Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thiết kế hệ thống bài tập tiếng việt 8 nhằm phát triển năng lực giao tiếp ngôn n...

Tài liệu Thiết kế hệ thống bài tập tiếng việt 8 nhằm phát triển năng lực giao tiếp ngôn ngữ của học sinh

.PDF
108
2
141

Mô tả:

.. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM PHAN NHƯ QUỲNH THIẾT KẾ HỆ THỐNG BÀI TẬP TIẾNG VIỆT 8 NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIAO TIẾP NGÔN NGỮ CỦA HỌC SINH LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC THÁI NGUYÊN, NĂM 2016 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM PHAN NHƯ QUỲNH THIẾT KẾ HỆ THỐNG BÀI TẬP TIẾNG VIỆT 8 NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIAO TIẾP NGÔN NGỮ CỦA HỌC SINH Chuyên ngành: LL và PP dạy học bộ môn Văn – Tiếng Việt Mã số: 60.14.01.11 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Người hướng dẫn khoa học: GS. LÊ A THÁI NGUYÊN, NĂM 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa từng được công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về nội dung luận văn của mình. Thái Nguyên, tháng 5 năm 2016 Tác giả luận văn PHAN NHƯ QUỲNH i LỜI CẢM ƠN Trước hết tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới GS. Lê A, người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình cho tôi hướng nghiên cứu. Nhờ đó tôi mới có thể hoàn thành được công trình nghiên cứu của mình. Tiếp theo tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô trong khoa Ngữ văn trường ĐHSP Thái Nguyên đã trực tiếp giảng dạy tôi trong suốt quá trình học tập nghiên cứu. Xin cùng bày tỏ lòng biết ơn tới Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo sau đại học, Trung tâm Thông tin thư viện trường ĐHSP, Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Tôi xin được gửi lời cảm ơn đến BGH, các thầy cô trong tổ Văn của hai trường THCS Bắc Sơn và trường THCS Phúc Thuận đã tạo điều kiện tốt cho tôi đến thực nghiệm sư phạm để hoàn thành luận văn của mình. Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã quan tâm, động viên tôi trong quá trình thực hiện đề tài của mình. Thái Nguyên, tháng 5 năm 2016 Tác giả luận văn PHAN NHƯ QUỲNH ii MỤC LỤC Trang Trang bìa phụ Lời cam đoan ................................................................................................... i Lời cảm ơn ...................................................................................................... ii Lời cảm ơn ...................................................................................................... ii Mục lục...........................................................................................................iii Danh mục chữ cái viết tắt.......................................................................... iv PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1 1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4 3. Lịch sử nghiên cứu ....................................................................................... 4 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 9 5. Các phương pháp nghiên cứu...................................................................... 10 6. Cấu trúc luận văn ........................................................................................ 11 7. Dự kiến đóng góp của luận văn................................................................... 12 PHẦN NỘI DUNG........................................................................................ 13 Chương 1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC XÂY DỰNG VÀ HƯỚNG DẪN TRIỂN KHAI HỆ THỐNG BÀI TẬP ............ 13 1.1. Cơ sở lí thuyết.......................................................................................... 13 1.1.1. Lý thuyết về bài tập............................................................................... 13 1.1.2. Quan điểm giao tiếp và sự thể hiện của nó trong bài tập. ...................... 16 1.2. Cơ sở thực tiễn......................................................................................... 20 1.2.1. Khảo sát bài tập trong SGK, SBT Ngữ văn 8 ........................................ 20 1.2.2. Thực trạng dạy học phần Tiếng Việt trong Ngữ văn 8 – THCS............ 24 Chương 2. XÂY DỰNG VÀ HƯỚNG DẪN TRIỂN KHAI HỆ THỐNG BÀI TẬP TIẾNG VIỆT 8 THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP ................... 27 2.1. Thiết kế hệ thống bài tập Tiếng Việt 8 theo quan điểm giao tiếp.............. 27 iii 2.2. Nguyên tắc thiết kế bài tập Tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp............. 28 2.2.1. Nguyên tắc đảm bảo tính mục đích hình thành và phát triển năng lực giao tiếp ......................................................................................................... 28 2.2.2. Nguyên tắc phù hợp với trình độ của học sinh ...................................... 29 2.2.3. Nguyên tắc hệ thống: Các bài tập phải được sắp xếp trên một cơ sở thống nhất, từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp................................................. 29 2.3. Hệ thống bài tập Tiếng Việt 8 theo quan điểm giao tiếp........................... 31 2.3.1. Giới thiệu chung về hệ thống bài tập..................................................... 31 2.3.2. Miêu tả hệ thống bài tập........................................................................ 32 2.3.3. Hướng dẫn sử dụng hệ thống bài tập ..................................................... 44 Chương 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM..................................................... 60 3.1. Mục đích thực nghiệm sư phạm ............................................................... 60 3.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm .......................................................... 60 3.3. Nội dung và cách thức thực nghiệm ........................................................ 61 3.4. Kết quả và nhận xét đánh giá .................................................................. 76 3.4.1. Kết quả thực nghiêm ............................................................................. 76 3.4.2. Nhận xét ............................................................................................... 78 PHẦN KẾT LUẬN ....................................................................................... 81 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 84 PHỤ LỤC iv DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ HS Học sinh THCS Trung học cơ sở TV Tiếng Việt SBT Sách bài tập SGK Sách giáo khoa VD Ví Dụ v PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Bài tập là phương tiện chủ yếu trong quá trình dạy học Tiếng Việt ở trường phổ thông Bài tập là một hệ thống thông tin xác định gồm hai tập hợp gắn bó chặt chẽ và tác động qua lại với nhau đó là: những điều kiện và những yêu cầu. Những điều kiện tức là tập hợp những dữ liệu xuất phát, diễn tả những trạng thái ban đầu của bài tập, từ đó tìm ra phép giải, theo ngôn ngữ thông dụng thì đó là “cái cho”; những yêu cầu là trạng thái mong muốn đạt tới, theo ngôn ngữ thông dụng thì đây là “cái phải tìm”. Với định hướng dạy Tiếng Việt (TV) là dạy trong giao tiếp, bằng giao tiếp nhằm mục tiêu quan trọng nhất là củng cố và phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh (HS), bài tập chiếm một vị trí vô cùng quan trọng: từ việc giới thiệu bài, hình thành kiến thức mới, đặc biệt là luyện tập, giáo viên (GV) đều sử dụng các kiểu loại bài tập khác nhau. Như vậy, bài tập là một phương tiện chủ yếu trong quá trình dạy học TV ở trường phổ thông, nó vừa đảm đảm bảo cho việc tiếp thu lí thuyết lại giúp các em hình thành những kĩ năng tương ứng. 1.2. Bài tập Tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp bảo đảm cho quan điểm giao tiếp được triển khai đạt hiệu quả Dạy học ngôn ngữ theo quan điểm giao tiếp là một xu hướng hiện đại được rất nhiều nước thực hiện và đạt được nhiều thành tựu không thể phủ nhận. Tuy nhiên việc dạy học ở ta còn nặng về dạy học kiến thức ngôn ngữ, quá tải với cả thầy và trò. Người ta đã sai lầm khi cho rằng sản phẩm của giáo dục là những khái niệm, tri thức và sản phẩm của TV là hệ thống các khái niệm. Từ đó dẫn đến có một lớp người hiểu được TV nhưng không thể sử dụng thành thạo nó trong giao tiếp. Tác giả Lê A trong bài viết “Dạy Tiếng Việt là dạy một 1 hoạt động và bằng hoạt động” cho rằng: “Quá trình dạy học TV cho học sinh (HS) cần tổ chức các hoạt động và nổi bật là dùng hoạt động ngôn ngữ để giao tiếp” [3, tr62]. Theo quan điểm ấy ta xác định được nội dung dạy học TV là dạy giao tiếp, đích hướng tới là giao tiếp và phương pháp hướng tới cho học sinh là hoạt động thông qua giao tiếp. Lí luận dạy học hiện đại quan tâm đến năng lực của người học. Hiện nay trong công cuộc đổi mới toàn diện trong đó có đổi mới mục tiêu môn học chương trình hướng vào năng lực. Điều đó có nghĩa là xem học sinh phù hợp với năng lực nào, năng lực nào phù hợp với thực tế xã hội đòi hỏi, trong đó xem năng lục nào là cần thiết, cốt lõi thì hình thành. Năng lực hoạt động giao tiếp trở thành năng lực cơ bản trong dạy học môn TV. Lịch sử hình thành và phát triển con người đều gắn với ngôn ngữ đặc biệt là trong các hoạt động mang tính chất cộng đồng. Giao tiếp ở khắp mọi nơi, phổ biến rộng rãi vì vậy mà nó trở thành thứ quan trọng thiết yếu với mọi người nói chung và với HS nói riêng. Dạy học TV theo quan điểm giao tiếp gợi ý xác định nội dung cơ bản của phân môn TV ở nhà trường phổ thông là hình thành năng lực giao tiếp và nội dung chương trình là hoạt động giao tiếp: nghe – nói – đọc – viết của HS. Chương trình hướng đến chuẩn bốn kĩ năng đồng thời cũng trang bị cho HS những kiến thức về TV. Ngoài ra phải dạy cho HS những quy tắc giao tiếp, ở đây không đơn thuần là quy tắc ngôn ngữ học mà là những quy tắc tổng hợp phù hợp với các nhân tố giao tiếp tức là dạy HS những quy tắc xử lí thông tin trong giao tiếp. Từ xa xưa Lão Tử đã dạy rằng: “Cái gì ta nghe ta quên, cái gì ta thấy ta nhớ, cái gì ta làm ta biết”. Trải qua nhiều lần nhận định và đổi mới giáo dục, trong Nghị quyết 29/NQ – TW ngày 4/11/2013 tại Hội nghị lần thứ 8 khóa XI của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Về Đổi mới căn bản toàn diện Giáo dục và Đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế cũng đã khẳng định quan điểm chỉ đạo: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển 2 toàn diện năng lực và phẩm chất người học” [35, tr.3]. Lí luận dạy học hiện đại cũng cho rằng “năng lực” không thể hình thành do học tập mà phải qua rèn luyện. Hay nói một cách khác đi là người ta đã bắt đầu quan tâm tới hệ thống bài tập để qua đó phát huy năng lực, bồi dưỡng phẩm chất có sẵn của học sinh. Ta cũng thấy rõ rằng học sinh sẽ nắm vững kiến thức hơn thông qua làm bài tập, đặc biệt đối với TV ta đưa các em vào những tình huống giao tiếp cụ thể thì kĩ năng sử dụng TV của các em sẽ được hình thành rất nhanh chóng. Như vậy, vai trò của bài tập trong dạy học là rất quan trọng, cần thiết và nó đảm bảo cho quan điểm giao tiếp được triển khai có hiệu quả. 1.3. Việc xây dựng và triển khai hệ thống bài tập hiện nay chưa thực sự dựa trên quan điểm giao tiếp và mang lại hiệu quả. Qua tìm hiểu chúng tôi thấy rằng hầu hết các bài tập trong Sách giáo khoa (SGK), Sách bài tập (SBT) vẫn dừng lại ở dạng bài tập nhận diện lí thuyết không phát huy được sự tích cực, sáng tạo và hứng thú cho HS. Hệ thống bài tập như SGK và SBT thiết kế chỉ mô phỏng kiến thức lí thuyết mà không thực hiện được mục tiêu dạy học TV trong nhà trường. Trong quá trình dạy học, quan điểm giao tiếp phải được thấm nhuần trong các khâu từ việc chuẩn bị bài, việc dạy lí thuyết và hướng dẫn HS thực hành luyện tập. Đồng thời quan điểm giao tiếp cũng chi phối trực tiếp từ mục tiêu, nội dung, phương pháp và khâu kiểm tra đánh giá kết quả học tập TV của HS. Thực tế cho thấy những nội dung vừa trình bày chưa có sự hiện diện trong hệ thống bài tập TV 8, GV chỉ chú ý dạy lí thuyết, hệ thống bài tập cũng được tuyệt đối triển khai giống như trong SGK mà không có sự bổ sung, sáng tạo và linh hoạt. Phương pháp giao tiếp không được phát huy tác dụng trong khi GV hướng dẫn HS thực hành luyện tập, các em không được trải nghiệm những tình huống giao tiếp cụ thể, gần gũi trong cuộc sống cho nên giờ học chưa đạt được mục tiêu quy chuẩn của giờ học. Dạy học TV theo quan điểm giao tiếp GV phải đưa HS của mình vào các tình huống hoạt động cụ thể, gắn với thực tiễn thông qua các bài tập thực hành 3 giao tiếp thì mới giúp các em phát triển được năng lực giao tiếp, đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện đại. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Quá trình dạy học Tiếng Việt 8 từ các tài liệu dạy học đến cách dạy, cách học, cách đành giá kết quả học tập cũng như kết quả học tập Tiếng Việt của học sinh. 2.2. Phạm vi nghiên cứu Hệ thống bài tập và việc triển khai hệ thống bài tập theo quan điểm giao tiếp trong quá trình dạy học Tiếng Việt ở lớp 8. 3. Lịch sử nghiên cứu 3.1. Những nghiên cứu về quan điểm giao tiếp trong dạy học Tiếng Việt Tiếng Việt, với vai trò là một phân môn quan trọng của bộ môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông, có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh những tri thức ngôn ngữ học, hệ thống TV, quy tắc hoạt động và những sản phẩm của nó trong mọi hoạt động giao tiếp. Mặt khác, TV là một công cụ giao tiếp và tư duy nên phân môn này còn đảm nhận một chức năng kép mà các môn học khác không có, đó là chức năng trang bị cho HS công cụ để giao tiếp. Khi bàn về những quan điểm tâm lí học hoạt động có liên quan đến việc dạy và học ngôn ngữ, Trương Dĩnh đã đề cao quan điểm dạy học bản ngữ dựa trên lý thuyết hoạt động lời nói. Ông khẳng định: “Trên quan điểm coi hoạt động lời nói trong giao tiếp như mục đích dạy học, dạy ngôn ngữ, đặc biệt là bản ngữ, phải thông qua hoạt động giao tiếp giữa thầy và trò để tổ chức cho HS phân tích mẫu hành vi lời nói trong giao tiếp, quan sát hành vi lời nói giao tiếp trong thực tiễn, nghiên cứu các văn bản giao tiếp trích dẫn để nâng cao ý thức, quy tắc về giao tiếp bản ngữ, mặt khác, trên cơ sở đã có ý thức về năng lực giao tiếp, tổ chức cho HS sáng tạo các hành vi lời nói trong giao tiếp, (...), tức là dạy cho HS ứng xử sáng tạo trong giao tiếp ở môi trường có tính thực tiễn nhất của 4 đời sống” [8, tr.161]. Đồng thời tác giả cũng coi trọng việc xây dựng các bài tập tình huống để rèn luyện năng lực giao tiếp cho HS. Đây cũng là một trong những cơ sở góp phần định hướng cho việc dạy và học TV đạt hiệu quả cao hơn. Giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt (tập 2, Nxb Giáo dục, 2001) do nhóm tác giả: Nguyễn Trí - Lê A - Lê Phương Nga biên soạn có tất cả tám chương, trong đó các tác giả dành hẳn một chương để nói về quan điểm giao tiếp trong dạy học TV. Trong chương này (chương một) các tác giả nói khá rõ về: Giao tiếp và hoạt động giao tiếp. Những cơ sở của quan điểm giao tiếp trong dạy học tiếng Việt. Sự thể hiện của quan điểm giao tiếp trong việc dạy học Tiếng Việt. Hai vấn đề: Dạy cái gì? Dạy như thế nào? được Lê A bàn đến trong bài viết Dạy Tiếng Việt là dạy một hoạt động và bằng hoạt động (Tạp chí Ngôn ngữ số 4/2001). Tác giả chú ý đến vấn đề sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp, trình tự dạy học TV cùng với một số thao tác cơ bản khi dạy học (Thao tác phân tích - phát hiện; Thao tác phân tích - chứng minh; Thao tác phân tích phán đoán); Giới thiệu về phương tiện dạy học Graph (sơ đồ mạng để trình bày những vấn đề cần truyền đạt). Sau khi trình bày về các vấn đề trên, tác giả nhấn mạnh: “Tri thức về tiếng Việt chỉ hoàn chỉnh và chắc chắn khi các em đã thực sự vận dụng vào hoạtđộng giao tiếp, vì “giao tiếp là chức năng trọng yếu của ngôn ngữ” [3, tr65]. Có thể nói bài viết này là một gợi ý tốt cho việc tổ chức các hoạt động dạy học, lựa chọn sử dụng các phương pháp, phương tiện dạy học tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp. Cũng trong tạp chí Ngôn ngữ số 4/2001, Nguyễn Minh Thuyết trao đổi về Mấy quan điểm cơ bản trong việc biên soạn SGK TV (thử nghiệm) bậc tiểu học và bậc trung học cơ sở. Bài viết này giới thiệu một số quan điểm cơ bản trong việc biên soạn hai bộ sách trên: Quan điểm dạy giao tiếp; Quan điểm tích hợp; Quan điểm tích cực hóa hoạt động học tập của HS. Mặc dù bài viết trên đã được công bố cách đây nhiều năm, nhưng những quan điểm ấy vẫn còn có giá trị và có thể áp dụng vào việc biên soạn SGK Ngữ văn, định hướng cho việc giảng dạy TV đúng với mục tiêu 5 của phân môn này. Vấn đề giao tiếp cũng được Bùi Minh Toán và Nguyễn Ngọc San đề cập trong giáo trình Tiếng Việt (tập 3, Nxb Giáo dục, 2002) với các nội dung cụ thể như: Các chức năng của ngôn ngữ - chức năng giao tiếp. Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Các yếu tố của hệ thống ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp: những sự biến đổi và chuyển hóa. Vai trò của các quan hệ hệ thống trong hoạt động giao tiếp. Nguyên tắc hệ thống và quan điểm giao tiếp trong dạy - học tiếng Việt. Bùi Minh Toán và Nguyễn Ngọc San khẳng định: “Quan điểm giao tiếp trong việc dạy - học ngôn ngữ (TV) xuất phát từ đặc trưng bản chất của đối tượng và phù hợp với đối tượng. (…) Ngôn ngữ (…) cần phải hoạt động để thực hiện chức năng giao tiếp. Trong hoạt động giao tiếp, ngôn ngữ vừa là phương tiện, vừa tạo ra các sản phẩm phục vụ cho sự giao tiếp” [31, tr.231 - 232]. Bàn về “độ phổ biến” của quan điểm giao tiếp, Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Thị Ly Kha cho rằng: “Quan điểm giao tiếp được thể hiện trên cả hai phương diện nội dung và phương pháp dạy học” [27, tr114]. Về nội dung dạy học, quan điểm giao tiếp được thể hiện ở “Cách bố trí thời lượng, sắp xếp các đơn vị kiến thức và các kiểu bài đều không tập trung vào việc nhận diện các hiện tượng ngôn ngữ mà chú trọng rèn luyện khả năng sử dụng từ ngữ phục vụ cho hoạt động giao tiếp” [27, tr.114]. Về phương pháp dạy học, quan điểm giao tiếp được thể hiện ở điểm:“Các kiến thức và kĩ năng trong phân môn Luyện từ và câu được rèn luyện thông qua nhiều bài tập gắn với yêu cầu về tập làm văn ở lớp 5 hoặc với các tình huống giao tiếp tự nhiên” [27, tr116]. Kèm theo những nội dung trình bày là những ví dụ (VD)sinh động. Do trình bày dưới dạng hỏi - đáp, nên tài liệu này chỉ dừng ở giới hạn cung cấp những gợi ý có tính chất định hướng cơ bản về nội dung, hình thức tổ chức dạy học môn Tiếng Việt ở lớp 5 theo quan điểm giao tiếp. Mặt khác, do tính chất đồng tâm và tính phổ quát của vấn đề, những gợi ý có tính định hướng đó không chỉ dừng ở giới hạn cho một lớp và một bậc học cụ thể mà còn có tác dụng định hướng cho việc dạy học TV ở phổ thông nói chung theo quan điểm giao tiếp. Trong 6 bài viết Từ khái niệm năng lực giao tiếp đến vấn đề dạy và học tiếng Việt trong nhà trường phổ thông hiện nay (Tạp chí Ngôn ngữ, số 4/2006), Vũ Thị Thanh Hương đã đề cập và phân tích khá sâu khái niệm “năng lực giao tiếp”, đã dẫn ra những ý kiến khác nhau của các học giả (Chomsky, Campbell & Wales, Hymes, Murby, Canale & Swain, Bachman) xoay quanh khái niệm “năng lực giao tiếp”. Tác giả bài viết so sánh đối chiếu các nội dung kiến thức TV được trình bày trong các chương trình TV hiện hành (của Bộ Giáo dục và Đào tạo) với các nội dung của mô hình lí thuyết về “năng lực giao tiếp”. Từ khái niệm “năng lực giao tiếp”, người viết tìm hiểu chương trình dạy TV trong nhà trường phổ thông đầu thế kỉ 21 và nhận xét: “Có thể nói, trong tất cả các tài liệu về chương trình mà chúng tôi được tiếp cận cho đến bây giờ, quan điểm giao tiếp là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ mục tiêu giảng dạy Tiếng Việt ở tất cả các cấp trong nhà trường phổ thông hiện nay” [12, tr10] Tác giả bài viết tiến hành khảo sát chương trình TV ở các cấp học để làm rõ vấn đề: “liệu nội dung của chương trình có thực sự đảm bảo cung cấp đủ kiến thức để giúp các em hình thành và rèn luyện tốt năng lực giao tiếp?” [12, tr10]. Tác giả có trình bày kết quả khảo sát và kết thúc bài viết với vài lời nhận xét ngắn gọn. Một trong số những người nghiên cứu về dạy TV trung học phổ thông theo tình huống giao tiếp – Lê Thị Bích Hồng – đã khẳng định sự cần thiết phải sử dụng tình huống giao tiếp trong dạy Tiếng Việt: “Trong dạy học, để giúp HS tích cực chủ động, huy động mọi vốn sống, tri thức, kinh nghiệm của mình vào hoạt động tìm kiếm tri thức mới hay giải quyết các tình huống mới, tăng cường khả năng suy nghĩ độc lập, sáng tạo, chủ động điều chỉnh nhận thức, lời nói và hành vi, GV cần xây dựng các tình huống giao tiếp” [10, tr32]. Trong bài viết, tác giả đã đưa ra những định nghĩa tương đối đầy đủ về tình huống giao tiếp, đồng thời xác định các đặc điểm cơ bản cũng như những yêu cầu cần thiết của một tình huống giao tiếp trong giờ học tiếng; từ cơ sở đó, tác giả mô tả khái quát quy trình thực hiện một tình huống giao tiếp trong giờ dạy TV. Giáo trình Ngữ nghĩa học (dùng 7 cho GV và sinh viên ngành giáo dục tiểu học) (Nguyễn Thị Ly Kha, Vũ Thị Ân, Nxb Giáo dục, 2008) có đề cập đến vấn đề dạy học nghĩa của từ, câu, đoạn văn, văn bản theo quan điểm giao tiếp. Do mục đích và giới hạn của giáo trình, những vấn đề về dạy nghĩa của từ, câu, đoạn văn, văn bản ở đây chỉ dừng lại ở giới hạn dạy học cho HS tiểu học. Tuy nhiên, người quan tâm vẫn có thể tìm thấy ở đây những định hướng, những gợi ý cho việc dạy học các đơn vị mang nghĩa theo quan điểm giao tiếp cho HS trung học. Hoạt động giao tiếp với dạy học Tiếng Việt ở tiểu học (Nxb Đại học Sư Phạm, 2009) là một giáo trình có ích cho những GV, những người nghiên cứu quan tâm đến việc dạy TV trong nhà trường như thế nào để có hiệu quả. Phan Phương Dung và Đặng Kim Nga đã nghiên cứu khá sâu và rõ ràng những vấn đề về hoạt động giao tiếp trong việc dạy học TV ở tiểu học. Giáo trình gồm ba chương: Chương một đề cập đến vấn đề giao tiếp và hoạt động giao tiếp; chương hai xoáy sâu vào từ và câu trong hoạt động giao tiếp; chương ba – phần trọng tâm, có ý nghĩa thực tiễn – Dạy học Tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp. Giáo trình đã vạch ra hướng đi cụ thể cho hoạt động dạy học TV trong nhà trường theo quan điểm giao tiếp: từ việc lựa chọn các tri thức TV, xác lập các quy tắc sử dụng TV đến việc xác định các kĩ năng sử dụng TV cần rèn luyện cho HS. Và việc lựa chọn, sử dụng các phương pháp, hình thức tổ chức nào trong dạy học TV,… giáo trình đều nêu rõ. Tuy giáo trình chỉ giới hạn trong việc dạy học TV ở Tiểu học nhưng đối với các GV dạy TV ở Trung học cơ sở hay ở Trung học phổ thông thì đều tìm thấy ở giáo trình này những định hướng làm cơ sở cho việc dạy TV một cách có hiệu quả theo quan điểm giao tiếp. 3.2. Những nghiên cứu về bài tập và bài tập Tiếng Việt theo định hướng giao tiếp Có thể nói hầu hết các tài liệu dạy tiếng, các luận án, luận văn, khóa luận tốt nghiệp về đề tài phương pháp dạy học TV đều trực tiếp hay gián tiếp bàn đến bài tập. Công trình trình bày toàn diện và sâu sắc, được đông đảo giáo viên 8 vận dụng là “150 bài tập rèn luyện viết đoạn văn” của tác giả Nguyễn Quang Ninh. Trong công trình này, tác giả đã trình bày quan niệm về đoạn văn, các kiểu đoạn văn theo cấu trúc hoặc chức năng và giới thiệu một hệ thống bài tập đa dạng, được sắp xếp khoa học và bảo đảm các yêu cầu sư phạm. Tác giả Trịnh Thị Lan có bài viết khá hay về Yêu cầu đối với việc thiết kế bài tập TV dưới ánh sáng của lí thuyết hoạt động giao tiếp: “Theo quan điểm dạy học TV hướng vào hoạt động giao tiếp, việc thiết kế bài tập TV phải đảm bảo phục vụ cho việc phát triển khả năng giao tiếp cho HS. Dạy học TV sử dụng phương pháp giao tiếp như là phương pháp tổ chức dạy học quan trọng nhất. Phương pháp giao tiếp là phương pháp hướng dẫn HS vận dụng lí thuyết được học vào thực hiện các nhiệm vụ của quá trình giao tiếp, có chú ý đến đặc điểm và các nhân tố tham gia vào hoạt động giao tiếp” [13]. Những tài liệu trên có đề cập về quan điểm giao tiếp và có động chạm tới việc thiết kế bài tập TV theo quan điểm giao tiếp. Tuy nhiên tất cả chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu lí thuyết, hoặc có luận văn đã triển khai nhưng nó lại chưa đầy đủ và cụ thể ở một lớp học nào. Chính vì vậy, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: Thiết kế bài tập Tiếng Việt 8 theo định hướng phát triển năng lực giao tiếp của học sinh. Những tài liệu trên là những cơ sở vững chắc giúp chúng tôi thực hiện được luận văn này. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở lí thuyết về quan điểm giao tiếp và thực tiễn dạy học Tiếng Việt, kế thừa những thành quả đã đạt được, luận văn xậy dựng và hướng dẫn thực hiện hệ thống bài tập Tiếng Việt ở lớp 8 theo quan điểm giao tiếp nhằm góp phần nâng cao năng lực giao tiếp của học sinh 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Xác định cơ sở lí thuyết và thực tiễn của việc xây dựng và triển khai hệ thống bài tập 9 - Bài tập và hướng dẫn triển khai hệ thống bài tập Tiếng Việt 8 - Thực nghiệm sư phạm để kiểm tra và đánh giá khả năng thực thi và hiệu quả của hệ thống bài tập 5. Các phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp nghiên cứu và tổng kết lí thuyết Phương pháp nghiên cứu và tổng kết lí thuyết là phương pháp phân chia các tài liệu lí thuyết thành các đơn vị kiến thức, giúp nhà khoa học nắm được bản chất từng đơn vị kiến thức và toàn bộ vấn đề nghiên cứu. Trên cơ sở kiến thức đã được phân tích, ta tổng hợp chúng lại thành một hệ thống để thấy được mối quan hệ biện chứng của chúng với nhau, từ đó giúp ta hiểu đầy đủ sâu sắc về lí thuyết đang nghiên cứu. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu tổng hợp lí thuyết trong chương 1, chương 2 của luận văn. Trên cơ sở tiếp thu những tài liệu có sẵn, chúng tôi đã nghiên cứu, tổng hợp để tạo ra những tri thức mới cần thiết cho luận văn của mình. 5.2. Phương pháp điều tra khảo sát Đây là phương pháp dùng một hệ thống câu hỏi theo những nội dung xác định nhằm thu thập thông tin khách quan nói lên nhận thức và thái độ của người được điều tra. Phương pháp này được chúng tôi áp dụng trong chương 1 và chương 3 nhằm khảo sát hệ thống bài tập TV trong SGK và SBT Ngữ văn 8 và thăm dò ý kiến của giáo viên và học sinh về hệ thống bài tập mà chúng tôi thiết kế. 5.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm Thực nghiệm sư phạm là phương pháp thu nhận thông tin về sự thay đổi số lượng và chất lượng trong nhận thức và hành vi của các đối tượng giáo dục do nhà khoa học tác động tới chúng bằng một số tác nhân điều khiển và đã được kiểm tra. Đây là phương pháp đặc biệt cho phép tác động lên đối tượng nghiên cứu một cách chủ động, can thiệp có ý thức vào quá trình diễn biến tự nhiên để hướng quá trình ấy diễn ra theo mục đích mong muốn của nhà nghiên cứu. 10 Trong luận văn này, phương pháp thực nghiệm sư phạm được áp dụng ở chương 3 nhằm kiểm tra, đánh giá kết quả của việc áp dụng hệ thống bài tập tiếng TV lớp 8 theo quan điểm giao tiếp vào trong quá trình giảng dạy. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu,kết luận, phụ lục luận văn gồm các chương sau: Chương 1: Cơ sở lí thuyết và thực tiễn của việc xây dựng và hướng dẫn triển khai hệ thống bài tập Trong chương này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu, tổng hợp những tài liệu có liên quan đến bài tập, bài tập Tiếng Việt; quan điểm giao tiếp và sự thể hiện của quan điểm giao tiếp trong bài tập. Tiếp đó chúng tôi tiến hành khảo sát hệ thống bài tập TV trong SGK và SBT Ngữ văn 8; thăm dò ý kiến của GV và HS về bài tập và việc áp dụng quan điểm giao tiếp trong quá trình dạy học .Từ những nghiên cứu lí thuyết và việc khảo sát thực tế chúng tôi lấy đó làm tiền đề vững chắc để bước vào nghiên cứu, thiết kế hệ thống bài tập Tiếng Việt 8 theo định hướng phát triển năng lực giao tiếp của học sinh. Chương 2: Thiết kế và hướng dẫn triển khai hệ thống bài tập Tiếng Việt 8 theo quan điểm giao tiếp. Trong chương này chúng tôi tiến hành nghiên cứu nguyên tắc thiết kế bài tập, thiết kế mô phỏng hệ thống bài tập Tiếng Việt cho học sinh và hướng dẫn sử dụng hệ thống bài tập ấy. Chương 3: Thực nghiệm sư phạm Trong chương này chúng tôi tiến hành thực nghiệm sư phạm ở 2 trường: Trung học cơ sở (THCS) Bắc Sơn và THCS Phúc Thuận để kiếm chứng phần nội dung đã nghiên cứu ở chương 2. Qua quá trình thực nghiệm chúng tôi đã thu được một số kết quả tương đối khả quan: đa số học sinh học tập hăng hái, tích cực chủ động trong học tập; các em đã thực sự thích thú khi được trải nghiệm những tình huống giao tiếp trong thực tế, kết quả mà các em đạt được sau khi dạy học thực nghiệm nhìn chung là tương đối. Điều đó khẳng định, việc 11 thiết kế bài tập Tiếng Việt 8 theo định hướng phát triển năng lực giao tiếp của học sinh là đúng đắn, cần thiết và vô cùng hợp lí. 7. Dự kiến đóng góp của luận văn - Về lí luận: Góp phần làm sáng tỏ cho việc xây dựng và triển khai bài tập Tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp - Về thực tiễn: Gợi ý cho giáo viên cách xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập Tiếng Việt ở lớp 8 có hiệu quả. 12 PHẦN NỘI DUNG Chương 1 CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC XÂY DỰNG VÀ HƯỚNG DẪN TRIỂN KHAI HỆ THỐNG BÀI TẬP 1.1. Cơ sở lí thuyết 1.1.1. Lý thuyết về bài tập Theo nghĩa chung nhất, thuật ngữ “bài tập” dùng để chỉ một hoạt động nhằm rèn luyện thể chất và tinh thần. Trong giáo dục, theo “Từ điển Tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên (HN 1994), thuật ngữ “Bài tập có nghĩa là “bài ra cho học sinh làm để vận dụng những điều đã học. Thí dụ: bài tập đại số, bài tập ở lớp, ...”. Những định nghĩa trên mới giải thích về mặt ngữ nghĩa chứ chưa làm rõ bản chất của khái niệm “bài tập” . Qua nghiên cứu, trong luận văn này, chúng tôi tiếp thu quan niệm của nhà nghiên cứu Thái Duy Tuyên: “bài tập là một hệ thống thông tin xác định bao gồm hai tập hợp gắn bó chặt chẽ và tác động qua lại với nhau: Những điều kiện, tức là tập hợp những dữ liệu xuất phát, diễn tả trạng thái ban đầu của bài tập, từ đó tìm ra phép giải, theo ngôn ngữ thông dụng thì đó là “cái cho”, trong toán học thì gọi là “giả thiết”. Những yêu cầu là trạng thái mong muốn đạt tới, theo ngôn ngữ thông dụng thì đây là “cái phải tìm”. Hai tập hợp này tạo thành bài tập, nhưng chúng lại không phù hợp với nhau, thậm chí mâu thuẫn với nhau, từ đó xuất hiện nhu cầu phải biến đổi chúng để khắc phục sự không phù hợp hay mâu thuẫn giữa chúng Tóm lại có thể hiểu bài tập là một hệ thống thông tin xác định bao gồm những điều kiện và những yêu cầu được đưa ra trong quá trình dạy học , đòi hỏi người học phải có một lời giải đáp, mà lời giải đáp này về toàn bộ hoặc từng phần không ở trạng thái có sẵn của người giải tại thời điểm mà bài tập được đưa ra.” [34, tr.223 – 225]. 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất