Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thi pháp thơ nôm nguyễn trãi ...

Tài liệu Thi pháp thơ nôm nguyễn trãi

.PDF
149
3
129

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HOÀNG THỊ THU THỦY THI PHÁP THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2002 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kì công trình nào khác. Tác giả luận án Hoàng Thị Thu Thủy 3 MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................... 3 A. DẪN NHẬP ............................................................................................................... 5 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI. ......................................................................................... 5 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ. ................................................................................................ 7 2.1. Tìm hiểu về con người Nguyễn Trãi qua thơ Nôm của ông: ........................... 9 2.2. 8 ý kiến nghiên cứu về thiên nhiên và đời sống trong thơ Nguyễn Trãi........ 11 2.3. Thể loại, ngôn ngữ. ........................................................................................ 12 2.4. Về một số bài thơ trong QATT....................................................................... 14 3. PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. ............................................... 14 3.1. Phạm vi nghiên cứu. ...................................................................................... 14 3.2. Phương pháp nghiên cứu. .............................................................................. 15 4. DỰ KIẾN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN. .................................... 19 4.1. Giá trị khoa học.............................................................................................. 19 4.2. Giá trị thực tiễn. ............................................................................................. 20 5. KẾT CẤU LUẬN ÁN. ......................................................................................... 20 B. NỘI DUNG .............................................................................................................. 22 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VĂN BẢN QUỐC ÂM THI TẬP .................... 22 1.1. TÌNH HÌNH VĂN BẢN QATT. .................................................................... 22 1.2. VĂN BẢN LÀM CHỖ DỰA CHỦ YẾU ĐỂ NGHIÊN CỨU THI PHÁP QATT. .................................................................................................................... 26 1.2.1. Lưu ý một số từ cổ trong văn bản QATT cổ liên quan đến thi pháp của câu thơ, bài thơ. ................................................................................................. 29 1.2.2. Lưu ý đến một số chú thích, giải nghĩa có liên quan đến điển: .............. 36 Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TỔNG QUÁT VỀ THI PHÁP THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI ......................................................................................................................... 39 2.1. NÉT KHU BIỆT CỦA THI PHÁP THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI................. 39 2.2. THI PHÁP VỀ CÁI HÀNG NGÀY. .............................................................. 49 2.3. KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT. ............ 54 2.3.1. Thi pháp không gian nghệ thuật trong Quốc âm thi tập. ........................ 55 2.3.2. Thi pháp thời gian nghệ thuật trong Quốc âm thi tập. ............................ 65 Chương 3: THI PHÁP "QUỐC ÂM THI TẬP" VỚI CÁC PHƯƠNG DIỆN: THỂ THƠ, ÂM VẬN, NGÔN NGỮ ................................................................................. 71 3.1. THI PHÁP "QUỐC ÂM THI TẬP" Ở PHƯƠNG DIỆN THỂ THƠ. ........... 71 3.2. THI PHÁP "QUỐC ÂM THI TẬP" Ở PHƯƠNG DIỆN ÂM VẬN ............. 82 3.2.1. Nhịp điệu:................................................................................................ 82 3.2.2. Vần thơ trong "Quốc âm thi tập". ........................................................... 95 3.3. THI PHÁP NGÔN NGỮ TRONG QATT: .................................................. 100 3.3.1. Từ vựng ................................................................................................. 100 3.3.2. Biện pháp tu từ cú pháp. ....................................................................... 116 3.3.3. Tính nhạc trong QATT. ......................................................................... 130 C. KẾT LUẬN ............................................................................................................ 134 D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 139 A. DẪN NHẬP 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI. Nguyễn Trãi là nhà tư tưởng, anh hùng dân tộc, nhà văn hóa dân tộc, nhà nghệ sĩ ngôn từ vĩ đại của văn học Việt Nam. Những điều như vậy được thể hiện trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng nước Đại Việt khỏi ách đô hộ của nhà Minh và trong sự nghiệp xây dựng nước Đại Việt sau chiến thắng, được thể hiện ở những trước tác và sáng tác của Nguyễn Trãi: Lam Sơn thực lục, Chí Linh phú, Quân trung từ mệnh tập, Băng Hồ di sự lục, Bình Ngô đại cáo, chiếu và biểu viết dưới triều Lê, Dư địa chí, Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập (QATT). Nguyễn Mộng Tuân đánh giá Nguyễn Trãi: "Kinh bang hoa quốc cổ vô tiền" (Xây dựng làm vẻ vang cho nước xưa nay chưa từng có). Nguyễn Trãi tỏa sáng trong thời đại của mình và tiếp tục tỏa sáng trong thời đại chúng ta đang sống. "Nhớ Nguyễn Trãi là nhớ người anh hùng cứu nước, đồng thời là nhớ nhà văn lớn, nhà thơ lớn của nước ta. Từ bài Bình Ngô đại cáo qua các bức thư gửi tướng tá quân xâm lược, đến thơ chữ Hán và chữ Nôm... ngòi bút thần của Nguyễn Trãi đã để lại cho chúng ta những tác phẩm gồm nhiều thể văn và tất cả đều đạt đỉnh cao của nghệ thuật, đều hay và đẹp lạ thường! Nhiều tài hoa như vậy dồn lại ở một con người thật là hiếm có" [30]. Cuộc đời, những trước tác và sáng tác của Nguyễn Trãi là đối tượng nghiên cứu của hàng loạt ngành khoa học: tư tưởng, đạo đức, chính trị, lịch sử, văn hóa, văn học.v.v... Các nhà nghiên cứu văn học, phê bình và lý luận văn học đã nghiên cứu rất nhiều những trước tác và sáng tác của Nguyễn Trãi như một nghệ sĩ ngôn từ của văn học trung đại Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã chú ý đúng mức đến vấn đề thể loại, đến văn chương được viết bằng chữ Hán và văn chương được viết bằng chữ Nôm, đến văn chương chính luận, văn sử bút, văn địa chí và văn chương hình tượng; sự thống nhất, sự đồng dị của chúng ở những trước tác và sáng tác của ông. Các nhà nghiên cứu cũng thấy rõ nơi con người trước tác và sáng tác Nguyễn Trãi có nhà tư tưởng, nhà chính trị, nhà thơ; ba nhà ấy là thống nhất trong Nguyễn Trãi, nhưng không phải không có 5 lúc lâm thời được chia tách. Và, ngay cả ở Nguyễn Trãi với tư cách nhà thơ thì các nhà nghiên cứu và phê bình lý luận văn học cũng có thể phân biệt nhà thơ sáng tác bằng ngôn ngữ Hán - Việt và nhà thơ viết bằng tiếng mẹ đẻ - tiếng Việt đó không hẳn chỉ là sự phân biệt về phương diện ngôn từ mà Ức Trai đã sử dụng để sáng tác thi ca. Tiếp cận với Nguyễn Trãi như một nghệ sĩ ngôn từ của văn học trung đại Việt Nam, các nhà nghiên cứu, phê bình và lý luận văn học đã thu được những thành tựu lớn. Tuy nhiên, Nguyễn Trãi là một trong những tác gia thuộc loại lớn nhất của văn học Việt Nam vẫn đang ở trong quá trình văn học nước nhà từ cơ tầng văn hóa Đông Nam Á giao lưu với tư tưởng Ấn Độ, tư tưởng Trung Hoa và văn học Trung Hoa, xây dựng thành công văn học thành văn của dân tộc, một tác gia như thế tạo ra trước mắt các nhà nghiên cứu, phê bình và lý luận văn học con đường vô tận để đi trên con đường ấy, nếu muốn hiểu ngày càng đầy đủ hơn, ngày càng đúng hơn Ức Trai. Hơn thế nữa, cần phải tiếp cận với Nguyễn Trãi như một nghệ sĩ ngôn từ của văn học trung đại Việt Nam, bằng những phương pháp nghiên cứu mới có khả năng giúp chúng ta khám phá những điều này hay điều kia chưa được phát hiện ở sự nghiệp văn chương của Ức Trai. Kế thừa những thành tựu lớn của các công trình nghiên cứu đi trước và bằng những suy nghĩ như trên, chúng tôi chọn cho luận án của mình đề tài: Thi pháp thơ Nôm Nguyễn Trãi. Thơ Nôm của Ức Trai có quan hệ nội tại với những trước tác và sáng tác khác của Nguyễn Trãi, nhưng không ở đâu như ở thơ Nôm của Ức Trai chúng tôi thấy rõ ràng nhất Nguyễn Trãi - nhà thơ. Cho nên, đến với những tác phẩm văn chương khác của Nguyễn Trãi đều có ý nghĩa đặc thù trên các phương diện lịch sử, xã hội mang tầm cỡ quốc gia của một con người với tư cách là một nhà chính trị, văn hóa, ngoại giao, bác học, khoa học, tư tưởng... Còn đến với QATT của Nguyễn Trãi là đến với con người cá nhân nhà thơ, đến với tâm hồn, xúc cảm của nhà thơ trong quãng 14 năm cuối đời. Đây cũng là một trong những lí do mà chúng tôi thấy là cần thiết và quan trọng. Hiểu được tâm hồn, xúc cảm của người khác không phải là chuyện dễ, mà tâm hồn, xúc cảm được biểu hiện qua thơ lại càng là sự khó khăn và tinh tế vô cùng. Chúng tôi cho rằng sự phối hợp giữa lí thuyết thi pháp - đi sâu hơn vào lĩnh vực nghệ thuật, với khả năng thẩm định văn chương vào văn bản QATT- được xem là văn 6 bản cổ nhất của văn học Việt Nam, sẽ làm sáng rõ sức sống lâu bền và sức tỏa sáng của QATT nói lên sức mạnh nghệ thuật tự nó, vốn có và tiềm ẩn trong thi pháp của nó. QATT vô cùng quý giá đối với dân tộc ta. Tập thơ là minh chứng hùng hồn cho ý thức trở về cội nguồn, ý thức dân tộc hóa văn chương, nhân dân hóa thơ ca của Nguyễn Trãi. Tập thơ còn là minh chứng về xúc cảm, tâm hồn của một "vĩ nhân" trong lịch sử, là sự cách tân về bút pháp, ngôn ngữ và cấu tứ...; đó cũng là một kho chất liệu cho ta nghiên cứu lời nói, câu viết của tổ tiên ta ngót 500 năm trước. Chúng tôi cũng từng thao thức, trăn trở với những câu thơ mới đọc qua còn có cảm giác trúc trắc, tắc nghẹn, nhưng càng suy nghĩ, nghiền ngẫm càng cảm nhận được tâm hồn Ức Trai, tâm hồn một vĩ nhân trong lịch sử có một số phận hết sức éo le. "Văn tức là người" (Le style c'est l'homme - Buffon, XVII siècle), QATT là tấm gương phản chiếu tâm hồn của Nguyễn Trãi. Một con người suốt đời sống theo phương châm "tiên ưu, hậu lạc" ("Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc dư" - Phạm Trọng Yêm - Bài kí lầu Nhạc Dương - Lãng Nhân - Hán văn tinh túy Sài Gòn, 1965, trang 224). Là một giáo viên dạy văn ở trường sư phạm, chúng tôi nghĩ rằng hiểu sâu sắc về một tác giả, một tác phẩm, có những thao tác khoa học hợp lí, xác đáng để phân tích tác phẩm văn học, nhất là tác phẩm văn chương vừa cổ, vừa khó, vừa có giá trị mở màn, đột phá, vừa có vị trí đỉnh cao là một công việc khó khăn, phức tạp. Năm trăm năm đã qua, QATT vẫn đầy vẻ đẹp và sức sống, làm rạng danh và sáng tỏ tâm trạng Ức Trai - "Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo" (Ức Trai lòng dạ văn chương sáng - Lê Thánh Tông)( 1). Sự tồn tại của QATT xứng đáng cho các công trình tiếp tục khảo cứu, nghiên cứu về nó. Mỗi một công trình sẽ có giá trị "bóc dần" rêu bụi của thời gian, trả lại cho QATT sự lấp lánh diệu kỳ của văn chương một con người "Tinh vi, thâm thúy, sáng sủa, đẹp đẽ" (Nguyễn Năng Tĩnh). 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ. Theo tư liệu hiện có, QATT của Nguyễn Trãi là thi tập được viết bằng chữ Nôm cổ nhất của văn học Việt Nam mà chúng ta còn giữ được. Đánh giá QATT, GS.Đinh Gia Khánh viết: "Là một người đã từng lăn lộn trong phong trào đấu tranh rộng lớn (1) Câu này được đối với câu dưới: “Vũ Mục hung trung liệt giáp binh” trong bài Minh lương 7 của dân tộc, đã từng sống gần nhân dân trong phần lớn cuộc đời mình, là một nhà văn hóa dân tộc rất có ý thức về những giá trị tinh thần của đất nước Việt và con người Việt, Nguyễn Trãi đã có đóng góp lớn vào sự phát triển của văn hóa dân tộc. Trong lĩnh vực văn học, thì sự đóng góp ấy lại còn thể hiện rõ rệt ở việc đẩy mạnh sự phát triển của thơ Nôm. Kế thừa những thành tựu của các tác phẩm đời Trần, QATT của Nguyễn Trãi đã khẳng định vị trí ngày càng quan trọng của văn học chữ Nôm trong dòng văn học viết. Trong thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, tính dân tộc đã thể hiện rất rõ ở chỗ phản ánh thiên nhiên của đất nước ta và sức sống của ông cha ta. Với thơ Nôm, ông đã có thể phản ánh một cách cụ thể và sinh động hơn thiên nhiên ấy, cuộc sống ấy" [63: 400] Bài nghiên cứu của Xuân Diệu: "Quốc âm thi tập tác phẩm mở đầu nền thơ cổ điển Việt Nam" [133: 578 - 638] vào năm 1980 quan tâm trên nhiều phương diện: văn bản (20 bài trùng giữa QATT và Bạch Vân Quốc ngữ thi tập), con người Nguyễn Trãi "con người "trần thế nhất trần gian", con người thông thường càng làm tăng thêm giá trị cho con người khác thường, chính cái phần con người thông thường làm cho vĩ nhân mới hoàn chỉnh là một vĩ nhân trọn vẹn" [133: 613]; bàn đến câu thơ 6 chữ, Xuân Diệu cho rằng: "Nhà thơ biết cách đặt các từ gốc bên nhau, rồi vì sức mạnh bên trong của nội dung tạo ra một từ trường, cho nên các chữ hút nhau, không cần các thứ keo hồ trợ từ" [133: 622] và tác giả bình luận đến một số từ Nôm được sử dụng trong QATT của Nguyễn Trãi vừa biểu hiện ý thức dân tộc vừa biểu hiện giá trị nghệ thuật... Nhìn một cách tổng quát thì các công trình nghiên cứu về QATT đan xen nhau trên các phương diện vào những quãng thời gian tiếp nối nhau. Số bài nghiên cứu về văn bản QATT khá tập trung vào giai đoạn đầu, số bài nghiên cứu về con người Nguyễn Trãi, Nguyễn Trãi với thiên nhiên, và các bài thơ riêng lẻ trong tập thơ tập trung trong thời gian gần đây với sự vận dụng thi pháp rõ nét. Phần lịch sử nghiên cứu về văn bản chúng tôi xin được phép trình bày rõ trong chương 1 của luận án, những công trình nghiên cứu còn lại chúng tôi tạm nhóm vào một số đề mục và lược qua theo trình tự thời gian (ở đây chúng tôi chỉ lưu ý đến những ý kiến có liên quan đến đề tài của luận án). 8 2.1. Tìm hiểu về con người Nguyễn Trãi qua thơ Nôm của ông: Có 7 bài viết từ năm 1962 đến 1997, trong 7 bài nghiên cứu này chúng tôi tiếp thu cách đánh giá về con người cá nhân Nguyễn Trãi của các tác giả Trần Đình Hươu, Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử và Trần Ngọc Vương. Trần Đình Hượu (1995) cho rằng: "Trong cả cuộc đời, khi còn chống Minh cũng như khi đã làm quan trong triều đình, bao giờ Nguyễn Trãi cũng coi Nho giáo là đạo lí chính, nhưng tư tưởng Nho giáo cũng không bao giờ độc chiếm tâm hồn ông. Từng thời gian, từng phạm vi khác nhau, bên cạnh Nho giáo bao giờ cũng có một cái gì khác, thường là trái với Nho giáo, hoặc là tư tưởng quyền mưu, hoặc là tư tưởng Lão - Trang, hoặc là nếp sống theo truyền thống dân tộc. Thành phần phụ gia đó làm cho tư tưởng của ông thành đa dạng, phong phú và trở thành gần gũi với chúng ta hơn nhiều. Nếu hình dung Nho giáo là một đường thẳng thì tư tưởng Nguyễn Trãi là một đường quanh co cùng hướng, lượn quanh, không bao giờ trùng mà cũng không bao giờ quá xa đường thẳng. Đó là một sự lựa chọn; Nguyễn Trãi lựa chọn cho mình và cho cả dân tộc" [58: 116] "Thơ tâm sự chữ Hán và chữ Nôm là phần hay nhất mà cũng là phần nhiều nhất trong thơ Nguyễn Trãi. Ta gặp ở đây những lời tự bạch hầu như trong nửa cuối cuộc đời ông, từ những ngày còn đảm đương nhiều trọng trách của triều đình, bận bịu trăm công ngàn việc đến những ngày "nhàm chán". [...] Ta gặp rất ít bài có tâm sự vui vẻ, phấn chấn, đắc ý hành đạo mà lại gặp nhiều bài dằn vặt, đau xót khi ông bị nghi kị, lâm vào cảnh ngộ nguy hiểm. Rất nhiều [bài] bộc lộ tâm sự chán nản, bực bội khi phải sống lẻ loi, lạc lõng giữa triều đình. Hầu hết là thơ ca tụng cảnh nhàn, ca tụng cảnh đẹp thiên nhiên, mối đồng tình với những con người thanh cao biết coi thú nhàn dật là quý, ngàn vàng khó đổi được. Dầu đó là phần chủ yếu, tâm tình của ông không chỉ tập trung vào lạc thú thanh nhàn. Đằng sau - và là sâu hơn lạc thú đó - là nỗi lòng day dứt làm nhà thơ bạc đầu: "Bui một tấc lòng ưu ái cũ Đêm ngày cuồn cuộn nước chầu đông" Điều hầu như luôn làm ông bận tâm, ray rứt là vấn đề xuất xử" [58: 104, 105]. Hoặc: "Trong cách hình dung của chúng ta, Nguyễn Trãi là anh hùng, là nhà chính khách, là con người hành động, nhưng Nguyễn Trãi còn là con người có tâm hồn rất nghệ sĩ. Ông thích ngồi dưới giàn hoa làm thơ, đốt lò hương đánh đàn, thích chèo 9 thuyền đêm trăng, thích cảnh đẹp. Cả hai con người khác nhau đó đã hình thành từ rất sớm ở ông" [58: 106] Bài viết của Nguyễn Hữu Sơn vào năm 1995 cho rằng: "Xét về nội dung tư tưởng, dễ thấy ở Nguyễn Trãi xuất hiện cả ba mẫu hình con người nhà nho (theo cách phân loại của giáo sư Trần Đình Hượu): hành đạo, ở ẩn và tài tử. Song nếu nhìn nhận ở tư cách nhà nghệ sĩ lại thấy mỗi phương diện trên đều được Nguyễn Trãi giải bày trong nhiều biến thái khác biệt, thậm chí đối nghịch nhau" [133: 732] Trần Đình Sử (1997) cho rằng: "Cá nhân Nguyễn Trãi được thể hiện nổi bật trong bản thân sự lựa chọn day dứt giữa các tư tưởng, các con đường lập thân, dưỡng thân và nhất là bảo thân..." [133: 723] Trần Ngọc Vương (1997) nhấn mạnh quan hệ giữa nhà nghệ sĩ và nhà tư tưởng trong QATT: "Nhà tư tưởng phát ngôn và hành động cho đạo Nho, nhà nghệ sĩ mang nặng nỗi ưu đời mẫn thế... nhà tư tưởng của triết học Lão - Trang và người nghệ sĩ ca tụng thú thanh nhàn, hòa mình vào tạo vật" [133: 741]. Bàn đến sự thống nhất giữa các mâu thuẫn hay là ý nghĩa bi kịch của Nguyễn Trãi, tác giả đã lí giải một cách xác đáng bi kịch của Nguyễn Trãi là "xung đột giữa hai định hướng văn hóa" [133: 759], trong mối xung đột đó thì "Nguyễn Trãi cô đơn, cô đơn đến tuyệt đối giữa những đại thần, và sự nhẫn nại đến phi thường của Nguyễn Trãi là để thực thi cho bằng được một thiên chức "tác chuẩn thằng" (tạo ra mực thước, chuẩn mực) cho những kẻ tư văn của đất Việt" [133: 761] Lê Chí Dũng trong công trình nghiên cứu "Tính cách Việt Nam trong thơ Nôm luật Đường" (Nxb Văn học, Hà Nội, 2001) đã phân tích và nhấn mạnh: "Như vậy trong thơ Nôm luật Đường của Nguyễn Trãi hội đủ 3 loại hình tượng: hình tượng người anh hùng đem hết sức bình sinh "phò đời, giúp nước", hình tượng người ẩn sĩ sống thanh cao, lánh xa vòng danh lợi, hình tượng chàng trai hữu tài, hữu tình, cảm nhận sâu sắc và tinh tế mọi biến dịch tinh diệu của thiên nhiên, của cuộc sống con người, duyên dáng và tinh nghịch..." (trang 40). 10 2.2. 8 ý kiến nghiên cứu về thiên nhiên và đời sống trong thơ Nguyễn Trãi. Bài viết của Nguyễn Thiên Thụ (1973) trong mục IV: "Thiên nhiên đã khoác những chiếc áo màu khác nhau tùy theo từng thời gian: cỏ, cây, hoa, lá, núi rừng, sông hồ, bầu trời... đã thay đổi theo từng mùa, từng tháng. Sự thay đổi đó đã làm cho lòng người đổi thay và lòng thi nhân thêm cảm xúc" [133: 675] Đặng Thanh Lê (1980) lưu ý đến không gian nhỏ bé bình dị nơi quê nhà Nguyễn Trãi: "Nguyễn Trãi còn hướng ngòi bút vào những cảnh vật nhỏ bé, bình dị vẫn thường dấu mình trong cuộc sống hàng ngày quen thuộc như nắng chiều, mây sớm, dậu cây, bờ cỏ... nhân vật trữ tình ở đây trở thành chủ thể cảm thụ, chiếm lĩnh vẻ đẹp của thiên nhiên từ góc độ một con người hòa mình vào xứ sở quê hương, nơi sinh trưởng" [133: 693]. Nguyễn Hữu Sơn (1985) trong bài viết "Cảm quan mùa xuân trong thơ Nôm Nguyễn Trãi" cho rằng: "trong thơ Nguyễn Trãi, mùa xuân được cảm nhận như là biểu tượng của vẻ đẹp toàn mỹ, hoàn chỉnh, phổ biến" [133: 535], tác giả so sánh số lượng thơ xuân trong thơ Quốc Âm và thơ xuân trong thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi để đi đến nhận định: "Chỉ với thơ Quốc Âm, với thứ chữ Nôm - thứ tiếng nói của tâm hồn dân tộc - thì Nguyễn Trãi mới có điều kiện cảm nhận và diễn đạt được toàn bộ ý tưởng của mình trước cuộc sống và cảnh đẹp của mùa xuân đất Việt" [133: 539]. Ý kiến của La Kim Liên (1997) về trăng trong QATT là những đánh giá có giá trị khái quát, tổng kết về quan hệ giữa trăng và thi nhân... Tác giả Trần Ngọc Vương bàn về nhà tư tưởng và nhà nghệ sĩ trong QATT cũng đề cập đến mối quan hệ giữa thi nhân với thiên nhiên: "Có thể nói, khi đối diện với cảnh vật, Nguyễn Trãi có hai cách cảm thụ chủ yếu: kéo nó vào với mình và hòa mình vào với nó... Nguyễn Trãi vật thể hóa những khái niệm trừu tượng, cảm tính hóa những nguyên lý Nho gia khi ông là người hành đạo... và những người bạn muôn thuở ở trong thơ các nhà nho ẩn dật cũng được Nguyễn Trãi gọi về họp mặt đầy đủ trong thơ ông: mai, tùng, cúc, trúc, thông... am quạnh, lều con, hương trầm... Nguyễn Trãi không dựng lên những cảnh dữ dội hay những cảnh triền miên, vụn vặt. Cảnh trong thơ ông thường "bén áo, xâm khăn" với con người" [133: 753, 757] 11 2.3. Thể loại, ngôn ngữ. Về thể thơ lục ngôn chen thất ngôn Đinh Gia Khánh cho rằng: "Nguyễn Trãi không bị gò bó trong khuôn khổ chật hẹp của một thể cách thi luật cố định. Viết theo thể thất ngôn bát cú Hàn luật hoặc thất ngôn tứ tuyệt Hàn luật, thơ Nôm Nguyễn Trãi không hiếm những bài mà kết cấu hoàn chỉnh và vững chắc. Tuy nhiên, đôi khi nhà thơ vi phạm - hay nói cho đúng hơn - phá vỡ niêm luật của thể thơ ấy" [63: 411] "Cho nên có thể nói thơ Hàn luật theo điệu Đường trong thời Nguyễn Trãi tuy đã thông dụng nhưng không chiếm ưu thế trên văn đàn. 183 bài thơ còn lại của Quốc âm thi tập là những bài thơ ít nhiều có thể cách tự do. Nói cho đúng hơn, đó là những bài thơ tám câu hoặc bốn câu mà cấu trúc đối xứng thì ít nhiều giống thơ luật, nhưng số âm trong câu thì lại có thể sáu hoặc bảy (lục ngôn xen kẻ với thất ngôn). Việc kết hợp một cách linh hoạt những câu sáu và câu bảy như thế đã tạo cho thơ nôm Nguyễn Trãi âm điệu riêng" [63: 412] Có 3 bài viết liên tiếp nhau của tác giả Phạm Luận vào những năm 1980, 1991, 1997 (bài viết 1997 có sự cộng tác của tác giả Nguyễn Phạm Hùng). Bài viết năm 1980 thống kê: 159 bài bát cú có 391 câu 6 tiếng, 25 bài tứ tuyệt có 35 câu 6 tiếng [133: 842], sau khi phân tích việc xen câu 6 tiếng tạo nên sự thất niêm, tác giả cho rằng: "khi hình thức thể thơ trở thành đơn điệu với nội dung thì nhà thơ phải tìm đến những hình thức thể thơ khác, kiểu câu thơ khác... trong cố gắng để xây dựng một lối thơ Việt Nam, Nguyễn Trãi đã đưa vào thể thơ Nôm câu 7 tiếng với lối ngắt nhịp 3�4 và câu 6 tiếng. Đó là kết quả những tìm tòi sáng tạo của người Việt Nam, mà người đặt mốc đầu tiên là Nguyễn Trãi" [133: 847, 849]. Bài viết tiếp theo vào năm 1991 tác giả nhấn mạnh đến tiết tấu của câu thơ Trung Quốc và câu thơ Việt Nam, câu thơ Trung Quốc có thể xem là câu thơ ngũ ngôn luật, được thêm vào đằng trước một bước thơ, gồm hai âm tiết, câu thất của ta lại là câu 6 âm tiết có âm tiết đầu tự làm một bước thơ, rút gọn một từ vẫn không phương hại đến cả câu, và vì vậy câu thơ Việt Nam luôn có nhịp chẵn, tác giả cũng khảo sát có 215 lần trong 145 bài có gieo vần lưng và vần trắc. Bài viết vào năm 1997 chung với tác giả Nguyễn Phạm Hùng có lưu ý mấy vấn đề cơ bản sau: - Cách hiệp vần trong thơ: QATT từ đầu đến cuối đều sử dụng vần bằng (trừ bài 126 và 200), như vậy xét về vị trí hiệp vần, thơ trong QATT không có gì khác với thơ 12 chữ Hán làm theo luật Đường của tác giả, chữ hiệp vần trong QATT chệch xa luật chữ hiệp vần theo Quảng Vận. Do ngôn ngữ QATT từ thuần Việt chiếm một tỉ lệ cao, hơn nữa ông lại ưa thích dùng những vần thuần Việt vào vị trí các "nút tiếng vọng" [133: 864] - Thể thơ thất ngôn xen lục ngôn: số câu số chữ ở mỗi bài không cố định, "câu lục ngôn không phải do Nguyễn Trãi sử dụng câu lục trong thơ dân gian Việt Nam. Nó được hình thành từ chính câu thất ngôn luật Đường. Mỗi câu lục ngôn được tạo ra chỉ bằng một cách là giảm một chữ ở câu thất ngôn luật Đường. Chữ giảm ở câu thất ngôn tuy theo từng bài, có thể là một trong các chữ thứ nhất, thứ ba, thứ năm, thứ sáu. Duy chữ thứ 7 và chữ thứ 2 của câu thất ngôn thì bất cứ trường hợp nào cũng không thể giảm" [133: 867] Bàn về ngôn ngữ trong QATT có ý kiến của các tác giả Ngô Văn Phú, Bùi Văn Nguyên, Hoàng Tuệ, Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương: đánh giá giá trị mở màn và giá trị đỉnh cao của QATT trong sáng tác thơ bằng ngôn ngữ dân tộc. Thành tựu lớn nhất của Nguyễn Trãi không phải là ở chỗ đồng hóa kho từ vựng và văn liệu Hán học mà là ở chỗ xây dựng ngôn ngữ văn học trên cơ sở ngôn ngữ của nhân dân và ngôn ngữ của văn học dân gian. "Và trong hàng chục thế kỷ giao lưu văn hóa [Việt - Hán] ngôn ngữ Việt trong khi vẫn giữ vững cấu trúc ngữ pháp và vốn từ vựng cơ bản - những nhân tố chính để khẳng định một ngôn ngữ dân tộc - thì lại đã đồng hóa rất nhiều từ ngữ Hán vào kho từ vựng của mình. Trong sự đồng hóa này, phải thấy công lao của nhiều tác giả thơ văn nôm. Nguyễn Trãi là một trong những người đã góp phần công lao xứng đáng. Ông đã cố gắng Việt hóa những phần vay mượn của Hán học." [63: 402] "Thành tựu lớn nhất của Nguyễn Trãi không phải là ở chỗ đồng hóa kho từ vựng và văn liệu Hán học mà là ở chỗ xây dựng ngôn ngữ văn học dân tộc trên cơ sở ngôn ngữ của nhân dân và ngôn ngữ của văn học dân gian" [63: 404] "Những khả năng của ngôn ngữ Việt mà Nguyễn Trãi biết khai thác một cách tài tình đã làm cho hình tượng thơ nhịp nhàng, uyển chuyển và đầy màu sắc dân tộc. Với Nguyễn Trãi, ngôn ngữ văn học Nôm đã tiến một bước đáng kể so với ngôn ngữ văn học Nôm đời Trần. Thơ Nôm Nguyễn Trãi nhiều khi kết hợp được tính giản dị, chân chất với tính mĩ lệ, tinh tế" [63: 408] 13 Bùi Văn Nguyên thống kê có 50 câu trong QATT có yếu tố của tục ngữ, 20 câu có yếu tố của ca dao và kết luận: "từ trong lao động nghệ thuật của mình, các nhà thơ dân tộc ưu tú nói trên, lại dần dần nâng cao giá trị văn học của tiếng Việt lên làm cho tiếng Việt ngày càng phong phú, càng có vị trí xứng đáng trên văn đàn, ngay với tiếng nói của nhiều nước tiên tiến trên thế giới" [133: 815]. Hoàng Tuệ đề cao cống hiến của Nguyễn Trãi trong QATT ở các phương diện: từ vựng, ngữ pháp, và kế thừa tục ngữ, ca dao... "nếu như về tiếng Việt, thế kỷ XIX, Nguyễn Du sẽ tạo nên được niềm tự hào, thì ở thế kỷ XV, điều mà Nguyễn Trãi đã xây dựng nên được là niềm tin. [133: 826] 2.4. Về một số bài thơ trong QATT. Có 7 trong số 254 bài được các tác giả Trương Chính, Xuân Diệu, Trần Thanh Mại, Lã Nhâm Thìn, Quang Huy, Phạm Tú Châu, Trần Đình Sử, Lê Trí Viễn, Đoàn Thu Vân, Bùi Văn Nguyên, Cao Hữu Lạng, Lê Chí Dũng phân tích, bình giảng: Vô đề, Tùng (2 bài viết), bài 208 [134], bài 170 [134], Ngôn chí VII, Bảo kính cảnh giới 43, Mộc cận. Những bài viết của các tác giả: Lê Trí Viễn (bài 170, Tùng, 1994); Trần Đình Sử (Tùng - 1995), Lê Chí Dũng (Ba tiêu - 2001) và Trần Ngọc Ninh (Mộc cận - 1973) đều sử dụng các thao tác thi pháp thơ để phân tích, bình giảng. Các tác giả đều rất chú ý đến yếu tố ngôn ngữ, hình ảnh, nhịp điệu, kết cấu và đặc biệt Trần Ngọc Ninh đã sử dụng nhiều thao tác của thi pháp cấu trúc đưa lại cho người đọc cảm nhận về cái đẹp trong bài thơ "Mộc cận": từ hình ảnh bóng hoa dưới nước, hình ảnh "chiều mai nở, chiều hôm rụng" để nói đến sự vô thường, đến rồi lại đi, có sinh và có tử. Từ câu 1 đến câu cuối cùng, bài thơ đưa ta đi từng đợt, từ cái đẹp của cảnh đến cái chân lý của cuộc đời... chỉ 4 câu mà mở rộng được chân trời triết lí bao la... 3. PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 3.1. Phạm vi nghiên cứu. Vận dụng lý thuyết thi pháp, vận dụng các phương pháp khoa học, chúng tôi nghiên cứu toàn bộ 226/254 bài thơ trong QATT (trừ 28 bài trùng) trên các phương diện nội dung và hình thức (quan niệm nghệ thuật, không gian và thời gian nghệ thuật, ngôn ngữ, thể loại, âm vận...). 14 3.2. Phương pháp nghiên cứu. Nguyễn Trãi được xem là người mở đầu, ngươi tạo dựng, người khai sơn phá thạch, người cha, thiên tài mẹ (génie - mère) của nền thơ tiếng Việt. Trước Nguyễn Trãi cũng đã từng có những bài thơ tiếng Việt, nhưng nó còn lẻ tẻ, rụt rè, đôi khi tính xác thực của văn bản còn chưa rõ ràng (chẳng hạn bài thơ của Điểm Bích chép trong Tam tổ thực lục làm về Huyền Quang, hay bài thơ "Ăn cỗ đầu người" của Nguyễn Biểu, bài thơ của Trần Trùng Quang..., thơ nôm của Nguyễn Sĩ Cố, Hàn Thuyên, Hồ Quý Ly được ghi nhưng đã mất). Chỉ với hơn 200 bài thơ nôm của QATT, lâu đài thơ tiếng Việt mới chính thức được đặt viên đá đầu tiên. Và đây là một bước đột phá về thi pháp, hiểu theo nghĩa rộng nhất của thuật ngữ này. Thi pháp học hôm nay cơ hồ đã trở thành một cơn sốt, nhất là trong việc làm luận án. Định nghĩa về nó có nhiều. Từ cổ xưa, như Arixtốt, Lưu Hiệp... đều có cách quan niệm về "thi pháp học". Đến thời chúng ta, có nhiều định nghĩa từ "hàn lâm" đến thông tục: "Theo cách hiểu thông thường hiện nay trên thế giới, thi pháp là phương pháp tiếp cận, tức là nghiên cứu, phê bình tác phẩm văn học từ các hình thức biểu hiện bằng ngôn từ nghệ thuật, để tìm hiểu các ý nghĩa biểu hiện hoặc chìm ẩn của tác phẩm: ý nghĩa mỹ học, triết học, đạo đức học, lịch sử, xã hội học.v.v... Cấp độ nghiên cứu thi pháp học các hình thức nghệ thuật (kết cấu, âm điệu, nhịp câu, đối thoại, thời gian, không gian, cú pháp.v.v.) yêu cầu đọc tác phẩm như một chỉnh thể, ở đó các yếu tố ngôn từ liên kết chặt chẽ với nhau, họp thành một hệ thống, để biểu đạt ý tưởng, tình cảm, tư duy, nhân sinh quan... tức là cái đẹp của thế giới, con người..." [49: 9, 10] Nhưng hiểu một cách dung dị nhất, thì thi pháp là những phương tiện hình thức để đạt tới nội dung, chuyên chở nội dung, mang tính nội dung, tính quan niệm, Và nói chung, thi pháp là tất cả những sáng tạo và cách tân của một tác phẩm, một tác giả, một trào lưu...; và tất cả là để làm cho người ta thấm thía cái hay của thơ. Nói thi pháp dưới bất cứ khía cạnh nào, cũng đều là để hiểu (và cảm) được cái hay của một câu thơ, một bài thơ, một trào lưu thơ. Khái niệm thi pháp gắn liền với phương diện hình thức nghệ thuật, hình thức nghệ thuật không tồn tại tự nó mà luôn nằm trong sự thống nhất chặt chẽ, biện chứng với nội dung nghệ thuật. Nội dung bao giờ cũng là nội dung của một hình thức nhất định và nếu nói nó quy định hình thức thì lại có thể nói hình thức cũng quy định nội dung. Bởi vì nếu không có hình thức ấy thì đã không diễn 15 đạt được nội dung ấy. Hình thức và nội dung luôn luôn ở trong nhau, xâm nhập lẫn nhau, làm nên nhau. Không thể nào tách rời nội dung khỏi hình thức; người ta chỉ tách rời hình thức ra khỏi nội dung trong nghiên cứu, trong tư duy trừu tượng - tư duy nghiên cứu, đòi hỏi phải "trừu xuất" hình thức ra khỏi nội dung và ngược lại. Đó là một sự "cô lập" nhất thời, còn trong thực tế tác phẩm, người ta không thể nói về cái này mà không nói về cái kia. Nội dung thì vô hạn, hình thức thì hữu hạn, và quan hệ giữa hình thức và nội dung không phải là quan hệ đối xứng, mà vẫn có tính độc lập tương đối. Một hình thức có thể biểu hiện nhiều nội dung và một nội dung có thể được biểu hiện qua nhiều hình thức. Có những cấp độ nội dung cũng như nhiều cấp độ về hình thức, nhiều khi một cấp độ nội dung nào đó chỉ gắn kết với một cấp độ hình thức nào đó mà thôi. Một nội dung gắn kết với một hình thức hoặc ngược lại. Sáng tác văn học là một sự chọn lựa. Tại sao chọn thể loại này, nhịp thơ này, chữ này... mà không lại là cái khác.v.v... Điều đó bị chi phối bởi một số quan niệm nghệ thuật về con người, về thế giới, về truyền thống và sáng tạo... mà có khi chính người sáng tác cũng không ý thức được hết, cũng không tự giác ý thức. Nhưng là người nghiên cứu, chúng ta phải đi tìm các quan niệm ấy, cái lý lẽ ấy. Chúng ta phải dò tìm sự thể hiện nội dung qua hình thức. Chúng ta nghiên cứu hình thức là để nghiên cứu nội dung một cách hoàn thiện. Như đã nói trên, thi pháp là một hệ thống của một cấu trúc hình thức (bề nổi hay chiều sâu) nhưng nó là một biểu hiện của nội dung, liên quan đến nội dung. Và vì thế, trên thế giới, ngày nay ta thấy có hai trường phái lớn về thi pháp, ta tạm gọi là thi pháp vĩ mô và thi pháp vi mô. M.Bakhtin (1895 - 1975) có thể xem là người đại diện kiệt xuất cho trường phái thứ nhất. Trong khi nghiên cứu về "Sáng tác của F.Rabelais và nền văn hóa trào tiếu thời trung cổ và Phục hưng" hay "Thi pháp Dostoievski", ông đều xuất phát từ lịch sử - thực tại - thế giới quan... là những phạm trù triết học - mỹ học, những phạm trù nội dung và từ đó đi tìm những đặc trưng thi pháp như "tiếng cười nhị chức năng", "chủ nghĩa hiện thực dị hợm" (groteque); hay thi pháp nhân vật, thi pháp ngôn ngữ và cái bao trùm lên là tiểu thuyết đa thanh, đối thoại, vai trò của tư tưởng... M.Bakhtin phân biệt thơ và tiểu thuyết: "Thơ là tiếng nói độc bạch (monologique), chẳng hạn một bài thơ diễn đạt một nỗi oán than, một niềm vui, một 16 nỗi nhớ, một suy tưởng. Tiểu thuyết là đối thoại (dialogique), nhiều tiếng nói, nhiều bè, hòa hợp với nhau, cãi nhau, đối chọi nhau" [49: 15, 16]. Trong khi đó, Jakobson lại là tiêu biểu cho trường phái thi pháp vi mô với tác phẩm kinh điển "Thi học và ngữ học", Jacobson xuất phát từ việc định nghĩa và vạch ra mô hình của một thông điệp (message) - người gởi người nhận - bối cảnh - tiếp xúc - mã... và cố gắng đi tìm cách trả lời cho vấn nạn: làm thế nào mà một thông điệp mang chức năng thi ca? Sau đó Jacobson đã phân tích những vấn đề tinh vi nhất, khó khăn nhất của những kết hợp bên trong cấu trúc của một từ, một ngữ đoạn, một câu thơ, cường độ, trường độ, độ tối - sáng, nhịp, nhịp yếu - nhịp mạnh, vai trò của cái nhỏ nhất như morfème (hình vị) trong một bản văn... Như thế có thể nói Jacobson là đại biểu cho thi pháp cấu trúc ngữ học, thi pháp vi mô... Sau những phân tích "soi kính hiển vi" của ông vào các bài thơ của Bondelaire, thơ sonnet Shakespeare,... người ta càng hiểu ý đồ của ông hơn trong việc ông muốn đi đến tận cùng, đi đến cái nhỏ nhất mà có nghĩa trong thơ... "thơ - còn gọi là trục lựa chọn, thay thế, tương đồng, quy chiếu, trục của các ẩn dụ... thơ sử dụng nhiều hình ảnh, nhiều từ tương đương, nhiều từ đồng nghĩa... để diễn tả một tâm trạng, một suy tư (giọt lệ, giọt châu, giọt hồng, giọt tủi... để nói nước mắt, sự đớn đau)..." [49: 16]. Jacobson xem thơ là sự thực hiện chức năng thơ (poetic function) của ngôn ngữ trong quá trình sáng tạo nên tác phẩm nghệ thuật ngôn từ, trên cả hai trục: lựa chọn (selection), và kết hợp (combination). Tác giả còn lưu ý vận dụng lí thuyết thi pháp khai thác các đặc trưng của thơ: cấu trúc trùng điệp (âm thanh, nhịp điệu, ngữ nghĩa...), kiến trúc đầy âm vang, nhiều khoảng trắng trên không gian in thơ, chất nhạc tràn đầy. Sau Jacobson đã có nhiều người kế tục và phát triển nhưng ông vẫn là người mở đầu - kinh điển, mặc dù không phải lí thuyết của ông, lập luận của ông... được người ta chấp nhận dễ dàng mà không phản biện, tranh luận( 1) Sau khi "nhận diện" trên nét lớn về thi pháp học như thế, chúng ta ứng dụng lý thuyết này vào trường hợp thơ Nôm Nguyễn Trãi và xem xét chúng dưới góc độ thi pháp, cố gắng tìm ra những nét riêng biệt làm thành cái chất riêng của thơ Nguyễn Trãi bằng tiếng Việt. (1) Xin xem: JONATHANCULLER STRUCTURALIST POETICS – Structuralison and the Study of Literature, Linguistics, Cornell University Press, Ithaca, New York, 1975. 17 Lí thuyết thi pháp của Jacobson có gặp ở Nguyễn Trãi một điểm là người làm thơ ngày xưa thường chọn từ, chọn ngữ đắc địa để sáng tác, thế nên mới có khái niệm "nhãn tự" - con mắt thơ, hay nói như Đỗ Phủ: "Ngữ bất kinh nhân, tử bất hưu" (nói mà không làm người sợ, chết không nhắm mắt). Tuy nhiên, ở QATT không vận dụng thi pháp Jacobson đến mức phân tích hình vị, vì tiếng Việt không phải như vậy, nhưng gặp gỡ ở việc lựa chọn từ ngữ trên hai trục lựa chọn và kết hợp. Phương Đông trong sáng tác thơ thường liên quan đến việc tìm tứ thơ, mà đã nói đến tứ thì cũng phải tìm kiếm các công cụ hình thức để thể hiện cái tứ của mình, điều này có liên quan đến việc lựa chọn thể loại. Trần Ngọc Ninh trong bài viết "Nguyễn Trãi huyễn thực và sắc không" cho rằng: "Sau J.Cocteau, người ta thường nói rằng thơ là một ngôn ngữ; và sau R. Jacobson, người ta sẽ nói rằng có một ngữ pháp của thơ. ở Việt nam, vào đầu thế kỉ thứ 15, Nguyễn Trãi, nhà thơ thứ nhất của dân tộc đã thực hiện được một sự hòa hợp kì diệu giữa hình thức và nội dung trong thơ của ông..." [104: 15, 16] Vận dụng lí thuyết thi pháp, chúng tôi còn vận dụng các phương pháp: so sánh "so sánh tức là nghiên cứu": so sánh với cái trước nó, cái đồng thời với nó và cái sau nó, trong không gian (khu vực địa lý, vùng, thí dụ: Trung Hoa, Nhật, Đông Á hay Đông Nam Á...), và trong thời gian; phương pháp lịch sử đưa tác phẩm trở về với thời đại đã sản sinh ra nó. Văn chương là tấm gương phản chiếu thời đại, thời đại thế nào thì có văn chương như thế. Văn học cũng là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, nên QATT còn mang dấu ấn về tư tưởng, tình cảm, cảm xúc của cá nhân Nguyễn Trãi, và phương pháp lịch sử cũng là điều kiện để đánh giá hết tầm vóc và vị trí của QATT, cho phép người nghiên cứu thấy được sự tương đồng của QATT với các tác phẩm đương thời, hay sự đột biến (về ngôn ngữ, thể tài...) với các tác phẩm cùng thời, trước đó và sau nó. Trên cơ sở những thao tác như thế, phương pháp thống kê cũng là để tìm ra những tần số xuất hiện của hình tượng, ý tứ... từ đó đi sâu vào mạch ngầm và hệ thống của văn bản để xem tác giả có một quan niệm, một cái nhìn như thế nào? Căn cứ vào những số liệu, cứ liệu khách quan, thực chứng để nêu lên và giải quyết vấn đề. Mọi sự thống kê, phân loại đều nhằm vào mục đích thể hiện một tư tưởng, một giá ưị nghệ thuật đằng sau những con số (trường hợp câu lục ngôn trong 163/ 226 bài là một ví 18 dụ...). Chúng tôi cố gắng vận dụng những mặt mạnh của thi pháp học cấu trúc vào việc nghiên cứu vần điệu, giọng điệu, ngôn từ..., không phải bằng cách tách rời nó khỏi nội dung - tư tưởng, mà chính là để làm rõ thêm những nhân tố của hình thức ấy đã làm tôn vinh nội dung. Chúng tôi thống nhất về mặt phương pháp luận, vì thi pháp QATT là thi pháp của 226 bài thơ trong một tập thơ, vì vậy việc tiếp cận với tác phẩm này luôn tiến hành trên cơ sở hệ thống, tính đa dạng trong xúc cảm của một cá nhân nhà thơ. Vì vậy tính hệ thống như là một đặc điểm mang ý nghĩa phương pháp luận của thi pháp học có cơ sở từ bản thân đối tượng của khoa học này. Chia tách ra các phương pháp như vậy để nhìn nhận vấn đề cho rõ ràng, thực chất các thao tác này luôn luôn kết hợp với nhau, kết hợp trong nhau và với mục đích là khám phá giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm QATT trong mối quan hệ thống nhất, biện chứng. 4. DỰ KIẾN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN. Khoa học - nhất là khoa học xã hội bao giờ sự sáng tạo cũng dựa trên cơ sở kế thừa, nên những đóng góp trong luận án của chúng tôi là đóng góp trên phương diện kế thừa thành quả của những người đi trước. Kế thừa thành quả của người đi trước là thuận lợi cho luận án, đồng thời cũng là khó khăn cho người viết luận án, bởi vì khoa học đòi hỏi có những đóng góp mới mẽ, sáng tạo, không chấp nhận sự vay mượn hay sự lặp lại. 4.1. Giá trị khoa học. Bắt đầu từ vấn đề văn bản QATT, tức là đến với QATT từ văn bản đích thực của nó, chúng tôi vận dụng lý thuyết thi pháp, cùng với các thao tác khoa học, để tiến hành nghiên cứu tổng thể QATT trên các phương diện: quan niệm nghệ thuật về con người, không gian và thời gian nghệ thuật, cùng với các vấn đề về thể loại, âm vận, ngôn ngữ... và dự kiến đạt được những kết quả sau đây: - QATT là bước ngoặt quan trọng trong nền thơ ca nước nhà, mở màn đột phá cho thơ ca Việt Nam sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ, tạo đà cho thơ ca Việt Nam phát triển trên cơ sở trở về với cội nguồn dân tộc. Dùng tiếng Việt để sáng tác, ngôn ngữ trong 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất