Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thơ nguyễn duy từ cảm hứng đến giọng điệu...

Tài liệu Thơ nguyễn duy từ cảm hứng đến giọng điệu

.PDF
74
111
128

Mô tả:

Header Page 1 of 95. Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2 TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN -----------***---------- VĂN THỊ HÀ THƠ NGUYỄN DUY TỪ CẢM HỨNG ĐẾN GIỌNG ĐIỆU KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam HÀ NỘI - 2010 Văn Thị Hà Footer Page 1 of 95. 1 K32C – Ngữ văn Header Page 2 of 95. Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2 TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN -----------***---------- VĂN THỊ HÀ THƠ NGUYỄN DUY TỪ CẢM HỨNG ĐẾN GIỌNG ĐIỆU KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Người hướng dẫn khoa học ThS. LA NGUYỆT ANH HÀ NỘI - 2010 Văn Thị Hà Footer Page 2 of 95. 2 K32C – Ngữ văn Header Page 3 of 95. Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2 LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã nhận được sự động viên, giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo, bạn bè, người thân. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới Thạc sỹ - Giảng viên La Nguyệt Anh, người đã hết lòng giúp đỡ, hướng dẫn tôi hoàn thành khoá luận này. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo tổ Văn học Việt Nam cũng như các các thầy cô giáo trong khoa Ngữ Văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình nghiên cứu, học tập. Hà Nội, tháng 5, năm 2010 Sinh viên Văn Thị Hà Văn Thị Hà Footer Page 3 of 95. 3 K32C – Ngữ văn Header Page 4 of 95. Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2 LỜI CAM ĐOAN Dưới sự hướng dẫn của cô giáo Thạc sỹ La Nguyệt Anh - Giảng viên khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, tác giả khoá luận đã hoàn thành đề tài “Thơ Nguyễn Duy - từ cảm hứng đến giọng điệu”. Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi không trùng với kết quả nghiên cứu của bất kỳ tác giả nào khác. Tôi xin cam đoan những điều trên là đúng sự thực. Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm. Hà Nội, tháng 5, năm 2010 Sinh viên Văn Thị Hà Văn Thị Hà Footer Page 4 of 95. 4 K32C – Ngữ văn Header Page 5 of 95. Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề .................................................................................... 3 3. Mục đích nghiên cứu .......................................................................... 6 4. Nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................... 6 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................... 6 6. Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 7 7. Đóng góp của khoá luận ..................................................................... 7 8. Bố cục của khoá luận .......................................................................... 7 NỘI DUNG ........................................................................................... 8 Chương1: Những vấn đề chung ........................................................... 8 1.1. Giới thuyết chung về khái niệm ....................................................... 8 1.1.1. Cảm hứng và các biến thể của cảm hứng ...................................... 8 1.1.1.1. Cảm hứng . ................................................................................ 8 1.1.1.2. Các biến thể của cảm hứng ........................................................ 9 1.1.2. Giọng điệu nghệ thuật và giọng điệu nghệ thuật trong thơ ............ 9 1.1.2.1. Giọng điệu nghệ thuật ................................................................ 9 1.1.2.2. Giọng điệu nghệ thuật trong thơ .............................................. 11 1.2. Cảm hứng và giọng điệu thơ Việt Nam hiện đại trước và sau 1975 ..... 11 1.2.1. Thời đại và ảnh hưởng của thời đại đến cảm hứng sáng tác và giọng điệu nghệ thuật ................................................................. 11 1.2.2. “Tiềm lực” trong thơ Nguyễn Duy.............................................. 15 Chương 2: Cảm hứng trong thơ Nguyễn Duy .................................. 19 2.1. Cảm hứng chủ đạo trong thơ Nguyễn Duy là cảm hứng triết lý ..... 19 2.2. Biểu hiện của cảm hứng triết lý trong thơ Nguyễn Duy ................. 20 2.2.1. Triết lý nhân sinh ........................................................................ 21 Văn Thị Hà Footer Page 5 of 95. 5 K32C – Ngữ văn Header Page 6 of 95. Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2 2.2.1.1. Về cuộc sống .......................................................................... 21 2.2.1.2. Về nhân dân ............................................................................. 26 2.2.1.3. Về tình yêu .............................................................................. 32 2.2.2. Triết lý về nghệ thuật .................................................................. 36 2.2.2.1. Về cái Đẹp trong sáng tạo nghệ thuật....................................... 36 2.2.2.2. Về chủ thể sáng tạo nghệ thuật ................................................ 40 Chương 3: Giọng điệu nghệ thuật trong thơ Nguyễn Duy ............... 45 3.1. Giọng điệu đặc trưng trong thơ Nguyễn Duy . ............................... 45 3.2. Sắc thái giọng điệu trong thơ Nguyễn Duy .................................... 46 3.2.1. Giọng điệu châm biếm, hài hước, bỡn cợt................................... 46 3.2.2. Giọng điệu suy tư, xót xa, chiêm nghiệm .................................... 55 KẾT LUẬN ......................................................................................... 64 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 65 Văn Thị Hà Footer Page 6 of 95. 6 K32C – Ngữ văn Header Page 7 of 95. Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài “Gió mùa thu mẹ ru con ngủ 1.1. Năm canh dài thao thức cả năm canh” (Ca dao) Những câu hát ru nhẹ nhàng vừa bay bổng theo cánh cò ra những cánh đồng xanh bát ngát đến tận miền tương lai, vừa lặn lội trong những vất vả, gieo neo nơi quê nhà nghèo túng, vừa vịn tựa vào những ngọt ngào sau bao nỗi đắng cay của kiếp người, vừa ghi xương khắc cốt những bài học đạo lý làm người. Từ khúc hát ru ấy những con người Việt Nam đã lớn lên và vững vàng hơn trên dòng đời xuôi ngược. Có lẽ cũng chính bởi sự gắn bó đó mà thơ ca đã đi vào lòng những con người Việt Nam nhẹ nhàng như những cái gì gần gũi nhất, tạo ra một mạch ngầm thơ văn trải dài suốt 4000 năm dựng nước và giữ nước. Từ sự ra đời của “Nam Quốc Sơn Hà” đến “Bình Ngô đại cáo” đến những vần thơ ra trận, trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, nhiều tác phẩm thơ xuất sắc đã góp phần tích cực vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và lưu giữ tính cách, tâm hồn con người Việt Nam. Và cho đến bao giờ thơ văn còn là tấm gương phản chiếu hiện thực, người nghệ sĩ còn là người thư ký trung thành của thời đại và “chan hoà nghệ thuật như ánh sáng chan hoà vào pha lê” (Bêlinxki) thì tên tuổi của nhà văn còn sống mãi trong lòng bạn đọc. 1.2. Làm nên phong cách nghệ thuật của nhà thơ, nhà văn là rất nhiều các yếu tố khác nhau, trong đó không thể không kể đến cảm hứng sáng tác và giọng điệu nghệ thuật. Cảm hứng và giọng điệu là các thành tố, các cấp độ của sáng tạo nghệ thuật. Ở mỗi cấp độ, mỗi thành tố lại là một chỉnh thể trong hệ thống nghệ thuật toàn vẹn. Và giữa chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Nghiên cứu, tìm hiểu cảm hứng, giọng điệu thơ ca sẽ có điều kiện tìm hiểu quy luật hoạt động sáng tạo nghệ thuật và sức sáng tạo của Văn Thị Hà Footer Page 7 of 95. 7 K32C – Ngữ văn Header Page 8 of 95. Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2 nghệ thuật. Vì vậy, tìm hiểu phong cách nghệ thuật của một nhà văn, nhà thơ không thể không tìm hiểu cảm hứng sáng tác và giọng điệu nghệ thuật đặc biệt trong sáng tác của nhà thơ ấy. 1.3. Giản dị, chân thành, tự nhiên chính là điều rất dễ nhận ra ở thơ Nguyễn Duy. Cội nguồn của nét riêng độc đáo ấy là do thơ ông bám rất sâu, rất chắc vào đời sống dân tộc như nhà thơ nói: “tôi viết bằng hồn dân, tình dân và ngôn ngữ dân”. Nguyễn Duy làm thơ từ rất sớm. Tác phẩm đầu tay của ông là bài thơ “Trên sân trường” được viết từ những năm sáu mươi, khi đang còn là một học sinh Phổ thông ở trường Lam Sơn, Thanh Hoá. Nhưng phải mãi đến năm 1973, ông mới thực sự được biết đến với chùm thơ đoạt giải nhất cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ: Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông, Tre Việt Nam. Và cũng bắt đầu từ đấy chúng ta có Nguyễn Duy, một thi sỹ đặc sắc cuối những năm chiến tranh và lai rực rỡ trong hoà bình. Cầm bút hơn ba mươi năm, sáng tác đều đặn cả thời chiến và thời bình với 11 tập thơ: Cát trắng (1973), Ánh trăng (1984), Mẹ và em (1987), Đãi cát tìm vàng (1987), Đường xa (1989), Quà tặng (1990), Sáu và tám (1994), Về (1994), Vợ ơi (1995), Tình tang (1995), Bụi (1997). Ngoài ra ông còn có ba tập bút ký, một tiểu thuyết và một số bài viết trên báo và tạp chí, đã khẳng địnhvị trí cũng như những đóng góp của ông đối với nền văn học nước nhà. Trong sự phát triển của văn học hiện đại, đặc biệt là của văn xuôi thơ có phần bị thu hẹp nhưng sức viết của Nguyễn Duy không vì thế mà bị vơi cạn, nguồn thơ Nguyễn Duy vẫn bám chắc từ đời sống hiện thực hàng ngày và nóng hổi thời sự. Nguyễn Duy đã trở thành một hiện tượng nổi bật của đời sống văn học hiện đại và thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu. 1.4. Hiện nay Nguyễn Duy có tới ba tác phẩm ( Tre Việt Nam, Hơi ấm ổ rơm, Ánh trăng)) được lựa chọn giảng dạy trong Chương trình Phổ thông và một tác phẩm đọc thêm (Đò Lèn). Chíng vì vậy, lựa chọn đề tài: “Thơ Nguyễn Duy - từ cảm hứng đến giọng điệu”, chúng tôi hi vọng góp phần Văn Thị Hà Footer Page 8 of 95. 8 K32C – Ngữ văn Header Page 9 of 95. Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2 xác định cơ sở khoa học để đánh giá những đặc sắc trong thơ Nguyễn Duy đồng thời phục vụ cho công tác giảng dạy sau này. 2. Lịch sử vấn đề Sự xuất hiện của thơ Nguyễn Duy đã góp vào nền thơ ca chống Mỹ một bản sắc riêng, một phong cách nghệ thuật độc đáo. Thơ Nguyễn Duy đã thu hút sự chú ý của nhiều độc giả yêu thơ và giới phê bình. Cho đến nay vẫn chưa có những công trình nghiên cứu quy mô về tác giả này, nhưng một số bài viết của những nhà phê bình có uy tín đã khẳng định vị trí xứng đáng của Nguyễn Duy trong mặt bằng thơ chống Mỹ nói riêng và thơ ca Việt Nam nói chung. Hoài Thanh là một trong những người đầu tiên phát hiện tài năng thơ Nguyễn Duy qua chùm thơ ông gửi đăng trên tuần báo Văn nghệ (Số Tết Nhâm Tý và Văn nghệ số 442). Trong bài viết: “Đọc một số bài Nguyễn Duy” đăng trên tuần báo Văn nghệ số 442 ngày 14/4/1972, tác giả đã khẳng định: “Đọc thơ Nguyễn Duy thấy anh thường hay cảm xúc trước những chuyện lớn, chuyện nhỏ quanh mình. Cái điều ở người khác thường chỉ là thoáng qua thì ở anh nó lắng sâu và dừng lại…” [25]. Bài viết của Hoài Thanh đã giới thiệu Nguyễn Duy trước bạn đọc như một tiếng thơ đầy triển vọng, đầy “tiềm lực”. Lê Quang Hưng khi tìm hiểu thơ Nguyễn Duy cũng nhận ra nét độc đáo ở thơ Nguyễn Duy: “sự kết hợp giữa cụ thể và suy ngẫm, giữa riêng và chung, cảm xúc đằm nén gây được sự đồng cảm”[9, 156]. Nguyễn Quang Sáng cũng nhận thấy ở Nguyễn Duy: “Tư duy thơ thì hiện đại, hình thức thơ thì phảng phất phong vị cổ điển phương Đông”[19,189]. Đáng chú ý là lời giới thiệu về Nguyễn Duy trong “Tác giả văn học Việt Nam” và “Thơ Nguyễn Duy” của nhà xuất bản Giáo dục: “Nguyễn Duy là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của thơ ca chống Mỹ cứu nước”. Trên đây là những đánh giá khái quát về thơ Nguyễn Duy. Ngoài ra còn rất nhiều bài phê bình, nghiên cứu của các tác giả đăng trên báo, tạp chí hay một Văn Thị Hà Footer Page 9 of 95. 9 K32C – Ngữ văn Header Page 10 of 95. Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2 số tuyển tập thơ. Nói chung các nhà phê bình, nghiên cứu đều đi đến khẳng định phong cách nghệ thuật độc đáo ở Nguyễn Duy và những đóng góp quý báu của Nguyễn Duy cho nền thơ Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên ở phần Lịch sử vấn đề tác giả khóa luận dành sự quan tâm đặc biệt tới những ý kiến liên quan đến hướng nghiên cứu của đề tài. Trước hết là những nhận xét có liên quan đến phương diện cảm hứng sáng tác trong thơ Nguyễn Duy. Bùi Thị Minh Tâm trong Luận văn Thạc sỹ Ngữ văn về “Chủ đề quê hương đất nước trong thơ Nguyễn Duy” đã xem cảm hứng quê hương đất nước là cảm hứng chính trong thơ Nguyễn Duy: “Nguyễn Duy bền bỉ hướng cảm xúc của mình về với cội nguồn quê hương, cội nguồn dân tộc” [23, 32]. Tuy nhiên, theo chúng tôi đó mới chỉ là một khía cạnh trong cảm hứng sáng tác của ông. Vũ Văn Sỹ dù không trực tiếp đề cập đến cảm hứng sáng tác của Nguyễn Duy nhưng qua bài viết: “Nguyễn Duy - Người thương mến đến tận cùng chân thật” đã có những nhận xét rất tinh tế: “… thơ Nguyễn Duy không dừng lại ở đề tài, bởi đằng sau các lớp sự việc, sự kiện ấy là cái hồn của cuộc sống, ẩn tàng các vấn đề xã hội và con người trong đó” [22, 307]. Theo ông, nét độc đáo trong thơ Nguyễn Duy chính là ở khả năng “gợi”: “Thơ Nguyễn Duy đã gợi cho ta nắm bắt được những nét vô hình, mong manh trong tiềm thức của mình. Và rồi ngay lập tức và đồng thời, bằng kinh nghiệm sống từng trải riêng của mỗi người để thiết lập mối liên hệ của nó với các hiện tượng tinh thần của đời sống xã hội” [22, 310]. Nhận xét của Vũ Văn Sỹ là những gợi mở quý báu cho chúng tôi khi tìm hiểu cảm hứng sáng tác thơ Nguyễn Duy. Bởi đấy chính là mạch ngầm triết lý theo kiểu tư duy thơ của Nguyễn Duy. Cụ thể hơn một số ý kiến đã đề cập đến “cảm hứng triết lý” trong sáng tác của Nguyễn Duy. Song đó cũng chỉ là những nhận xét lẻ tẻ, chưa trình bày thành một công trình nghiên cứu cụ thể. Văn Thị Hà Footer Page 10 of 95. 10 K32C – Ngữ văn Header Page 11 of 95. Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2 Lê Quang Hưng với bài bình cho tập “Ánh trăng” đã khẳng định: “Hầu hết các bài trong tập thơ đều xuất phát từ một khoảnh khắc, một câu chuyện riêng tư. Nhưng từ những điều khởi xuất có tính riêng cụ thể đó, Nguyễn Duy biết bồi đắp để phổ quát hoá chúng bằng những cảm xúc, những suy tư của mình…Ý nghĩa phổ quát, sự suy nghĩ trong thơ Nguyễn Duy thường có điểm tựa từ một âm thanh, một sự vật đậm chất dân tộc (cây tre, hơi ấm ổ rơm, tắc kè, vầng trăng…) gợi lên trong anh bao ý niệm, bao suy nghĩ về lẽ sống” [9]. Hay nhận xét trong Luận văn Thạc sỹ Ngữ văn “Phong cách nghệ thuật thơ Nguyễn Duy” của Mai Thị Nguyệt: “Suy tư, trăn trở nhiều nên Nguyễn Duy rút ra được nhiều triết lý về cuộc đời. Sự suy ngẫm dựa trên nền tảng những chân lý đời sống dân giã là đặc điểm dễ nhận ra ở Nguyễn Duy” [15]. Bên cạnh đó vấn đề giọng điệu nghệ thuật trong thơ Nguyễn Duy cũng từng thu hút được nhiều sự quan tâm của giới nghiên cứu nhưng mới chỉ là những khảo sát ở một bài thơ hoặc một số bài thơ nhỏ. Nói về giọng điệu nghệ thuật thơ Nguyễn Duy, Hoài Thanh vẫn là người đầu tiên có những phát hiện: “Giọng thơ chân chất. Tình thơ chắc. Ý thơ sâu” [25,211]. Lại Nguyên Ân trong bài viết “Tìm giọng mới thích hợp với người thời mình”, qua giọng điệu riêng của tập thơ “Ánh trăng”, đã nhận thấy “giai điệu trữ tình” với nhiều sắc thái biểu hiện trong giọng điệu thơ Nguyễn Duy: “có giọng bông lơn, bỡn cợt, có tiếng cười khúc khích giữa dòng trữ tình như là để phá bớt đi cái vẻ rưng rưng thống thiết, cứ cao lên và làm căng thẳng mệt mỏi tâm lý cảm thụ” và sắc giọng mới “thủng thẳng ngang ngạnh và ương bướng nữa” [1, 205]. Hoàng Nhuận Cầm lại cho rằng giọng điệu thơ Nguyễn Duy là “giọng điệu lời ru” “vừa hấp dẫn, vừa tinh quái hóm hỉnh trong một cái nhìn tinh tế như không có gì mà lại có gì” [13, 6]. Văn Thị Hà Footer Page 11 of 95. 11 K32C – Ngữ văn Header Page 12 of 95. Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2 Còn Anh Ngọc thì nhận ra “cái duyên trào lộng” cùng với “cách tạo từ mới có nội lực, sức sống” đã làm bật lên tiếng cười nhưng lại “khiến mủi lòng, giễu cợt mà lại thấy thêm thương mến…” [14, 395]. Như vậy, về cảm hứng và giọng điệu trong thơ Nguyễn Duy đã có một số ý kiến đánh giá, nhận xét nhưng đó mới chỉ là những ý kiến nhỏ, chưa đi sâu, chưa mang tính hệ thống. Trân trọng kế thừa những ý kiến nhận xét, đánh giá của các nhà nghiên cứu, chúng tôi lựa chọn đề tài “Thơ Nguyễn Duy - từ cảm hứng đến giọng điệu” với hy vọng góp một phần công sức nhỏ bé của mình trong việc khám phá một số phương diện đặc sắc của thơ Nguyễn Duy. Đồng thời góp phần tìm hiểu và làm sáng tỏ những đóng góp của Nguyễn Duy đối với tiến trình thơ hiện đại Việt Nam. 3. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu, tìm hiểu về một phương diện nội dung và nghệ thuật của thơ Nguyễn Duy, giúp chúng ta thấy được đóng góp của ông cho thơ hiện đại Việt Nam, góp phần khẳng định giá trị đặc sắc của thơ ông trong nền văn học dân tộc. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Khoá luận đặt ra và giải quyết những nhiệm vụ sau: - Tìm hiểu khái quát đời thơ và “tiềm lực” trong thơ Nguyễn Duy. - Đi sâu tìm hiểu một phương diện nội dung và nghệ thuật của thơ Nguyễn Duy là cảm hứng sáng tác và giọng điệu nghệ thuật. - Thấy được phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Duy, khẳng định những đóng góp của ông đối với văn học hiện đại Việt Nam. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Đề tài khoá luận đặt ra vấn đề nghiên cứu “cảm hứng sáng tác và giọng điệu nghệ thuật” cho nên chúng tôi chọn xuất phát điểm từ những vấn đề có ý nghĩa khái quát về “cảm hứng” và “giọng Văn Thị Hà Footer Page 12 of 95. 12 K32C – Ngữ văn Header Page 13 of 95. Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2 điệu” từ đó đi sâu vào tìm hiểu những biểu hiện của nó trong thơ Nguyễn Duy qua các thời kỳ. - Phạm vi nghiên cứu: Trên cơ sở tìm hiểu “Thơ Nguyễn Duy - từ cảm hứng đến giọng điệu”, khoá luận khẳng định những đóng góp của Nguyễn Duy đối với thơ hiện đại Việt Nam. Vì vậy tư liệu chính mà chúng tôi khảo sát là các tập thơ Ánh trăng (1984), Mẹ và em (1987), Về (1994), Bụi (1997) và khi cần mở rộng ra toàn bộ sáng tác thơ của ông. 6. Phương pháp nghiên cứu Vận dụng phương pháp nghiên cứu tác giả, tác phẩm văn học, khoá luận sử dụng phối hợp các phương pháp: - Hệ thống - Miêu tả - Phân tích - So sánh - Thống kê - phân loại 7. Đóng góp của khoá luận Thực hiện đề tài nghĩa là khoá luận đã tiến hành nghiên cứu một phương diện thuộc nội dung và nghệ thuật của thơ Nguyễn Duy: cảm hứng và giọng điệu. Kết quả nghiên cứu của khóa luận một lần nữa khẳng định những sáng tạo độc đáo của Nguyễn Duy và góp phần vào công tác giảng dạy sau này. 8. Bố cục của khoá luận Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của khoá luận được triển khai thành ba chương: Chương 1: Những vấn đề chung Chương 2: Cảm hứng trong thơ Nguyễn Duy Chương 3: Giọng điệu trong thơ Nguyễn Duy Văn Thị Hà Footer Page 13 of 95. 13 K32C – Ngữ văn Header Page 14 of 95. Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2 NỘI DUNG Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1 Giới thuyết chung về khái niệm 1.1.1 Cảm hứng và các biến thể của cảm hứng 1.1.1.1. Cảm hứng Cảm hứng: tiếng Hy Lạp cổ là Pathos - một tình cảm sâu sắc, nồng nàn. Khái niệm này từ lâu đã được các triết gia cổ Hy Lạp và sau này là Hêghen và Bêlinxki sử dụng để chỉ “trạng thái hưng phấn cao độ của nhà văn do việc chiếm lĩnh được bản chất của cuộc sống mà họ miêu tả. Sự chiếm lĩnh ấy bao giờ cũng bắt nguồn từ lý tưởng xã hội của nhà văn nhằm phát triển và cải tạo thực tại” [Dẫn theo 17, 141]. Theo Dẫn luận nghiên cứu văn học thì E.G.Rudneva cho rằng “cảm hứng là sự lý giải, đánh giá sâu sắc và chân thực - lịch sử đi với các tính cách được miêu tả vốn nảy sinh từ ý nghĩa dân tộc khách quan của các cá tính ấy” [17, 141]. Theo Từ điển tiếng Việt, thì “cảm hứng”là “trạng thái tâm lý đặc biệt khi có cảm xúc và sự lôi cuốn mãnh liệt, tạo điều kiện để óc tưởng tượng, sáng tạo hoạt động có hiệu quả” [14, 20]. Trong “Từ điển thuật ngữ Văn học” thì “”cảm hứng” hay còn gọi là “cảm hứng chủ đạo” được hiểu là “trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư tưởng nhất định, gây tác động đến cảm xúc của những người tiếp nhận tác phẩm” [8, 44]. Văn Thị Hà Footer Page 14 of 95. 14 K32C – Ngữ văn Header Page 15 of 95. Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2 Như vậy, những quan niệm trên đều thống nhất ở chỗ: “cảm hứng” là trạng thái tâm lý đặc biệt của người nghệ sỹ khi sức chú ý tập trung cao độ để đánh giá sâu sắc và chân thực lịch sử đối với các vấn đề hiện thực khách quan được miêu tả. 1.1.1.2. Các biến thể của cảm hứng Cảm hứng là yếu tố quan trọng quy định nhà văn trong việc sáng tạo ra tác phẩm. Hiện thực khách quan đi vào tác phẩm khi người nghệ sỹ nắm bắt chính xác, sâu sắc hiện thực. Tuy nhiên sự nhận thức này mang đậm tính chủ quan. Bởi vậy cảm hứng ở mỗi nhà văn luôn khác nhau. Ở cùng một tác giả sự bộc lộ cảm hứng cũng không giống nhau. Do đó bên cạnh cảm hứng chủ đạo còn có các biến thể của cảm hứng. Theo E.G.Rudneva: “do những khác biệt cốt yếu bản thân cuộc sống được nhận thức, cảm hứng của các tác phẩm văn học được phân loại thành hàng loạt biến thể: cảm hứng anh hùng, cảm hứng kịch tính, cảm hứng bi kịch, cảm hứng châm biếm, cảm hứng hài hước, cảm hứng thương cảm, cảm hứng lãng mạn…” [17, 142]. Thực tế phát triển của văn học cho thấy, ngoài những biến thể trên của cảm hứng có thể kể tới cảm hứng thế sự, cảm hứng triết lý… Như vậy ở mỗi thời đại, mỗi nhà thơ có một loại cảm hứng sáng tác riêng. Mỗi biến thể của cảm hứng lại có những đặc điểm riêng. Cảm hứng sáng tác nói chung, cảm hứng thơ nói riêng có sức mạnh chi phối các yếu tố khác trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm: kết cấu, hình tượng, ngôn ngữ, giọng điệu nghệ thuật… 1.1.2. Giọng điệu nghệ thuật và giọng điệu nghệ thuật trong thơ 1.1.2.1. Giọng điệu nghệ thuật Văn Thị Hà Footer Page 15 of 95. 15 K32C – Ngữ văn Header Page 16 of 95. Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2 Theo Từ điển tiếng Việt, “giọng điệu” được hiểu là “giọng nói, lối nói biểu thị một thái độ nhất định” [16, 20]. Trong Từ điển thuật ngữ Văn học, khái niệm “giọng điệu” được xác định là: “thái độ, tình cảm, lập trường, tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm”. Cũng theo Từ điển thuật ngữ Văn học, “giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của tác giả có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và có tác dụng truyền cảm cho người đọc” [8, 134]. Không chỉ là yếu tố góp phần khẳng định phong cách nhà văn, giọng điệu chính là phương tiện biểu hiện quan trọng của tác phẩm văn học. Nó có vai trò thống nhất mọi yếu tố khác của hình thức tác phẩm vào một chỉnh thể. Khrapchenko từng khẳng định: “đề tài, tư tưởng, hình tượng chỉ được thể hiện trong môi trường giọng điệu nhất định, trong phạm vi của một thái độ, cảm xúc nhất định đối với đối tượng sáng tác, đối với những mặt khác nhau của nó” [10, 167]. Bakhtin khi khảo sát về tiểu thuyết đã đề cập đến hai phương diện về nội dung của khái niệm giọng điệu: Thứ nhất: Mối quan hệ giữa giọng điệu với môtíp và hình tượng. Chẳng hạn: “các môtíp nước mắt, nỗi đau, mối sầu là cơ sở của giọng điệu cảm thương của chủ nghĩa tình cảm”. Thứ hai: Mối quan hệ của giọng điệu với cảm hứng chủ đạo và kiểu sáng tác, Bakhtin đặt giọng điệu trong bối cảnh văn hoá. Theo ông “văn hoá luôn đòi hỏi đa giọng điệu”. Văn Thị Hà Footer Page 16 of 95. 16 K32C – Ngữ văn Header Page 17 of 95. Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2 Tác giả Pôxpêlôp lại khẳng định: giọng điệu nghệ thuật của tác phẩm văn học chịu sự chi phối của cảm hứng chủ đạo. Ông cho rằng cảm hứng nào giọng điệu ấy. Các biến thể của cảm hứng như cảm hứng anh hùng, cảm hứng bi kịch, cảm hứng thương cảm, cảm hứng hài hước…sẽ làm nảy sinh các giọng điệu tương ứng. 1.1.2.2. Giọng điệu nghệ thuật trong thơ Giọng điệu văn chương là một hiện tượng nghệ thuật mang tính cá nhân cao độ. Tuy nhiên ở mỗi loại hình sáng tác, giọng điệu có những nét đặc trưng riêng. Nếu giọng điệu tự sự mang tính khách quan nhiều khi lạnh lùng thì giọng điệu trữ tình là lời bộc bạch trực tiếp trong thơ. Giọng điệu nghệ thuật trong thơ cũng chính giọng điệu tâm hồn của nhà thơ. Giọng điệu tâm hồn vốn rất trừu tượng, tồn tại ở thế giới tinh thần. Điệu hồn thi nhân mà ta tiếp cận được qua văn bản trữ tình chính là điệu hồn tinh thần đã được vật chất hoá bằng các yếu tố hình thức thơ, trong đó đáng kể nhất là ngôn ngữ thơ. Vì vậy có thể nói “giọng điệu là một hiện tượng siêu ngôn ngữ”. Ngôn ngữ tự thân nó đã chứa đựng nhịp điệu, tiết tấu, ngữ điệu… Một nhà thơ có thể không có sự rung động trong lòng nhưng vẫn có khả năng tạo nhạc điệu bằng tài sử dụng ngôn ngữ. Nhưng đó chưa phải là giọng điệu thơ, chỉ có ngôn ngữ mang giọng điệu tâm hồn mới có khả năng kết hợp với các yếu tố hình thức khác để tạo nên giọng điệu thơ. Giọng điệu nghệ thuật trong thơ của mỗi nhà thơ là tổng hoà từ giọng điệu của mỗi bài thơ. Giọng điệu thơ tuy là điệu hồn của mỗi cá nhân nhưng bao giờ cũng có sự tác động của nhịp điệu đời sống và sự vang ứng của chất giọng thời đại. Trong quá trình sáng tác mỗi nhà thơ tự tạo cho mình một giọng điệu riêng. Đây là giọng chủ tương đối bền vững, ổn định. Cùng với sự Văn Thị Hà Footer Page 17 of 95. 17 K32C – Ngữ văn Header Page 18 of 95. Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2 chuyển biến trong thế giới tinh thần nhà thơ và sự chuyển biến trong đời sống xã hội, thời đại…, giọng điệu thơ cũng có những chuyển biến đáng kể. 1.2. Cảm hứng và giọng điệu trong thơ Việt Nam hiện đại trước và sau năm 1975 1.2.1. Thời đại và ảnh hưởng của thời đại đến cảm hứng sáng tác và giọng điệu nghệ thuật Cảm hứng sáng tác và giọng điệu nghệ thuật là những yếu tố thuộc về phong cách nghệ thuật của người nghệ sỹ. Tuy nhiên nó không ổn định mà có thể thay đổi và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố trong đó có thời đại. Cùng với sự thay đổi của lịch sử, cảm hứng và giọng điệu cũng có sự thay đổi. Những năm 70 của thế kỷ XX cả dân tộc sục sôi trong cuộc đấu tranh để giải phóng dân tộc. Tinh thần dân tộc, ý chí độc lập, tự cường được phát huy hơn bao giờ hết. Lúc này những gì thuộc về cái tôi riêng đều bị xem là nhỏ mọn, tầm thường. Con người đứng trước những vấn đề có tính tầm cỡ lịch sử: “Tổ quốc còn hay mất, độc lập tự do hay nô lệ ngục tù?”. Câu hỏi ấy khiến mọi công dân biết tự trọng đều phải dẹp đi tất cả mọi lợi ích cá nhân, hy sinh tất cả kể cả tính mệnh của mình: “ Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt Như mẹ cha ta như vợ như chồng Ôi Tổ quốc nếu cần ta chết Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi, con sông” (Chế Lan Viên) Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ với ý thức công dân và tinh thần của người chiến sỹ, các nhà thơ đã được đưa lên chiến hào, nơi mũi nhọn của cuộc chiến đấu. Chế Lan Viên đã tự hào vẽ nên vóc dáng và tư thế của nhà thơ trong cuộc chiến đấu của dân tộc: “Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến luỹ Văn Thị Hà Footer Page 18 of 95. 18 K32C – Ngữ văn Header Page 19 of 95. Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2 Bên những dũng sỹ diệt xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng rơi” (Tổ quốc bao giờ đẹp như thế này chăng?) Còn Xuân Diệu thì nói về sự gắn bó của nhà thơ với nhân dân và đất nước: “Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi Cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu Tôi sống với cuộc đời chiến đấu Của triệu người yêu dấu, gian lao” (Những đêm hành quân) Toàn bộ nền văn học từ Bắc chí Nam được huy động tổng lực vào cuộc chiến đấu với đề tài lớn: chống Mỹ; chủ đề tập trung: ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Chính vì vậy cảm hứng anh hùng được phát huy hơn bao giờ hết, lời văn là lời truyền hịch với giọng điệu sử thi. Sau đại thắng mùa xuân 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ vẫn tiếp tục là nguồn cảm hứng lớn của thơ, nhất là ở nửa cuối thập kỷ 70 và đầu những năm 80. Bên cạnh niềm hân hoan “toàn thắng về ta” là niềm xúc động sum họp Bắc - Nam, của những người con miền Nam được trở về quê hương sau hơn 20 năm xa cách (Bài ca quê hương - Tố Hữu, Tôi muốn đi thăm khắp miền Nam - Xuân Diệu). Khi cuộc chiến tranh đã kết thúc và đứng ở vị trí người chiến thắng các nhà thơ thuộc thế hệ thơ trẻ thời kháng chiến chống Mỹ có nhu cầu nhìn lại con đường mà thế hệ mình cùng với cả dân tộc mà mình vừa đi qua, chiêm nghiệm về lịch sử qua những trải nghiệm của chính mình và thế hệ mình. Cảm hứng sử thi vẫn là nền tảng của các bài thơ về đề tài chiến tranh chống Mỹ nhưng những trải nghiệm cá nhân của mỗi người làm thơ đã làm Văn Thị Hà Footer Page 19 of 95. 19 K32C – Ngữ văn Header Page 20 of 95. Khoá luận tốt nghiệp Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2 cho sự khái quát lịch sử có được cái nhìn cụ thể, xác thực và thấm thía hơn. Giọng điệu thơ cũng trở nên trầm lắng, suy tư chứ không cất lên ở âm vực cao đầy hào sảng hoặc bay bổng nữa. Chế Lan Viên trong “Hoa trên đá” đã ý thức rõ rệt về nhu cầu chuyển giọng của thơ “bao năm hát giọng cao giờ anh hát giọng trầm”. Sự khẳng định dân tộc, ngợi ca sức mạnh của nhân dân thường được thể hiện qua những mất mát, hy sinh, nỗi đau thầm lặng của vô vàn con người và bao nhiêu số phận. Chân dung tinh thần của thế hệ trẻ đi qua cuộc chiến tranh được tô đậm ở sự lựa chọn dấn thân tự nguyện đầy tỉnh táo chứ không là niềm say mê, háo hức đầy chất lãng mạn như hồi đầu bước vào cuộc chiến tranh: “ Tuổi trẻ biến trăm sông thành thác Dập tắt lửa chiến tranh bằng máu đời mình” (Thu Bồn) Sau chiến tranh con người trở về với cuộc sống đời thường cũng có nghĩa là trở lại với các quan hệ thế sự trong cuộc sống thường nhật với nhiều bộn bề lo toan, với những khát vọng về hạnh phúc và cả những trăn trở để lựa chọn về cách sống. Nguyễn Duy qua hình ảnh vầng trăng “im phăng phắc” giữa thành phố đầy “ánh điện, cửa gương” để nhắc nhở về sự thuỷ chung với nhân dân, với đất nước, với những năm tháng gian lao vừa đi qua. Vào những năm 80 của thế kỉ XX đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội ngày càng nặng nề, thực trạng xã hội bộc lộ nhiều mặt trái, nhiều vấn đề bức xúc. Bằng cái nhìn tỉnh táo và ý thức trách nhiệm, thơ đã không né tránh những sự thật đau lòng, những bất công ngang trái và cả những trì trệ ngủ yên trong lối mòn tự mãn. Sự tự vấn, tự thú, thức tỉnh trở thành một hướng ở nhiều bài thơ, khi nhà thơ đối diện với hiện thực bằng tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, nhất là khi không khí dân chủ đã được mở ra cùng với công cuộc đổi mới: Văn Thị Hà Footer Page 20 of 95. 20 K32C – Ngữ văn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất