Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thể loại phóng sự việt nam từ 1975 đến nay (qua một số tác giả tiêu biểu)...

Tài liệu Thể loại phóng sự việt nam từ 1975 đến nay (qua một số tác giả tiêu biểu)

.PDF
121
186
70

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Tú Như THỂ LOẠI PHÓNG SỰ VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY (QUA MỘT SỐ TÁC GIẢ TIÊU BIỂU) LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thành phố Hồ Chí Minh - 2013 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Tú Như THỂ LOẠI PHÓNG SỰ VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY (QUA MỘT SỐ TÁC GIẢ TIÊU BIỂU) Chuyên ngành: Lí luận văn học Mã số: 60 22 32 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN HOÀI THANH Thành phố Hồ Chí Minh - 2013 1 LỜI CAM ĐOAN Tôi tên: Nguyễn Thị Tú Như Sau hai năm học tập tại trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, được sự đồng ý của Phòng sau Đại học cùng với sự tận tâm hướng dẫn của thầy TS. Nguyễn Hoài Thanh tôi đã tiến hành khảo sát, nghiên cứu và hoàn thành đề tài: “Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay (Qua một số tác giả tiêu biểu)”. Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu của đề tài chưa từng được công bố ở công trình khoa học nào khác. Học viên thực hiện Nguyễn Thị Tú Như 2 MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ............................................................................ 1 MỤC LỤC ........................................................................................ 2 MỞ ĐẦU ........................................................................................... 4 1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................... 4 2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 5 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.................................................................. 8 4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................ 9 5. Những đóng góp của luận văn ................................................................. 10 Chương 1: DIỆN MẠO CHUNG CỦA THỂ LOẠI PHÓNG SỰ VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY.................................................. 11 1.1. Một số quan niệm về thể loại phóng sự trước đây và hiện nay ......... 11 1.1.1. Quan niệm chung về thể loại phóng sự ...................................................11 1.1.2. Quan niệm về thể loại phóng sự trước 1975 ở Việt Nam ........................15 1.1.3. Quan niệm về thể loại phóng sự từ sau 1975 ở Việt Nam ......................17 1.2. Hoàn cảnh xã hội, văn học và báo chí từ 1975 đến nay ...................... 21 1.2.1. Hoàn cảnh xã hội sau 1975 ......................................................................21 1.2.2. Sự phát triển chung của văn học sau 1975 .............................................23 1.2.3. Sự phát triển chung của báo chí sau 1975 .............................................26 1.3. Quá trình vận động, phát triển của phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay ................................................................................................................... 29 1.3.1. Phóng sự giai đoạn 1975 đến 1986 ..........................................................29 1.3.2. Phóng sự giai đoạn 1986 đến 1995 ..........................................................32 1.3.3. Phóng sự giai đoạn 1995 đến nay ............................................................35 Chương 2: ĐẤT NƯỚC, XÃ HỘI, CON NGƯỜI TRONG PHÓNG SỰ VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY ........................... 43 2.1. Một cái nhìn thẳng thắn về hiện thực đất nước .................................. 44 2.1.1. Những sai lầm trong sản xuất nông nghiệp ............................................44 2.1.2. Những bất công trong quản lý đời sống ..................................................48 2.1.3. Sự cần thiết phải bảo tồn nguồn tài nguyên của đất nước .....................57 3 2.2. Một cái nhìn sâu sắc về đời sống xã hội ............................................... 62 2.2.1. Những bức tranh đen tối về tệ nạn xã hội ...............................................63 2.2.2. Những mảng hiện thực phức tạp trong đời sống ....................................67 2.2.3. Những gam màu tươi sáng của đời sống.................................................71 2.3. Một cái nhìn đậm chất nhân văn về hiện thực con người .................. 72 2.3.1. Số phận người lính sau chiến tranh ........................................................72 2.3.2. Những con người bất hạnh ......................................................................77 2.3.3. Những con người giàu đức hy sinh, vượt lên hoàn cảnh .......................83 Chương 3: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA PHÓNG SỰ VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY ........................... 87 3.1. Cái tôi thẩm định hiện thực với giọng điệu phong phú ..................... 87 3.1.1. Cái tôi thẩm định hiện thực ......................................................................88 3.1.2. Cái tôi với giọng điệu phong phú .............................................................92 3.2. Tăng cường tính thông tin thời sự, giảm thiểu về dung lượng .......... 96 3.2.1. Sự tăng cường tính thông tin sự kiện ......................................................97 3.2.2. Sự giảm thiểu về dung lượng, số trang ..................................................102 3.3. Sự kết hợp giữa ngôn ngữ văn học và báo chí ................................... 106 3.3.1. Ngôn ngữ giàu chất văn học ..................................................................106 3.3.2. Ngôn ngữ mang tính thông tấn báo chí .................................................110 KẾT LUẬN .................................................................................. 115 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 117 4 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Phóng sự là một trong những thể loại giữ vai trò tiên phong không kém gì tiểu thuyết và truyện ngắn trong việc chiếm lĩnh, phản ánh hiện thực.Với lợi thế tái hiện thực tại ở thế trực tiếp, thể phóng sự giúp độc giả nắm bắt hiện thực một cách đầy đủ, chính xác nhất. Từ sau 1975 đến nay phóng sự vẫn là thể loại đi đầu trong việc tái hiện hiện thực với góc nhìn trực diện. Nó không ngần ngại đi đến tận cùng ngõ hẻm chật hẹp nhất của hiện thực cũng như quá trình tồn tại, phát triển không tách rời với từng bước đi của xã hội, với sự chuyển mình của nền văn học Việt Nam. Hiện thực đất nước chuyển từ tâm thế thời chiến sang thời bình, đến hội nhập, phát triển đã khẳng định được vị trí của mình cùng bạn bè khắp năm châu trong tất cả mọi lĩnh vực. Bên cạnh những thành công nhất định đã đạt được trên con đường hiện đại hóa đất nước thì xã hội chúng ta đã và đang phát sinh không ít những vấn đề bất cập từ sau 1975 đến nay. Thực trạng ấy rất cần đến những cây bút xông xáo, không ngại gian lao, hiểm nguy tiếp cận, phản ánh để làm nên những tác phẩm phóng sự đặc sắc đủ sức cảnh tỉnh một hiện tại. Với đặc trưng vốn có của thể loại, phóng sự trở thành một lăng kính khách quan nhất trong việc phản ánh hiện thực. Nếu như phóng sự báo chí là thể tài đắc dụng, và nó tồn tại như dĩ nhiên cần có để đáp ứng nhu cầu nắm bắt thông tin xã hội hàng ngày của nhân loại thì phóng sự văn học cũng là thể loại đáp ứng được nhu cầu thông tin nóng hổi, trực tiếp nhất nhưng ẩn đằng sau hàm lượng thông tin ấy nó còn chứa đựng cả giá trị nghệ thuật tạo tác nên tác phẩm văn chương. Nhằm hướng đến khẳng định giá trị cũng như những đóng góp nhất định của phóng sự từ sau 1975 đến nay nên người viết đã chọn 5 đề tài: “Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay (Qua một số tác giả tiêu biểu)”. 2. Lịch sử vấn đề Trong quá trình vận động, phát triển thể loại phóng sự luôn nhận được sự quan tâm đông đảo của độc giả đến những nhà nghiên cứu. Riêng giai đoạn phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay được các nhà nghiên cứu như: Phan Cự Đệ, Nguyên Ngọc, La Khắc Hòa,… nhìn nhận, xem xét, đánh giá ở nhiều góc độ khác nhau về những đóng góp tích cực của thể loại này trên văn đàn văn học và báo chí nói riêng, cho đất nước và xã hội từ năm 1975 đến nay nói chung. Tác giả Phan Cự Đệ khi đề cập đến mảng phóng sự sau 1975 trong công trình Văn học Việt Nam thế kỷ XX có nhận định rằng: “Sau 1975 và nhất là những năm bước vào thời kỳ Đổi mới, thể ký tiếp tục thể hiện vai trò của mình trong việc tiếp cận hiện thực cuộc sống đầy bức xúc của thời hậu chiến một cách nhanh nhạy và sắc bén. Đáp ứng nhu cầu nhận thức lại thực tại, chống tiêu cực, nhình thẳng vào sự thật với cảm hứng phê phán, từ sau đổi mới, hàng loạt bài ký, phóng sự ra đời, thu hút sự chú ý của công chúng: Cái đêm hôm ấy đêm gì (Phùng Gia Lộc), Lời khai của bị can (Trần Huy Quang),…” [7, tr.411]. Qua ý kiến trên, Phan Cự Đệ nhằm nhấn mạnh đến bước phát triển nổi trội về số lượng cùng với chức năng ưu trội của thể loại phóng sự đã chinh phục, đáp ứng được trọn vẹn “nhu cầu của công chúng”. Cùng đứng trên khía cạnh công nhận sự trưởng thành của thể loại này thông qua sự góp mặt của nhiều tác giả với hàng loạt tác phẩm xuất hiện đem lại hiệu ứng tích cực cho xã hội nhưng Nguyên Ngọc qua bài viết Văn xuôi Việt Nam hiện nay - logic quanh con người của các thể loại, những vấn đề đang đặt ra và triển vọng triển vọng được in trong công trình Văn học Việt Nam sau 1975, những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy còn nhấn mạnh thêm 6 nét đặc sắc riêng và tác dụng của phóng sự đối với đời sống văn học trong thời kỳ này cụ thể như sau: “Trên báo Văn nghệ bấy giờ xuất hiện một loạt những phóng sự viết về những thực trạng khác nhau trong xã hội, đặc biệt là ở nông thôn… Nay văn học lại tìm đến thể loại phóng sự bị bỏ quên từ lâu… Phóng sự cho phép họ nhanh chóng tiếp cận hiện thực mới, không bị sự cản trở của “hàng rào” văn chương, và cũng chính từ đó mò tìm ra, trui rèn nên, tự tạo nên ngôn ngữ nghệ thuật mới của mình. Một loạt phóng sự đăng trên báo Văn nghệ gây tiếng vang lớn: Lời khai của bị can, Người biết làm giàu,… của Trần Huy Quang, Người đàn bà quỳ của Xuân Ba, Tiếng kêu cứu của một vùng văn hóa của Võ Văn Trực, Đêm trắng của Hoàng Hữu Các, Cái đêm hôm ấy đêm gì của Phùng Gia Lộc,… làm xôn xao dư luận và lập tức kéo công chúng quay trở lại với văn học. Chính thể loại phóng sự được khôi phục một cách hiệu quả đó làm cho văn học, chỉ trong một thời gian ngắn, đầy ứ hiện thực xã hội mới mà trước đó nó rất nghèo nàn…” [12, tr.171-172]. Theo tác giả thì thể loại phóng sự đã “tạo nên ngôn ngữ nghệ thuật của mình” và giúp văn học đa dạng hóa bức tranh “hiện thực xã hội”. Cũng trên lập trường cỗ vũ cho thể loại văn báo này, Nguyên Ngọc tiếp tục phát hiện mặt đóng góp tích cực của phóng sự: “Quả thật không thể không nói đến tác dụng tích cực của báo chí, đặc biệt của thể loại phóng sự, được khôi phục một cách đúng lúc vào thời điểm đó đã thật sự góp phần không nhỏ tạo nên chuyển động xã hội quan trọng nhất của đất nước kể từ sau 1975”. Không chỉ đóng góp, bổ sung giúp bức tranh văn học thêm đầy đặn, phong phú hơn mà thể loại phóng sự còn tạo nên chuyển động ở tầm cao hơn là “tạo nên chuyển động xã hội quan trọng nhất của đất nước kể từ sau 1975”. Riêng với La Khắc Hòa khi có khoảng thời gian lùi lại và xem xét thì trong bài viết Nhìn lại bước đi - lắng nghe những tiếng đổi mới ông cho rằng: “Thể phóng sự sau nhiều năm vắng bóng, nay lại lên tiếng làm xôn xao dư luận. 7 Những Tiếng đất của Hoàng Hữu Các, Người đàn bà quỳ của Xuân Ba, Cái đêm hôm ấy đêm gì của Phùng Gia lộc, Lời khai của bị can của Trần Huy Quang,... chắc chắn sẽ sống mãi trong ký ức người đọc” [12, tr.58] và “đây là những thiên phóng sự đầy ắp sự thật đời sống, làm chấn động dư luận” [12, tr.64], với cách nhìn nhận này tác giả có sự so sánh với giai đoạn trước là “ thể phóng sự sau nhiều năm vắng bóng” để hướng đến khẳng định những tác phẩm phóng sự nổi trội của giai đoạn này là “những thiên phóng sự đầy ắp sự thật đời sống, làm chấn động dư luận”. Với Trần Thị Trâm trong bài bàn về Báo chí và cuộc hành trình đổi mới văn học cuối thế kỷ XIX lại lưu tâm đến tác động của phóng sự đối với những chuyển biến quan trọng của văn học khi có nhận xét rằng: “Công cuộc đổi mới văn học do Đảng Cộng sản Việt Nam phát động cuối thế kỷ XX, có lẽ cũng được bắt đầu từ hàng trăm tác phẩm kí in trên báo chí và tiêu biểu là những phóng sự đăng trên báo Văn nghệ như: Cái đêm hôm ấy đêm gì (Phùng Gia Lộc, báo Văn nghệ, 1986), Người đàn bà quỳ (Xuân Ba, báo Văn nghệ, 1988), Vua Lốp (Trần Huy Quang, báo Văn nghệ, 1986), Lời khai của bị can (Trần Huy Quang, báo Văn nghệ, 1987)” [12, tr.149], từ việc khảo sát vai trò của thể loại tác giả nhằm nhấn mạnh đến mối liên hệ giữa văn học và “tác phẩm kí in trên báo” trong quá trình phát triển. Dương Xuân Sơn lại xem xét sự phát triển của thể loại phóng sự từ góc độ quan sát “mầm mống nảy sinh” được đề cập trong giáo trình Các thể loại báo chí chính luận nghệ thuật như sau: “Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), chủ trương mở cửa và chính sách đổi mới, dân chủ hóa đời sống chính trị, coi báo chí như một sản phẩm văn hóa đặc biệt, xóa bỏ bao cấp đối với các hoạt động của báo chí đã tạo điều kiện nảy mầm cho những cây phóng sự mới như Huỳnh Dũng Nhân, Vĩnh Quyền (báo Lao động), Xuân Ba, Mạnh Việt (báo Tiền phong), Minh Tuấn (báo Đại đoàn kết),… cùng với 11.000 nhà báo Việt 8 Nam, họ đã mang đến cho công chúng những thiên phóng sự lớn, thực sự có giá trị, đáp ứng được nhu cầu thông tin ngày càng lớn của công chúng” [25, tr.35]. Qua đó, ta thấy nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển vượt bậc số lượng tác phẩm phóng sự qua một lực lượng cầm bút hùng hậu đã làm hài lòng công chúng là bắt nguồn từ Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) với nhiều chủ trương đổi mới, tiến bộ song song với việc xem báo chí là một trong những công cụ quan trọng để hoàn thành sứ mệnh đổi mới của đất nước trong lúc bấy giờ. Từ năm 1975 đến nay, trải qua chặng đường hơn 30 năm, với sự góp mặt đông đảo của người sáng tác lẫn giới nghiên cứu luận bàn, đánh giá về thể loại đã chứng tỏ được sức sống bền bỉ và tác động tích cực của phóng sự đối với xã hội. Trên cơ sở tiếp nhận những ý kiến trên, đề tài tập trung đi sâu khai thác vấn đề nội dung và một số đặc điểm nghệ thuật chủ yếu của thể loại phóng sự Việt Nam giai đoạn từ 1975 đến nay. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Với đề tài “Đặc điểm phóng sự Việt Nam từ sau 1975 đến nay (qua một số tác giả tiêu biểu)” người viết sẽ tập trung khảo sát trực tiếp trên những tác phẩm phóng sự của những nhà văn, nhà báo tiêu biểu đã được xuất bản từ 1975 đến nay. Trong quá trình khảo sát, đề tài được nghiên cứu trên cơ sở chọn lọc những phóng sự tiêu biểu trong 11 tập phóng sự lần lượt của những tác giả sau: Tiếng kêu của con chim gõ kiến (Trúc Chi – Công Thắng, NXB Hội Văn học Nghệ thuật Phú Khánh, 1989), Phóng sự tuyển Trần Huy Quang (NXB Văn học, 11/1995), Sự đời (Vũ Hữu Sự, NXB Lao Động, 8/1996), Bút ký – Phóng sự được giải năm 1996 – 1997 (Tuần báo Văn nghệ, NXB Hội Nhà văn, 1997) Chuyện đời thường mà không thường (Vũ Hữu Sự, NXB Công an Nhân dân, 1998), Ăn tết trong rừng chó sói (Huỳnh Dũng Nhân, NXB Lao động, 4/1995), Kính thưa osin (Huỳnh Dũng Nhân, NXB Thông tấn, 2012), 9 Vẫn phải tin vào những giọt nước mắt (Xuân Ba, NXB Văn học, 1995), Thời chưa xa người chưa cũ (Xuân Ba, NXB Văn học, 2004), Mỗi ngày một vạn bước (Nhiều tác giả, NXB Thanh niên, 2006), 30 phóng sự tuyển chọn trong công trình Phóng sự báo chí hiện đại (Đức Dũng, NXB Thông Tấn, Hà Nội, 2004) cùng với hai bài phóng sự đặc sắc Cái đêm hôm ấy đêm gì (Phùng Gia Lộc), Người đàn bà quỳ (Xuân Ba). Song song với khảo sát trên văn bản tác phẩm, đề tài luận văn còn được tiến hành các thao tác nghiên cứu trên nguồn các giáo trình, phê bình, chuyên khảo,… Trong giới hạn nghiên cứu của đề tài với số lượng tác phẩm được lựa chọn và tìm hiểu những tài liệu có liên quan như trên là nguồn dẫn chứng, tư liệu quan trọng góp phần cho việc đánh giá, bình luận, phân tích vấn đề thêm sâu sắc, chặt chẽ. Thông qua đề tài này, người nghiên cứu sẽ hướng đến phác họa diện mạo thể loại phóng sự từ 1975 đến nay (qua một số tác giả tiêu biểu), từ đó đó tìm hiểu về tình hình đất nước, xã hội, con người cùng một số đặc điểm nghệ thuật được thể hiện trong phóng sự từ sau 1975 đến nay. 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp phân tích - tổng hợp sẽ được sử dụng rộng rãi trong luận văn. Đi từ việc khảo sát tác phẩm, phân tích những yếu tố, chi tiết nổi bật trong việc thể hiện nội dung cũng như nghệ thuật (sự việc, sự kiện, tâm lí nhân vật, lí giải hành động của nhân vật,…) đến rút ra những nhận xét có tính chất tổng hợp, khái quát, làm nổi rõ đặc điểm phóng sự sau 1975 đến nay. Phương pháp so sánh: So sánh với phóng sự trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ giúp chúng ta có cái nhìn khách quan, giúp người viết hướng đến khẳng định vị trí, vai trò của phóng sự Việt Nam từ sau 1975 đến nay. 10 5. Những đóng góp của luận văn Qua đề tài người viết nhằm cung cấp cho chúng ta cái nhìn tổng quát về đặc điểm của phóng sự Việt Nam từ sau 1975 đến nay. Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay đã có những đóng góp quan trọng đối với văn học và báo chí trên cả phương diện nội dung lẫn nghệ thuật. Luận văn được tiến hành khảo sát, triển khai một cách có hệ thống, cụ thể các vấn đề thuộc về bình diện nội dung và hình thức góp phần làm sáng tỏ thêm bước chuyển mình của “Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay”. Nhìn nhận lại một giai đoạn mà phóng sự Việt Nam đã và đang phát triển đến ngày nay thực chất là phép quy chiếu “sức sống, nội lực tiềm tàng của thể loại” đang nảy sinh trên mảnh đất hiện thực vốn bộn bề, nhiều màu sắc. Trên khía cạnh tổng hợp vấn đề mà phóng sự phản ánh về đất nước, xã hội, con người sẽ là cơ sở giúp ta nhận diện vấn đề của hôm qua và hôm nay bằng lăng kính khách quan nhất, vươn xa hơn đến chân trời Chân – Thiện – Mĩ. 11 Chương 1: DIỆN MẠO CHUNG CỦA THỂ LOẠI PHÓNG SỰ VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY Thể loại phóng sự, trong quá trình sinh thành, phát triển đã thu hút không ít sự quan tâm của những nhà nghiên cứu, phê bình. Nhìn chung, các ý kiến bàn luận xoay quanh các vấn đề thuộc về nguồn gốc xuất hiện, đặc điểm của thể loại này so với thể loại khác cũng như chức năng của thể phóng sự với cuộc sống, con người. Để có cơ sở khảo sát những đặc điểm nội dung và hình thức ở hai chương sau ta cần tìm hiểu qua diện mạo chung của thể loại phóng sự từ 1975 đến nay. 1.1. Một số quan niệm về thể loại phóng sự trước đây và hiện nay Ta đã biết phóng sự là thể loại đặc biệt thuộc loại hình Ký. Ký là tên gọi chung cho nhóm thể tài nằm ở phần giao nhau giữa văn học và ngoài văn học, chủ yếu là văn xuôi tự sự và văn xuôi trữ tình (bao gồm các thể loại: bút kí, tùy bút, du ký,... trong đó có phóng sự). Trong đó, phóng sự là thể loại tiêu biểu nhất của ký tự sự đã có nhiều thành tựu ở Việt Nam cũng như thế giới. Ta cần điểm qua một số quan niệm chung về thể loại phóng sự trên thế giới cũng như ở Việt Nam từ trước đến nay. 1.1.1. Quan niệm chung về thể loại phóng sự Ngay từ buổi đầu xuất hiện thể phóng sự đã gây sự chú ý mạnh mẽ với công chúng tiếp nhận. Đã có nhiều quan niệm chung về thể loại phóng sự trên các khía cạnh về nguồn gốc sinh thành, đặc điểm cũng như vai trò, vị trí của nó trong tương quan với hoàn cảnh xã hội, với thể loại khác nói chung. Trên thế giới đối với thể loại phóng sự đã có rất nhiều nghiên cứu và nhận định ngay từ khi nó bắt đầu sinh thành. Trong Từ điển nghiên cứu của văn học Đức (Chủ biên: GS - TS Clause Trager, NXB Bibliographisches Institut, 12 Leipzig, 1986) cho rằng phóng sự là một: “Thể loại văn học, phát triển lên từ loại tường thuật tai nghe mắt thấy của báo chí trong mối quan hệ qua lại của sự miêu tả khách quan và những phát biểu chủ quan. Bắt nguồn từ báo chí và đáp ứng những đòi hỏi của nó (ngắn gọn, cụ thể, tính chất tường thuật và cung cấp tư liệu thông tin) phóng sự đã phát triển thành thể loại riêng, bằng một phương pháp hết sức hấp dẫn đã hòa quyện được sự tường thuật với sự nâng cao bằng hư cấu các sự kiện. Từ đây trở đi phóng sự chứng tỏ khả năng của nó đặc biệt ở những nơi mà những sự biến đổi xã hội cần phải được nhanh chóng suy xét và thúc đẩy” [31, tr.38-39]. Với những đặc tính: ngắn gọn, nhằm cung cấp tư liệu thông tin, nâng cao bằng hư cấu các sự kiện với khả năng đặc biệt là xuất hiện ở những nơi mà những sự biến đổi xã hội cần được nhanh chóng suy xét và thúc đẩy đã khẳng định tính tiên phong trong thế nắm bắt hiện thực của thể loại và nguồn gốc của nó là được “phát triển lên từ loại tường thuật tai nghe mắt thấy của báo chí”. Theo Encyclopedia Universalis trong Bách khoa toàn cầu, xuất bản ở Pari 1991, thì thể phóng sự: “Ra đời ở Mỹ trong chiến tranh Nam Bắc (1861-1865) phóng sự đã nhanh chóng phát triển trong các báo Anglo – Saxome và trên mục Thời luận” [31, tr.39]. Sau khi thể phóng sự đã có mặt trên báo chí Mỹ, thì: “Báo chí Pháp còn lâu vẫn dè dặt, ngập ngừng, các kí giả, chủ yếu là các nhà biên niên và những nhà bình luận đời sống chính trị quốc gia, nhận thức không đúng cái sản phẩm mới này” [31, tr.39-40]. Trong các ngôn ngữ ở châu Âu, như tiếng Pháp, tiếng Nga, thuật ngữ Phóng sự đều bắt nguồn từ tiếng Anh là Report. Theo Từ điển từ nguyên (Dictionnaire Etymologique) của Anbert Dauzat, do Larouss xuất bản năm 1947, ở trang 625 và 725 có hai từ: re (lặp lại), port (mang vác, mang sự kiện), có thể xem từ report của tiếng Anh có nguồn gốc từ hai từ Latinh cổ này ghép lại [31, tr.41]. 13 Ở Pháp, từ điển Le Petit Laroussl, năm 1996, trang 878 giải thích từ Reportage theo 3 nghĩa: “ Là một bài báo viết theo sự điều tra của phóng sự viên. Là bài điều tra được công bố trên đài, báo ảnh, truyền hình. Là chức năng, nhiệm vụ của một phóng sự viên thuộc một tờ báo”. TrongTừ điển Petit Robert, năm 1973 trang 1525 cho rằng: “ Phóng sự là một bài báo hay một loạt bài báo trong đó phóng viên phản ánh một cách sinh động những gì mà anh ta đã nhìn và nghe thấy...” [31, tr41-42]. Có rất nhiều quan niệm, cách nhìn nhận về nguồn gốc thuật ngữ và đặc điểm phản ánh cũng như vị trí và vai trò của thể loại này với nhiều cách lý giải khác nhau. Theo GS.TS. Caren Xtorơcan (khoa Báo chí, Trường Đại học Sác lơ, Tiệp Khắc trước đây) cho rằng phóng sự thực sự xuất hiện đầu tiên là ở nước Pháp: “Một nhà báo Pháp có nhiều tham vọng đã được cảnh sát trưởng Pari cho phép đi thăm các nhà tù của Pháp. Việc miêu tả dựa trên sự kể lại của một nhân chứng mắt thấy tai nghe đã gây ấn tượng mạnh trong người đọc” [5, tr.9]. Nhà nghiên cứu người Pháp Noen Duytore có ý kiến rằng: “những người đi tiên phong” trong việc viết phóng sự có thể là Giaclandon và Apton Xincle ở Mỹ với những tác phẩm như Dân dưới vực thẳm hoặc Rừng [5, tr.10]. Ở Mỹ, nhà văn nhà báo Mark Twain quan niệm rằng: “Phóng sự chỉ là sự ghi chép lại một cách giản đơn, máy móc một hiện tượng nào đó”. Cuốn từ điển Oepxtơ cũng chỉ coi phóng sự là một sự ghi chép, mô tả, tường thuật lại một hiện tượng,…[31, tr.43]. Ở Liên Xô, nhiều ý kiến cũng cho rằng phóng sự là một thể loại riêng của báo chí. Ta lưu ý đến khái niệm “phóng sự hiện đại” của giáo sư Caren Xtorocan ở Tiệp Khắc khi ông cho rằng: “Trong phóng sự hiện đại, không phải là một sự ghi chép giản đơn, mà còn là sự trả lời một loạt câu hỏi phức tạp liên quan đến cuộc sống chúng ta” [31, tr.43]. Theo ông, thể phóng sự bắt đầu khẳng định vị trí của nó trên báo chí từ sau chiến tranh thế 14 giới thứ nhất, vì lý do: “việc người đọc sau chiến tranh chán ngấy sự hư cấu và khát khao muốn biết những điều chân thực đã gợi ý cho các nhà văn cũng như những người xuất bản báo” [31, tr.44]. Từ những ý kiến trên ta thấy Phóng sự đã phát triển nhanh nhạy, khẳng định năng lực phản ánh hiện thực ở tất cả các nước phương Tây từ cuối thế kỷ XIX. Từ thực tiễn sáng tác, nghiên cứu, các nhà nghiên cứu trên thế giới đã có quan niệm khác nhau về thể loại này. Không khác với tình hình của thế giới, trong đời sống báo chí, văn học Việt Nam, phóng sự là thể loại tân văn, sản phẩm của công cuộc hiện đại hoá văn học, là thể loại có sự đóng góp quan trọng trong tiến trình phát triển của văn học hiện đại ở thập niên thứ ba của thế kỷ XX đã thu hút nhiều sự quan tâm của người tiếp nhận dẫn đến có rất nhiều quan niệm khác nhau. Nó là sản phẩm của quá trình giao lưu, ảnh hưởng, tiếp xúc với văn hoá, văn học phương Tây. Tác giả bài xã luận Phỏng sự là gì? đăng trên trang 2 của báo Phỏng sự, số 3, năm 1938 ở Sài Gòn cũng cho rằng: “Lần đầu hết, trên tờ báo New - York herald xuất bản ở Nữu Ước vào năm 1871, người ta thấy một bài của Stanley thuật chuyện mình đi tìm ông Livingstone ở hồ Tanganuyiki. Bài kĩ thuật ấy, Stanley viết bằng một lối văn mới lạ, chưa từng thấy bao giờ và nó có mãnh lực lôi cuốn người xem làm cho thiên hạ phải ngạc nhiên và hoan nghênh nhiệt liệt. Đó là thể văn phóng sự do nhà báo Stanley – là người đầu tiên đã sáng tạo ra cái danh từ “phỏng viên” cũng bắt đầu từ đó. Trước sự thành công của Stanley, các báo ở Nữu Ước và trong thế giới mới lục tục bắt chước theo. Và trong lịch sử của văn học thế giới từ ấy, người ta đã ghi tên nhà phỏng viên Stanley bằng nét chữ vàng.Về phỏng sự, Stanley là thủy tổ” [31, tr.39]. Trong cuốn Việt Nam tự điển của Hội Khai Trí Tiến đức, xuất bản năm 1931, cho rằng “phóng sự: người hỏi tin cho nhà báo”. [31, tr.45]. Năm 1932, trong 15 cuốn Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh có hai chữ: “phóng (bắt chước, hỏi, phỏng theo) và sự (việc)” [31, tr.45]. Từ điển Hán - Việt của Nguyễn Lân giải thích phóng sự: “Thể văn trên báo chí kể lại những sự việc tai nghe mắt thấy” [22, tr.14]. Xem xét trong tổng thể quá trình hình thành và phát triển của thể loại phóng sự so với các thể loại khác như tiểu thuyết, truyện ngắn,…thì phóng sự ra đời muộn hơn. Cụ thể là vào cuối thế kỷ XIX ở các nước phương Tây và du nhập vào Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Xuất hiện trong giai đoạn đầu với vị trí là “thể loại tân văn”, nó có sức hút đặc biệt đối với độc giả trong và ngoài nước. Bởi phóng sự đã tỏ rõ được ưu thế của nó khi phản ánh hiện thực trực tiếp, đáp ứng được nhu cầu nắm bắt thông tin nhanh nhanh nhạy của người tiếp nhận. 1.1.2. Quan niệm về thể loại phóng sự trước 1975 ở Việt Nam Nhắc đến phóng sự trước 1975 ta không thể không nhắc đến giai đoạn phóng sự đã phát triển vượt bậc vào thập niên 30, 40 của thế kỷ XX. Giai đoạn này, cùng với tiểu thuyết, Thơ mới, phóng sự là một thể văn phát triển mạnh mẽ (Vũ Trọng Phụng, Thiếu Sơn, Lãng Tử, Y Lang,…). Và cũng trong chừng ấy năm cho đến nay đã có hàng loạt những công trình, ý kiến nghiên cứu bàn về thể loại này theo nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau. Theo Hoàng Minh Phương trong Phương pháp thực hiện phóng sự báo chí thì ở nước ta, do báo chí ra đời muộn hơn các nước phương Tây, phóng sự được ghi nhận từ những thập niên đầu của thế kỷ XX. Vào khoảng năm 1932, Tam Lang cho ra đời Tôi kéo xe và ông đã được coi là người mở đầu cho lối văn phóng sự ở Việt Nam. Tiếp theo sau là những phóng sự Trước vành móng ngựa (1938) của Hoàng Đạo, Hà Nội lầm than (Trọng Lang), Thanh niên trụy 16 lạc (Nguyễn Đình Lạp), Kỹ nghệ lấy Tây (Vũ Trọng Phụng),… đều là những tác phẩm có tiếng vang trong đời sống văn học. Vào những năm 50, trong tập bài giảng Muốn làm phóng sự, tác giả Nguyễn Đình Lạp cho rằng: “Phóng sự là nghiên cứu tìm hiểu một sự kiện gì rồi ghi chép lại cho thật đúng”. Đến năm 1962, trên báo Văn nghệ tác giả Bùi Huy Phồn cho rằng phóng sự là: “một thể văn xung kích”, “thuyết phục trực tiếp người đọc bằng những số liệu, người thật có thể kiểm tra thấy được… nhất là tính chiến đấu và kịp thời” [31, tr.45]. Tiếp đó, trên Tạp chí văn học (từ số tháng 5/1966 đến số tháng 6/1967) đã mở đợt Trao đổi về thể ký và vấn đề viết về người thật, việc thật. Các nhà văn đã lần lượt trình bày quan niệm của mình về thể phóng sự cũng như nhà nghiên cứu Vũ Đức Phúc đã kết luận vấn đề rằng: “Phóng sự là kết quả của một nghiên cứu tại chỗ một vấn đề thời sự rất lớn đang làm cho cả xã hội, có khi cả thế giới chú ý, đặt ra nhiều dấu hỏi mà vấn đế ấy lại xảy ra ở một nơi ít người có điều kiện đến nghiên cứu tường tận, một nơi đương thời rất khó đến. Chính do đặc điểm này của phóng sự mà một phóng sự có giá trị phải sốt dẻo, xác thực, toàn diện” [31, tr.46]. Trong bài viết có tính chất tổng kết, nhà nghiên cứu Nam Mộc kết luận rằng: “Có tác phẩm thiên về ghi sự kiện xã hội, hành động con người xoay quanh một vấn đề nhất định của xã hội, của thời đại. Tác phẩm này còn có thể chứa cả những tài liệu báo cáo, số lượng thống kê, bắc cầu giữa văn học và báo chí. Ta gọi đó là phóng sự” [31, tr.47]. Đến những năm 60, Chế Lan Viên có những nhận xét thiên về hình thức cũng như kết cấu của thể loại đã cho rằng: “Ở phóng sự thì ta chỉ cần người mà không cần nhân vật, và cần vấn đề, cần sự việc mà cốt truyện lại không cần. Tóm lại, chuyện có thực hay không, có nhân vật hay không có nhân vật, có cốt truyện hay không chỉ là những sự việc nối nhau bởi một vấn đề, là ba điểm lớn để phân biệt tiểu thuyết và phóng sự” [31, tr.47]. 17 Những ý kiến, quan niệm trên của những nhà nghiên cứu do gắn liền với tuổi đời còn non trẻ của thể loại phóng sự nên họ có thiên hướng khai thác đặc điểm chung nhất của thể loại về mặt nội dung cũng như hình thức phản ánh. Đó là thể loại phản ánh những vấn đề, sự kiện của cuộc sống ở góc nhìn trực diện mang tính chiến đấu kịp thời nhưng không cần sự khắc họa nhân vật, kể cả cốt truyện. Điều cốt yếu nhất của thể loại phóng sự là “cần người”, “cần vấn đề”, “cần sự việc” đồng thời tác phẩm phóng sự phải biết “đặt ra những câu hỏi” trước cuộc đời. 1.1.3. Quan niệm về thể loại phóng sự từ sau 1975 ở Việt Nam Trong cuộc hành trình sinh thành và phát triển của thể loại, phóng sự đã trải qua những bước thăng trầm nhất định tương ứng với những hoàn cảnh xã hội khác nhau. Sau khi phát triển rầm rộ vào giai đoạn 1930 - 1945 thì phóng sự tạm lắng lại trong khoảng thời gian dài cho đến đại thắng mùa xuân 1975 nó được khôi phục vị thế và trưởng thành hơn. Sự hồi sinh của thể loại phóng sự trên văn đàn giai đoạn từ 1975 đến nay cũng đồng nghĩa với sức cuốn hút trở lại của nó đối với giới nghiên cứu tham gia nhận xét, đánh giá trên nhiều bình diện khác nhau. Bước sang những năm 70 trong cuốn Từ điển tiếng Việt (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1977) định nghĩa rằng: “Phóng sự là thể văn chú trọng diễn tả sự thật mà mình trông thấy và giải đáp các vấn đề do sự thật ấy nêu ra” [31, tr.48]. Tiếp theo trong Từ điển học sinh (Nhà xuất bản Giáo dục, 1977) trình bày khái niệm có phần sâu sắc hơn khi cho rằng: “Phóng sự là thể văn phản ánh, phân tích kịp thời những sự việc tai nghe mắt thấy có tính chất điều tra” [31, tr.48]. Quyển Từ điển thuật ngữ văn học xuất bản vào năm 1992 do GS Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên (Nxb Giáo dục) đã có những 18 phân tích, đánh giá rất chi tiết về phóng sự như sau: “Việc sử dụng một số phương tiện biểu đạt của văn học như các biện pháp tu từ, ngôn ngữ giàu hình ảnh, hướng vào thế giới bên trong (ở một mức độ nhất định) của nhân vật,... khiến cho phóng sự vốn từ báo chí, có thể trở thành văn học, một số tác phẩm thuộc loại này thường được chấp nhận như là những tác phẩm văn học có giá trị” [31, tr.48]. Xuất phát từ cơ sở hiện thực, năm 1962, GS Hà Minh Đức trong giáo trình Thể loại văn học nhận định rằng: “Điều chủ yếu trong một thiên phóng sự ... là sự việc và hiện thực khách quan” (Nhà xuất bản Giáo dục, trang 160) [31, tr.49]. Đến năm 1992 ông tiếp tục khẳng định: “Về cơ bản, phóng sự cũng có đặc tính của thiên kí sự: chú trọng sự kiện khách quan, tôn trọng tính xác thực của đối tượng miêu tả. Nhưng phóng sự lại đòi hỏi tính thời sự trực tiếp. Phóng sự được viết ra nhằm giải đáp những vấn đề nào đó mà xã hội đang quan tâm. Người viết trình bày một cách khách quan diễn biến của câu chuyện, sự việc, đồng thời cũng nhằm chứng minh cho một kết luận của mình, hoặc từ đó đề xuất ra những vấn đề xã hội nhất định (...). Người viết phóng sự giỏi trước hết phải là người có trách nhiệm với ngòi bút, với chân lí cuộc sống, phải biết xông xáo, đi sâu vào thực tế đời sống, có năng lực phát hiện và khái quát hóa” [31, tr.49]. Khảo sát trên phương diện nội dung GS Phương Lựu trong giáo trình Lí luận văn học tái bản lần thứ 5 năm 2006 cho rằng “phóng sự nổi bật bằng những sự thật xác thực, dồi đào và nóng hổi” và “nội dung chủ yếu của phóng sự lại thiên về vấn đề mà người viết muốn đề xuất và giải quyết” [13, tr.435]. Gần đây, công trình Lí luận văn học do Trần Đình Sử chủ biên xuất bản năm 2012 cũng khẳng định lại về mặt hình thức rằng: “Phóng sự là thể loại ký nằm giữa văn học và báo chí. Phóng sự khác thông tấn ở chỗ nó không chỉ đưa tin mà còn có nhiệm vụ dựng lại hiện trường cho mọi người quan sát,
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất