thức thì đến Việt Bắc đó chính là cái tôi trữ tình nhập vai quần chúng và đến những bài thơ ở cuối tập thơ Việt Bắc, cái tôi trữ tình lại mang hình ảnh của cái tôi sử thi khái quát cho nhân dân, dân tộc, cách mạng…thể hiện niềm vui bất tận trong ngày chiến thắng. Việt Bắc là hình ảnh, tâm tình, tiếng nói của quần chúng nhân dân thể hiện tình cảm sâu sắc, sự ngợi ca của nhà thơ với những con người kháng chiến. Đó là hình ảnh anh Vệ quốc quân hiền lành đã làm nên chiến thắng Việt Bắc vang dội: ...Giọt giọt mồ hôi rơi Trên má anh vàng nghệ Anh Vệ quốc quân ơi Sao mà yêu anh thế! Trang 18 Tôi nhích lại gần anh Người bạn đường dũng cảm Anh chiến sỹ hiền lành Tì tay trên mũi súng (Cá nước) Là hình ảnh chị nông dân con mọn vượt lên những gian khổ thiếu thốn, hăng hái tham gia công tác kháng chiến: Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế Gió qua rừng Đèo Khế gió sang... Em là cô gái Bắc Giang Rét thì mặc rét, việc làng em lo Nhà em phơi lúa chưa khô Ngô chửa vào bồ, sắn thái chưa xong Nhà em con bế con bồng Em cũng theo chồng đi phá đường quan (Phá đường) Đó còn là những người mẹ nông dân chất phác gắn bó nghĩa tình với kháng chiến, hòa làm một tình thương con với lòng yêu nước sâu đằm. Tố Hữu ngợi ca bà mẹ đó trong hình ảnh Bà mẹ Việt Bắc ngồi kể “chuyện nhà chuyện cửa” bên bếp lửa, trên nhà sàn; trong hình ảnh “Bà bủ nằm ổ chuối khô” nhớ con đi bộ đội: Năm xưa cơm củ ngon chi Năm nay cơm gié nhà thì vắng con! (Bà Bủ) Hình ảnh bà Bầm suốt đời thắt lưng buộc bụng đã sinh ra những đứa con bộ đội anh dũng tuyệt vời: Con đi trăm núi ngàn khe Trang 19 Chưa bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm Con đi đánh giặc mười năm Chưa bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi. (Bầm ơi) Là em bé liên lạc hồn nhiên, anh dũng ngã xuống trên cánh đồng quê hương dưới làn đạn giặc mà linh hồn và hình ảnh của em vẫn còn mãi với quê hương đất nước: Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh Ca lô đội lệch Mồm huýt sáo vang Như con chim chích Nhảy trên đường vàng. (Lượm) Có thể thấy, ở đây, cái tôi trữ tình của nhà thơ đã hóa thân vào các nhân vật quần chúng hoặc có hiện diện thì cũng chỉ là một đường viền để làm nổi bật hình ảnh những con người quần chúng, trực tiếp bày tỏ lòng yêu mến và cảm phục với họ trong sự thân thiết của tình đồng chí, đồng bào. Việt Bắc thể hiện sâu sắc tình yêu nước, là “ khúc trường ca của tình quê hương đất nước” (Hoài Thanh). Tình cảm ấy được biểu hiện phong phú, sâu sắc trong nhiều trạng thái đa dạng. Đó là nghĩa tình gắn bó giữa hậu phương với tiền tuyến được biểu hiện trong niềm nhớ thương của những bà mẹ nông dân với đứa con Vệ quốc quân; là tình cảm “ Cá nước” của người cán bộ với anh bộ đội chỉ qua một lần gặp gỡ tình cờ trên đường kháng chiến; là mối tình gắn bó keo sơn giữa miền ngược với miền xuôi; là lòng biết ơn Trang 20 sâu nặng của người cán bộ với đồng bào Việt Bắc; và trên hết là lòng kính yêu của nhân dân với vị lãnh tụ Hồ Chí Minh. Đó còn là tình cảm với vẻ đẹp thiên nhiên và cuộc sống sinh hoạt thắm thiết nghĩa tình của con người Việt Nam từ làng quê đến vùng rừng núi chiến khu. Thiên nhiên đất nước hiện lên với nhiều cảnh sắc, trong mọi thời khắc ở cả bốn mùa, trong đời sống hàng ngày và cả trong những sinh hoạt kháng chiến. Bức tranh “tứ bình” vừa đẹp, vừa giản dị đã phác họa chân xác và thành công vẻ đẹp về thiên nhiên và con người Việt Bắc: Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung (Việt Bắc) Và mỗi khi “ Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”, vang vọng đâu đây âm thanh quen thuộc của cuộc sống con người, âm thanh của “tiếng mõ rừng chiều, chày đêm nện cối đều đều suối xa ”; lại có những cảnh rộn rã, tấp nập của sinh hoạt kháng chiến của cơ quan lớp học i tờ…và hình ảnh hào hùng của những đoàn dân công, bộ đội đi chiến dịch để cứu nước nhà. Đó còn là lòng tự hào dân tộc gắn liền với ý thức làm chủ của quần chúng nhân dân khi đất nước giành được thắng lợi, hòa bình: Của ta, trời đất, đêm ngày Núi kia, đồi nọ, sông này của ta! (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên)
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất