Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thế giới tâm linh trong truyện thơ nôm ...

Tài liệu Thế giới tâm linh trong truyện thơ nôm

.PDF
253
1
58

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ GÁI THẾ GIỚI TÂM LINH TRONG TRUYỆN THƠ NÔM Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. LÊ THU YẾN Thành phố Hồ Chí Minh - 2010 LỜI CẢM ƠN Trong quá trình tham gia khóa học Sau Đại học và thực hiện luận văn này, người viết đã đón nhận sự giúp đỡ, chia sẻ, động viên của khá nhiều bạn bè, đồng nghiệp và quí Thầy Cô. Người viết xin chân thành biết ơn PGS. TS. Lê Thu Yến – Phó chủ nhiệm Khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Cô đã cảm thông, chia sẻ và hết lòng giúp đỡ, hướng dẫn người viết trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Xin chân thành cảm ơn quí Thầy Cô trong Ban chủ nhiệm Khoa Ngữ Văn, phòng Khoa học Công nghệ - Sau Đại học Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, quý Thầy Cô trong ban giảng huấn đã tận tình truyền đạt kiến thức và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập. Xin cảm ơn Ban Giám Hiệu và tập thể giáo viên Tổ Văn Trường THPT Thạnh Lộc đã tạo điều kiện cho người viết trong quá trình tham gia khóa học Sau Đại học. Xin cảm ơn các đồng chí Lãnh đạo và quí đồng nghiệp cơ quan Công đoàn Giáo dục Thành phố, Sở Giáo dục – Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh đã chia sẻ, tạo điều kiện cho người viết trong quá trình thực hiện luận văn. Xin cảm ơn tất cả quí đồng nghiệp, bạn bè và gia đình đã chia sẻ, động viên, giúp đỡ người viết trong suốt quá trình thực hiện và hoàn tất luận văn. Tuy đã cố gắng nhưng luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót, kính mong được sự chỉ dẫn của quý Thầy Cô, quý đồng nghiệp và bạn bè. Người thực hiện Luận văn Nguyễn Thị Gái MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong bất kỳ thời đại nào của xã hội, cuộc sống của con người đều có mối quan hệ tiềm ẩn với thế giới tâm linh. Một mối quan hệ có lúc hiển hiện khá rõ trong sinh hoạt văn hóa, tinh thần của con người nhưng cũng có lúc tồn tại ẩn kín trong tâm hồn, trong nếp nghĩ của cá nhân, cộng đồng mà chúng ta thật sự chưa lý giải hết… Có thể nói, thế giới tâm linh là đời sống tinh thần vô cùng huyền bí của nhân dân chi phối rất nhiều đối với cuộc sống và rất quan trọng đối với mọi người. “Thế giới tâm linh là thế giới của cái thiêng liêng, mà ở đó chỉ có cái gì cao cả, lương thiện và đẹp đẽ mới có thể vươn tới. Cả cộng đồng tôn thờ và cố kết nhau lại trên cơ sở của cái thiêng liêng ấy”. [70, tr. 115] Theo Đỗ Lai Thúy, “con người là một thực thể đa chiều…Đó là bản chất sinh học, bản chất xã hội và bản chất tâm linh. Ba bản chất này tạo thành chiều sâu, chiều rộng và chiều cao của con người”. [103, tr. 7]. Chính vì vậy, đời sống của con người luôn tồn tại và tiềm ẩn thế giới tâm linh, một lĩnh vực của đời sống tinh thần. Đó là một lĩnh vực gắn liền với những khái niệm cái thiêng liêng, cái cao cả, cái siêu việt… không chỉ có ở đời sống tôn giáo mà còn có cả trong đời sống tinh thần, đời sống xã hội. Không chỉ có Trời, Phật, Thần, Thánh mới thể hiện sự thiêng liêng mà đất nước, quê hương, lòng yêu thương con người, sự thật, công lý, đạo làm người cũng thiêng liêng không kém. Vì vậy, thế giới tâm linh luôn tồn tại trong đời sống con người và trở thành truyền thống văn hóa đậm nét qua mọi thời đại. Đó là một giá trị cơ bản và vĩnh hằng của đời sống con người. Qua nhiều tài liệu nghiên cứu về tâm linh, có thể nói Nguyễn Đăng Duy đã đúc kết thật sự giá trị về tâm linh: “Tâm linh là những cái trừu tượng thiêng liêng, thanh khiết, giá trị tâm linh bắt nguồn từ cái thiêng liêng. Tâm linh là cái nền vững chắc, là hằng số, và vĩnh cửu trong nhiều mối quan hệ con người.” Thế giới tâm linh luôn tồn tại trong lòng mọi người. Điều đó được thể hiện thật sinh động trong văn học Việt Nam từ văn học dân gian đến văn học trung và hiện đại. Trong đó, văn học Trung đại là một bộ phận văn học thể hiện khá phong phú thế giới tâm linh cả trong văn xuôi và trong Truyện thơ Nôm. Đặc biệt, Truyện thơ Nôm là một bộ phận văn học khá độc đáo, có giá trị và nó cũng có vị trí rất quan trọng trong đời sống tinh thần của người bình dân xưa. Vì vậy, thế giới tâm linh trong Truyện thơ Nôm cũng vô cùng phong phú, đa dạng và có dấu ấn riêng. Chính điều này đã hấp dẫn tôi chọn đề tài: “Thế giới tâm linh trong Truyện thơ Nôm” để làm luận văn cho khóa học của mình. Cùng với xu hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, thế mạnh của khoa học tự nhiên đang ngự trị thì việc tìm về “Thế giới tâm linh trong Truyện thơ Nôm” như sự tìm về những giá trị tinh thần thiêng liêng, cao quý của dân tộc. 2. Mục đích nghiên cứu Với sự đa dạng, phong phú, với những giá trị thiêng liêng và huyền diệu của thế giới tâm linh, nó góp phần thể hiện sâu sắc hơn thế giới tinh thần của con người. Cùng với sự ra đời và phát triển của văn học Trung đại, Truyện thơ Nôm đã góp phần thể hiện chế độ phong kiến bước vào giai đoạn khủng hoảng sâu sắc và toàn diện. Những biến động xã hội đã ảnh hưởng đến tư tưởng, đạo đức của chế độ phong kiến và làm nảy sinh, phát triển tư tưởng nhân văn của thời đại. Đó cũng là cội nguồn tư tưởng nhân văn của Truyện thơ Nôm. Từ nền tảng trên, luận văn hướng đến tìm hiểu nét độc đáo của Truyện thơ Nôm từ khía cạnh thế giới tâm linh để minh chứng cho thế giới tinh thần phong phú của người bình dân lúc bấy giờ. Đồng thời luận văn muốn khẳng định về sự tồn tại và giá trị vững bền của thế giới tâm linh trong tư tưởng, nhận thức, tình cảm của con người nhất là trong giai đoạn hội nhập, giao lưu văn hóa nhưng chúng ta vẫn giữ lại được những nét truyền thống quý báu riêng của dân tộc Việt Nam. 3. Lịch sử vấn đề Với đề tài “Thế giới tâm linh trong Truyện thơ Nôm”, chúng tôi xuất phát từ việc tìm hiểu quyển “Cơ sở văn hóa Việt Nam” của Trần Ngọc Thêm. Với giáo trình này, chúng tôi nhận thấy có các vấn đề tạo nền tảng cho thế giới tâm linh sinh sôi, phát triển. Đó là, đất nước ta thuộc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp nên trong cách ứng xử với môi trường tự nhiên, nghề trồng trọt buộc người dân phải sống định cư để chờ cây cối lớn lên, ra hoa kết trái và thu hoạch. Do sống phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên nên dân nông nghiệp có ý thức tôn trọng và ước vọng sống hòa hợp với thiên nhiên. Chính vì vậy, người Việt Nam mở miệng ra là nói “lạy trời”, “nhờ trời”, “ơn trời”. Từ đó, người Việt đã hình thành tục thờ cúng, khấn vái, cầu đảo, tôn thờ Trời, Phật… thể hiện tín ngưỡng sùng bái tự nhiên. Trần Ngọc Thêm cũng đề cập đến khía cạnh tổ chức cộng đồng, con người nông nghiệp ưa sống theo nguyên tắc trọng tình. Hàng xóm sống cố định, lâu dài với nhau, phải tạo ra một cuộc sống hòa thuận trên cơ sở lấy tình nghĩa làm đầu. Lối sống tình cảm ấy dẫn đến thái độ trọng đức, trọng văn trong cộng đồng, tập thể. Bên cạnh đó, triết lý âm dương tạo nên mối liên thông giữa âm - dương hình thành tín ngưỡng sùng bái con người. Người còn sống là ở cõi dương, người chết sang cõi âm, thế giới của âm ti, âm phủ; chết là tiếp theo sự luân hồi chứ không chấm dứt. Từ đó, con người có quan niệm về hồn ma, hóa kiếp, không gian âm phủ… Về văn hóa tâm linh, với khá nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa, hầu hết các tác giả đều đề cập đến các vấn đề liên quan đến văn hóa tâm linh. Tuy nhiên, các tác giả thường chỉ dừng lại ở việc nêu hiện tượng và nhìn nhận một cách khái quát. Với công trình “Văn hóa tâm linh”, Nguyễn Đăng Duy tập trung những khái niệm khá sâu sắc về văn hóa tâm linh – một sự gắn bó sâu sắc với đời sống con người. Công trình đã xác định văn hóa tâm linh là một phần của văn hóa tinh thần, biểu hiện những giá trị thiêng liêng, cao cả trong cuộc sống đời thường với những biểu tượng, thần tượng và những kỳ vọng vươn tới chân – thiện – mỹ… Đây là công trình tập trung nghiên cứu về văn hóa tâm linh của người Việt ở miền Bắc trong các lĩnh vực: tín ngưỡng thần thánh, trời đất, thờ cúng tổ tiên, thờ mẫu, tang ma và các tôn giáo Phật, Đạo, Thiên chúa giáo. Công trình đề cập đến thế giới tâm linh trong nhiều mặt của đời sống: cá nhân, gia đình, tôn giáo, mê tín dị đoan… Công trình cũng xác định văn hóa tâm linh là cái nền vững chắc của mối quan hệ cộng đồng, làng xã và là một vấn đề hết sức rộng lớn. Cũng với tác giả Nguyễn Đăng Duy, ở công trình “Văn hóa tâm linh Nam Bộ”, tác giả tập trung thể hiện những ý niệm thiêng liêng trong cuộc sống đời thường và những niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo của các cộng đồng dân cư sinh sống trên đất Nam Bộ. Công trình tập trung nghiên cứu về đặc điểm tính cách tâm linh của bộ phận dân cư chủ yếu ở Nam Bộ, biểu hiện ở mối quan hệ không gian, sự xuất hiện những nét tín ngưỡng mới. Và tâm linh thể hiện trong các tín ngưỡng thờ Thần, thờ Mẫu..., tâm linh trong Phật giáo, Thiên chúa giáo, đạo Tin lành… Ngoài ra, tác giả còn giới thiệu văn hóa tâm linh ở các dân tộc ít người: Khơme, Chăm, Hoa. Ở công trình “Văn hóa tâm linh Nam Bộ”, Nguyễn Đăng Duy đã hệ thống về đời sống tâm linh của các cộng đồng cư dân trên đất Nam Bộ từ xưa đến nay. Với công trình “Tôn trọng tự do tín ngưỡng bài trừ mê tín dị đoan” của nhà Dân tộc học Trương Thìn, công trình đã giúp chúng ta xác định được giá trị đích thực của văn hóa tâm linh, thế giới tâm linh – những biểu hiện của đời sống tinh thần phong phú. Đồng thời, tác giả cũng cho chúng ta thấy sự phức tạp, ranh giới rất ngắn giữa thế giới tâm linh, tín ngưỡng tôn giáo đúng nghĩa với sự lợi dụng từ tâm linh, tín ngưỡng tôn giáo để phát triển mê tín dị đoan – một biến dạng của văn hóa tâm linh, tín ngưỡng tôn giáo cần phải bài trừ. Ngoài ra, nghiên cứu về tâm linh và các nội dung liên quan đến tâm linh, tín ngưỡng, chúng tôi cũng đi vào tìm hiểu các công trình của Nguyễn Đăng Duy về Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo với văn hóa Việt Nam, các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam. Tất cả các công trình đều liên quan đến tâm linh nhưng chỉ mang tính chất chung về tôn giáo và tín ngưỡng dân gian. Ở lĩnh vực nghiên cứu Truyện thơ Nôm người Việt, chúng tôi tập trung vào các công trình: - Ngôn ngữ nhân vật trong Truyện thơ Nôm bác học, luận án tiến sĩ Ngữ văn của tác giả Lê Thị Hồng Minh, trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. - Truyện Nôm bình dân của người Việt – lịch sử hình thành và bản chất thể loại, luận án phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn của tác giả Kiều Thu Hoạch, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. - Truyện Kiều và thể loại Truyện Nôm của tác giả Đặng Thanh Lê. - Văn hóa ứng xử trong Truyện thơ Nôm, luận văn của Triệu Thuỳ Dương, trường Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Ở các công trình trên, các tác giả tập trung đi vào nghiên cứu khía cạnh ngôn ngữ, thể loại, nhân vật của loại hình Truyện thơ Nôm và văn hóa ứng xử. Các công trình này chưa đề cập đến vấn đề tâm linh của Truyện thơ Nôm. Liên quan và gần gũi với thế giới tâm linh, chúng tôi tìm hiểu hai Luận văn: - Truyền thống văn hóa Việt trong Truyện Kiều, luận văn thạc sĩ của Đặng Văn Kim, trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. - Tín ngưỡng dân gian và quan niệm của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, luận văn của Trần Ngọc Minh Nguyệt, trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Hai công trình này tập trung vào một Truyện thơ Nôm cụ thể là “Truyện Kiều”. Một công trình thì nghiên cứu theo hướng văn hóa người Việt, tác giả có sự đối chiếu, so sánh khá chi tiết giữa Truyện Kiều của Nguyễn Du với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Từ đó, công trình đã nêu lên những nét văn hóa có tính truyền thống của người Việt. Một công trình thì nghiên cứu theo hướng lý giải tín ngưỡng dân gian và quan niệm của Nguyễn Du trong Truyện Kiều để từ đó xác định đâu là nguồn gốc hình thành quan niệm của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Như vậy, từ hai nguồn tìm hiểu về văn hóa tâm linh và Truyện thơ Nôm cho chúng ta nhận thấy đó là hai hướng tìm hiểu, nghiên cứu độc lập. Hướng thứ nhất, các tác giả đi vào tìm hiểu tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo và sự ảnh hưởng của chúng đối với đời sống tinh thần của con người. Hướng thứ hai, các tác giả đi vào nghiên cứu Truyện thơ Nôm với các khía cạnh về thể loại, nội dung, hình thức, ngôn ngữ, nhân vật xa hơn cũng mới dừng lại ở nghiên cứu về văn hóa ứng xử trong Truyện thơ Nôm. Việc nghiên cứu, tìm ra sự phối kết hợp thế giới tâm linh vào các sáng tác văn học Trung đại được Lê Thu Yến và Hoàng Thị Minh Phương thể hiện qua hai công trình nghiên cứu khá hấp dẫn. Với “Thế giới tâm linh trong sáng tác Nguyễn Du – một biểu hiện của văn hóa Việt” [124], nhà nghiên cứu Lê Thu Yến đã có cái nhìn bao quát và hệ thống những yếu tố tâm linh trong sáng tác Nguyễn Du. Qua việc phân tích, tổng hợp, thống kê những biểu hiện của thế giới tâm linh trong sáng tác của Nguyễn Du. Tác giả đã khẳng định: “Thế giới này biểu hiện rõ rệt trong sáng tác Nguyễn Du làm cho người đọc không thể không nhận ra. Một Văn Chiêu Hồn thấm đẫm màu sắc của thế giới bên kia, một Truyện Kiều bàng bạc không gian của cõi âm và nhất là thơ chữ Hán nhan nhản bày ra những đình, đền, miếu, mộ...” [124, tr. 29]. Với công trình “Văn hóa tâm linh trong văn xuôi Trung đại” của Hoàng Thị Minh Phương, đây là công trình đã có sự công phu, đầu tư để nghiên cứu về văn hóa tâm linh trong văn xuôi Trung đại. Tác giả đã đề cập đến những biểu hiện phong phú của thế giới tâm linh như: giấc mộng, thờ cúng, khấn vái, điềm báo, phép thuật, tướng số, linh ứng, hồn ma hóa kiếp… Từ đó, tác giả đúc kết được hiệu quả của yếu tố tâm linh trong phản ánh hiện thực và nhận thức, tư tưởng về cuộc sống; phản ánh hiện thực đời sống xã hội. Đồng thời tác giả cho thấy yếu tố tâm linh có hiệu quả nghệ thuật tạo nên sức hấp dẫn riêng của văn xuôi Trung đại. Từ hai công trình nghiên cứu của Lê Thu Yến và Hoàng Thị Minh Phương như gợi mở và cuốn hút tôi vào thế giới tâm linh trong bộ phận Truyện thơ Nôm của văn học Trung đại còn bỏ ngỏ... Có thể chúng tôi sưu tầm chưa đầy đủ về các công trình nghiên cứu liên quan đến Truyện thơ Nôm và thế giới tâm linh. Nhưng qua các công trình tìm được, chúng tôi nhận thấy chưa có công trình nào cụ thể, chi tiết, quy mô nghiên cứu về sự phối, kết hợp thế giới tâm linh vào Truyện thơ Nôm. Trong xu thế chung, nhiều nhà nghiên cứu đang quay về tìm hiểu, nghiên cứu những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc trong đó tâm linh là một khía cạnh đang được chú ý, quan tâm. Từ cơ sở đó đã giúp chúng tôi mạnh dạn đi vào tìm hiểu, tiếp cận Truyện thơ Nôm với góc độ liên quan đến thế giới tâm linh – yếu tố cơ bản làm nên nét độc đáo, dấu ấn riêng của văn học Trung đại nói chung và Truyện thơ Nôm nói riêng. 4. Phạm vi nghiên cứu Trong quá trình tìm hiểu, sưu tập tài liệu liên quan đến đề tài nhưng có lẽ số tài liệu cũng chưa thật sự phong phú nên chúng tôi chỉ chọn 30 tác phẩm có tần số xuất hiện nhiều yếu tố tâm linh để khảo sát, gồm có hai mảng: * Truyện thơ Nôm hữu danh 1. “Hoa Tiên” (Nguyễn Huy Tự). 3. “Truyện Kiều” ( Nguyễn Du). 2. “Sơ Kính Tân Trang” (Phạm Thái). 4. “Lục Vân Tiên” (Nguyễn Đình Chiểu) . * Truyện thơ Nôm khuyết danh 5. Phạm Tải – Ngọc Hoa. 15. Truyện Chàng Chuối 6. Mã Phụng – Xuân Hương. 16. Trinh Thử Tân Truyện 7. Phương Hoa. 17. Chuyện Cái Tấm – Cái Cám 8. Tống Trân – Cúc Hoa. 18. Phạm Công Cúc Hoa 9. Phan Trần. 19. Truyện Từ Thức 10. Bà chúa Ba. 20. Thoại Khanh Châu Tuấn 11. Hoàng Trừu. 21. Gương sáng trời Nam 12. Lý Công 22. Thạch Sanh 13. Lưu Nữ Tướng 23. Liễu Hạnh Công Chúa – Diễn Âm 14. Bần Nữ Thán 24. Nhị Độ Mai. 25. Nữ Tú Tài 26. Quan Âm Thị Kính 27. Bích Câu Kỳ Ngộ 28. Phù Dung tân truyện 29. Lâm Tuyền Kỳ Ngộ 30. Trần Minh khố chuối Chúng tôi sẽ khảo sát trên các văn bản đang hiện hành, phổ biến. Từ các thao tác thống kê, phân loại các yếu tố tâm linh trong các truyện đã xác định dựa vào văn hóa tâm linh như phong tục, tập quán, tín ngưỡng… Chúng tôi sẽ đi vào giải thích một số yếu tố tâm linh để từ đó thấy được giá trị nghệ thuật, vai trò, ý nghĩa của thế giới tâm linh. Chính nó đã góp phần làm nên nét độc đáo của Truyện thơ Nôm. 5. Đóng góp của luận văn Luận văn tập trung tìm hiểu sự đa dạng, phong phú của thế giới tâm linh trong một số Truyện thơ Nôm. Từ đó, luận văn xác định giá trị nghệ thuật của yếu tố tâm linh trong Truyện thơ Nôm. Đồng thời, luận văn cũng đúc kết những giá trị bền vững của các yếu tố tâm linh trong đời sống con người. 6. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện luận văn chúng tôi sẽ sử dụng nhiều phương pháp luận nghiên cứu Văn học. Bên cạnh đó, với đối tượng nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sẽ tập trung vào các phương pháp lịch sử, hệ thống và phân tích, tổng hợp. 6.1 Phương pháp lịch sử Tác phẩm văn học là sản phẩm của một hoàn cảnh lịch sử cụ thể trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc. Vì vậy, phương pháp hướng đến việc tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử xã hội, môi trường văn hoá, tư tưởng chung của thời đại, mối tương tác của chúng với các tác giả, sự ra đời của các tác phẩm để lý giải các yếu tố tâm linh trong một bộ phận văn học của một thời đại. 6.2 Phương pháp hệ thống Chúng ta coi Truyện thơ Nôm là một cấu trúc, một hệ thống nhỏ trong hệ thống nền văn học Trung đại bao gồm nhiều đơn vị tác phẩm và từng tác phẩm cụ thể để có cái nhìn bao quát, đồng thời xem xét chúng trong tương quan với văn học dân gian và văn học cận hiện đại. Phương pháp giúp chúmg ta có cái nhìn hệ thống trong quá trình nghiên cứu. 6.3 Phương pháp phân tích – tổng hợp Phương pháp phân tích – tổng hợp giúp chúng ta tiến hành phân tích các yếu tố tâm linh trong Truyện thơ Nôm từ đó tổng hợp lại và đưa ra những nhận định chung về ý nghĩa của yếu tố tâm linh trong tác phẩm. Ngoài ba phương pháp nghiên cứu trên, trong quá trình thực hiện Luận văn chúng tôi sẽ kết hợp các thao tác thống kê, phân loại, so sánh tần số xuất hiện của các yếu tố tâm linh trong từng tác phẩm và đơn vị tác phẩm. Từ đó, các phương pháp, các thao tác này giúp chúng ta thấy mức độ ảnh hưởng của yếu tố tâm linh đối với sáng tác của các tác giả và cả thời đại văn học cũng như hiệu quả của chúng trong việc thể hiện nội dung tư tưởng và nghệ thuật của Truyện thơ Nôm. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn sẽ triển khai trong ba chương: Chương 1: Những vấn đề chung 1.1. Truyện thơ Nôm 1.1.1 Sự ra đời và phát triển 1.1.2 Phân loại 1.1.3. Nội dung 1.1.4 Hình thức 1.2. Thế giới tâm linh và cơ sở hình thành 1.2.1. Các khái niệm: 1.2.1.1. Văn hóa 1.2.1.2. Tâm linh 1.2.1.3. Thế giới tâm linh 1.2.2. Cơ sở hình thành yếu tố tâm linh trong văn hóa Việt và Truyện thơ Nôm 1.2.2.1. Cơ sở tư tưởng của Việt Nam 1.2.2.1.1. Từ triết lý âm dương 1.2.2.1.2. Từ tín ngưỡng dân gian 1.2.2.2. Cơ sở tư tưởng của Nho – Phật – Đạo Chương 2: Những biểu hiện của yếu tố tâm linh trong Truyện thơ Nôm 2.1. Tín ngưỡng thờ cúng và thế giới Trời , Phật, Thần, Tiên 2.1.1. Tín ngưỡng thờ cúng 2.1.2. Trời, Phật, Thần, Tiên 2.2. Duyên kiếp, số mệnh, bói toán 2.2.1. Duyên kiếp, số mệnh 2.2.2. Bói toán 2.3. Hồn ma 2.4. Lời thề 2.5. Phép lạ 2.6. Chiêm bao, mộng mị Chương 3: Yếu tố tâm linh và sức hấp dẫn của Truyện thơ Nôm 3.1. Yếu tố tâm linh phản ánh hiện thực và trí tưởng tượng phong phú của con người 3.1.1. Thế giới thiên đình 3.1.2. Thế giới âm phủ 3.1.3. Thế giới dương gian 3.2. Yếu tố tâm linh và chức năng hoá giải những vấn đề xã hội 3.3. Yếu tố tâm linh kế thừa và tiếp nối Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Truyện thơ Nôm 1.1.1. Sự ra đời và phát triển Truyện thơ Nôm là một bộ phận Văn học khá độc đáo, có dấu ấn riêng trong văn học Trung đại. Dù sự ra đời của Truyện thơ Nôm cũng chỉ dừng lại ở các giả thuyết của các nhà nghiên cứu nhưng hầu như các nhà nghiên cứu xác định Truyện thơ Nôm ra đời trên nền tảng của Văn học dân gian. Theo giáo sư Đinh Gia Khánh: “Truyện Nôm chỉ là một hiện tượng chứng tỏ ảnh hưởng sâu sắc và mạnh mẽ của văn học dân gian vào văn học viết bằng chữ Nôm của trí thức phong kiến. Đó là ảnh hưởng của truyện cổ tích. Nhưng ở đây lại còn phải thấy ảnh hưởng rất lớn của thơ ca dân gian. Thể thơ trong Truyện Nôm bắt nguồn từ thể thơ dân gian. Ngôn ngữ văn học trong Truyện Nôm cũng bắt đầu từ ngôn ngữ thơ dân gian. Cho nên sự nở rộ của Truyện Nôm trong khoảng từ thế kỷ XVI trở đi, đặc biệt là từ thế kỷ XVIII cũng lại phản ánh tình hình thơ ca dân gian trong các thế kỷ ấy”. [51, tr. 67] Khảo sát Truyện thơ Nôm trong kho tàng Truyện Nôm hiện nay, chúng ta có thể thấy Truyện thơ Nôm có hai loại: một loại viết theo thể thơ lục bát, một loại viết bằng thể thơ đường luật. Theo Nguyễn Lộc, “Truyện Nôm đường luật ra đời trước thế kỷ XVIII, từ thế kỷ XVIII trở đi không thấy có nữa. Còn Truyện Nôm lục bát thì không xác định ra đời khi nào nhưng chỉ biết nó phát triển nhiều nhất ở cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX” [64, tr.30] Theo Đặng Thanh Lê: “Sự ra đời của Truyện Nôm bắt nguồn từ một yêu cầu phản ánh xã hội với những nội dung thời đại cũng như với những điều kiện thực tiễn của bản thân thời đại ấy”. [61, tr. 50] Kết hợp hai ý kiến của Nguyễn Lộc và Đặng Thanh Lê, chúng ta gắn vào lịch sử cụ thể của đất nước Việt Nam thì hai giả thuyết trên có cơ sở. Bởi vì bắt đầu thế kỷ XVI, xã hội phong kiến Việt Nam có nhiều mâu thuẫn. Mâu thuẫn giữa các phe phái phong kiến cầm quyền của giai cấp thống trị và mâu thuẫn giữa nhân dân bị trị với triều đình đã dẫn đến sự sụp đổ của triều Lê, thay vào nhà Mạc. Nhà Mạc cũng không giữ được sự đoàn kết, phát triển bởi những mâu thuẫn trước đó vẫn tiếp tục ngấm ngầm và cuối cùng bùng phát qua các cuộc khởi nghĩa của nông dân. Đặc biệt là đến thế kỷ XVIII, xã hội phong kiến ngày một khủng hoảng dẫn đến đời sống nhân dân ngày một đau khổ, lầm than; những truyền thống đạo đức tốt đẹp ngày một lung lay và phá vỡ. Có lẽ đây là nền tảng cho những ước mơ, khao khát về công lý, tình người, cuộc đời… là cơ sở cho tư tưởng nhân văn nảy sinh và phát triển. Đó cũng là cội nguồn phát triển của Truyện thơ Nôm như Đặng Thanh Lê đã nhận định “Truyện Nôm là sản phẩm văn học vào thời kỳ phong kiến suy tàn mang ý nghĩa phản ánh một thời kỳ bùng nổ mạnh mẽ của đấu tranh giai cấp dưới chế độ phong kiến” [61, tr.57]. Theo nhiều nhà nghiên cứu, Truyện thơ Nôm ban đầu là loại truyện truyền khẩu từ các nghệ nhân hát rong. Sau đó, các nho sĩ đã ghi chép lại các Truyện thơ Nôm đã có trước đó và tiếp tục sáng tác mới nên Truyện thơ Nôm với hình thức viết đã được ra đời. 1.1.2. Phân loại Truyện thơ Nôm là một bộ phận khá lớn trong văn học Trung đại. Theo nhiều hướng nghiên cứu, nhiều nhà nghiên cứu theo những khía cạnh khác nhau, Truyện thơ Nôm dựa vào tác giả có hai loại Truyện thơ Nôm hữu danh và Truyện thơ Nôm khuyết danh; dựa vào nội dung, hình thức có Truyện thơ Nôm bình dân và Truyện thơ Nôm bác học; cũng có hướng phân loại dựa theo nguồn gốc và đề tài. Cách phân loại Truyện thơ Nôm hữu danh và Truyện thơ Nôm khuyết danh được thể hiện trong “Truyện Nôm khuyết danh, một hiện tượng đặc biệt của văn học Việt Nam” [77] của Bùi Văn Nguyên. Theo tác giả, Truyện Nôm khuyết danh thật sự là có tác giả nhưng có thể vì lý do nào đó đã không còn xác định rõ tác giả là ai. Có thể do tâm lý coi thường những sáng tác bằng chữ Nôm, văn học Nôm được coi là văn học nôm na, đơn giản nên khi tác phẩm ra đời, tác giả cũng không được chú ý đến và dần dần bị lãng quên. Mặt khác, do Truyện thơ Nôm có nội dung phê phán, lên án các tầng lớp vua quan độc ác, tham lam nên thường bị giai cấp thống trị cấm đoán. Có thể vì điều này mà tác giả cũng ngại lưu tên mình trên tác phẩm. Chúng ta cũng cần xét đến yếu tố trước khi có chữ viết ra đời, Truyện Nôm được truyền miệng là phổ biến. Vì vậy, quá trình lưu truyền tác phẩm từ người này sang người khác, từ địa phương này sang địa phương kia và được thêm, bớt ít nhiều nên tác giả chính đã dần dần mờ nhạt và trở thành khuyết danh. Cách phân chia Truyện thơ Nôm hữu danh và Truyện thơ Nôm khuyết danh cũng được thể hiện trong Luận án của Nguyễn Thị Chiến [12, tr.11]. Tác giả xác định cách chia này xuất hiện trước những năm 1960 từ công trình “Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam của nhóm nghiên cứu văn học Lê Quý Đôn”. Sau đó, Truyện thơ Nôm đã được các nhà nghiên cứu văn học cổ, trung đại đi vào hướng nghiên cứu khác. Đó là hướng nghiên cứu sâu về nội dung, tư tưởng của truyện và đặc điểm nghệ thuật, cách thức biểu hiện. Có thể nói đây là hướng đi có tính khoa học và đi sâu vào tác phẩm hơn. Cũng từ hướng nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu đã cho ra đời sự phân loại Truyện thơ Nôm bình dân và Truyện thơ Nôm bác học. Theo Nguyễn Lộc [63], Truyện Nôm bình dân là sáng tác của những nhà Nho không thành đạt, họ sống gần gũi với quần chúng nhân dân lao động. Chính vì vậy, nội dung của Truyện Nôm bình dân gắn với cuộc sống của nhân dân với các khía cạnh đạo đức khá nhiều. Vấn đề trung hiếu, tiết nghĩa, việc đấu tranh bảo vệ gia đình, tình yêu, hạnh phúc được thể hiện khá tập trung nhưng hình thức nghệ thuật khá đơn giản. Còn Truyện Nôm bác học thì có nội dung tư tưởng và tính nghệ thuật cao hơn Truyện Nôm bình dân. Nội dung Truyện Nôm bác học đã tiến đến vấn đề bảo vệ tình yêu tự do vượt khỏi lễ giáo phong kiến, bảo vệ và giải phóng cho tình cảm chân chính. Đây là những sáng tác của những nhà Nho có học vấn cao, có khả năng khai thác và thể hiện được chiều sâu tâm trạng nhân vật. Cách phân loại này khoa học hơn và cũng có tính thuyết phục hơn. Bởi vì so với hướng phân loại Truyện Nôm hữu danh - khuyết danh, thì hướng phân loại Truyện Nôm bình dân – Truyện Nôm bác học là sự đổi mới trong nghiên cứu: đi sâu vào thi pháp truyện Nôm. Cái mới của hướng phân loại này là đi vào đặc điểm thi pháp học như kỹ năng thể hiện của tác giả qua nghệ thuật biểu hiện, qua loại hình nhân vật. Đặc biệt là chủ đề, nội dung tư tưởng của tác phẩm được thể hiện khá tập trung và sinh động. Đồng tình với hướng phân loại này, Trần Đình Hượu đã có ý kiến: “Phải nói rằng cho đến Nguyễn Đình Chiểu, một số lượng đáng kể Truyện Nôm mà ngày nay nhiều nhà nghiên cứu chia ra hai loại bác học và bình dân đã làm cho thể loại đó gần như ổn định, có nề nếp và ít nhiều đã hình thành một thứ khuôn khổ khuynh hướng” [12, tr.12]. Ngoài ra, Truyện thơ Nôm còn được phân loại theo nguồn gốc, đề tài. Những Truyện thơ Nôm lấy đề tài từ các truyện cổ dân gian như Tấm Cám, Thạch Sanh… Những Truyện thơ Nôm có nguồn gốc đề tài từ Trung Quốc như: Truyện Hoa Tiên, Nhị Độ Mai, Phù Dung Tân Truyện, Lâm Tuyền Kỳ Ngộ… Những truyện lấy đề tài từ những sáng tác chữ Hán hoặc những sự tích ở Việt Nam như: Tống Trân – Cúc Hoa, Bích Câu Kỳ Ngộ… Từ ba hướng phân loại trên, chúng tôi nhận thấy hướng phân loại Truyện Nôm bình dân – Truyện Nôm bác học mang tính khoa học và thuyết phục nhất. Do đó trong quá trình thể hiện đề tài, chúng tôi chủ yếu dựa vào hướng phân loại này. Và cũng trên cơ sở đó, chúng tôi sẽ khai thác yếu tố tâm linh để thể hiện qua Truyện thơ Nôm bình dân và Truyện thơ Nôm bác học. Điều này sẽ gắn liền với nội dung mang đậm tính dân dã cùng với nghệ thuật mộc mạc, giản dị của các nho sĩ bình dân và tương ứng với nội dung phức tạp, tình tiết, tâm lý nhân vật, nghệ thuật điêu luyện hơn ở các nhà Nho thuộc tầng lớp trên của xã hội. 1.1.3. Nội dung Truyện thơ Nôm bị chi phối khá lớn bởi lễ giáo phong kiến. Chính vì vậy, nội dung của Truyện thơ Nôm thể hiện khá rõ những quan niệm của lễ giáo thời kỳ này. Chúng ta thấy rất rõ quan niệm về môn đăng hộ đối trong hôn nhân, tư tưởng trung quân của Nho giáo... những quan niệm về trung, hiếu, tiết, nghĩa luôn được ca ngợi trong Truyện thơ Nôm. Nhưng không vì thế mà Truyện thơ Nôm chỉ hạn hẹp trong những phạm vi gò bó của lễ giáo phong kiến. Chúng ta dễ dàng thấy được những mối tình tự do vượt ra ngoài khuôn khổ khắc nghiệt của lễ giáo phong kiến trong Truyện thơ Nôm, những nhân vật khổ đau cùng cực trong xã hội đã biết vươn lên để thay đổi số phận, những tình yêu chân chính luôn có hậu, hợp lẽ đời… Đó là những điều mà Truyện thơ Nôm thể hiện khá phong phú, đa dạng và sinh động. . . Truyện thơ Nôm phản ánh khá đầy đủ các khía cạnh của đời sống xã hội phong kiến. Dù Truyện thơ Nôm thường đề cập đến “trung, hiếu, tiết, nghĩa” nhưng Truyện thơ Nôm không chỉ dừng lại ở việc ca ngợi đạo đức phong kiến từ những khía cạnh hợp lẽ đời mà cao hơn là Truyện thơ Nôm đã thể hiện ý thức vươn lên để bảo vệ tình yêu, khát vọng sống một cách mạnh mẽ, cảm động của Cúc Hoa, Ngọc Hoa, Phương Hoa…Các nhân vật nữ trong Truyện thơ Nôm thực sự là những đóa hoa hồng đầy sức sống. Họ đã mạnh mẽ đấu tranh để bảo vệ tình yêu, tấm lòng họ vẫn luôn thủy chung và khao khát được sống với tình yêu, đạo nghĩa vợ chồng son sắt (Ngọc Hoa, Thoại Khanh, Công chúa Nam Việt). Truyện thơ Nôm đặc biệt thể hiện khá đậm nét tấm lòng hiếu thảo của con cái với cha mẹ. Hình ảnh nàng dâu Thoại Khanh (Thoại Khanh – Châu Tuấn), Cúc Hoa (Tống Trân – Cúc Hoa) đã đánh đổ quan niệm mẹ chồng, nàng dâu thường xung khắc nhau. Thoại Khanh và Cúc Hoa đã hết lòng, hết dạ với mẹ chồng khi Châu Tuấn bị đi đày và Tống Trân đang đi xứ. Chúa Ba (Bà Chúa Ba) nêu gương một người con đại hiếu. Bởi Chúa Ba đã vượt hơn tất cả những công việc đời thường của người con có hiếu. Chúa Ba một lòng mộ Phật, dù phải trải qua biết bao oan ức, đau khổ nhưng Chúa Ba vẫn quyết tâm tu hành. Nhờ công đức tu hành, nàng đã cứu được bệnh tình nguy khốn của vua cha, trừ loài yêu quái. Cũng chính lòng từ bi của công chúa đã giúp vua cha tỉnh ngộ, cải hối quy thiên phật pháp và cuối cùng Ngọc Hoàng đã sắc phong ngôi Phật, toàn gia sổ chép nhập dòng tiên. Chúa Ba đã giúp cho mẹ cha thoát khỏi cảnh luân hồi của số kiếp. Với tấm lòng hiếu thảo, nàng Tấm (Chuyện Cái Tấm – Cái Cám) đã sẵn sàng trèo lên cây để bẻ cau giỗ bố và bị mẹ ghẻ hãm hại, nàng Thúy Kiều bán mình để chuộc cha (Truyện Kiều)... Trong Truyện thơ Nôm, các nhân vật nam cũng rất hiếu thảo. Phạm Công nhà nghèo, cha mất sớm, chàng kiếm củi bán lấy tiền làm chay cho cha, rồi dắt mẹ đi xin ăn. Ngọc Hoàng cho hai tiên nữ xuống kết duyên với chàng, Phạm Công vẫn kiên quyết từ chối để một lòng lo cho mẹ… Hay Lương Sinh trong Truyện “Hoa Tiên”, dù đã hẹn thề, trao gởi tình cảm cho nàng Dương Dao Tiên nhưng cũng vì chữ hiếu mà vâng theo cách sắp đặt hôn sự của cha mẹ, đính ước với tiểu thư Lưu Ngọc Khanh: “Dẫu vàng dẫu đá với người Nặng tình đâu dám nhẹ lời song thân”. (Hoa Tiên) Truyện thơ Nôm xây dựng những mối tình của những con người ở những hoàn cảnh trái ngược nhau như nàng Ngọc Hoa, con gái một “tướng công quan đại phú gia”, yêu Phạm Tải là một hàn sĩ nhỡ thời phải ăn xin để đi học, nàng Phương Hoa, con gái quan Thượng thư Bộ hộ, yêu Cảnh Yên, tuy cũng là con một quan ngự sử, nhưng thực tế thì đang đi ăn xin để nuôi mẹ. Cô gái trong truyện Lý Công là một công chúa lại yêu say đắm một chàng trai: “Ăn mày đèn sách gian truân, Khắp chốn xa gần ai thấy cũng thương”. Nàng Cúc Hoa yêu Tống Trân hay Cúc Hoa yêu Phạm Công tuy không phải con quan nhưng cũng là con gái gia đình phú hộ, và Phạm Công hay Tống Trân thì cũng giống như Phạm Tải. Trong truyện “Hoàng Trừu”, nàng công chúa Nam Việt yêu chàng Hoàng tử Trung Quốc, cả hai người đều xuất thân từ tầng lớp quyền quí là một trường hợp hiếm có trong Truyện thơ Nôm. Có thể nói, các tác giả Truyện thơ Nôm xây dựng những mối tình như vậy là một cách để phủ định quan niệm hôn nhân phong kiến, bắt buộc trai gái lấy nhau trước hết phải tương xứng về gia sản và đẳng cấp. Chính vì vậy, những mối tình trong Truyện thơ Nôm không theo lễ giáo phong kiến nên đến rất tự nhiên, thuận theo tình cảm, đạo lý nên những mối tình ấy thường rất đẹp và sâu sắc. Tất cả những đôi trai gái trong Truyện thơ Nôm, họ không quá đặt nặng về luân lý, đạo đức, về dư luận và thành kiến của xã hội phong kiến khi đến với tình yêu. Cơ sở để họ yêu nhau là phẩm chất, tài đức của con người, là sự xúc động trước cảnh ngộ không may trong cuộc đời của họ. Ở Truyện thơ Nôm bình dân, phạm trù đạo đức được thể hiện là phạm vi gia đình mà nổi bật là tiết, nghĩa. Nội dung Truyện Nôm là cuộc đấu tranh của thiện thắng ác, của ngay thắng gian, của chính nghĩa thắng phi nghĩa, đồng thời đó cũng là cuộc đấu tranh để bảo vệ tình nghĩa vợ chồng, bảo vệ gia đình chống lại nguy cơ làm cho nó tan vỡ. Các Truyện Nôm bình dân Phạm Tải – Ngọc Hoa, Tống Trân – Cúc Hoa, Phương Hoa, Phạm Công – Cúc Hoa, Lý Công, Thoại Khanh – Châu Tuấn, Hoàng Trừu, Phù Dung tân truyện,… đều có nội dung như thế. Bên cạnh những tấm lòng sắt son, thủy chung của những người vợ, Truyện thơ Nôm cũng làm nổi bật hình ảnh của những người chồng rất mực chung tình. Phạm Tải đã từ chối mọi tước quyền và “ba trăm mỹ nữ cung tần chia đôi”, dứt khoát chung thủy với Ngọc Hoa. Phạm Công ba lần đi thi đậu Trạng, ba lần vua ép gả công chúa. Cả ba lần Phạm Công đều từ chối, trước sau chàng vẫn trọn vẹn với Cúc Hoa. Đến khi Cúc Hoa chết, chàng còn đánh đồng thiếp xuống âm cung tìm vợ. Nhân vật Tống Trân và Châu Tuấn cũng có những nét tương tự như vậy. Truyện Nôm đặc biệt đề cao vai trò người phụ nữ. Từ nàng Cúc Hoa đến nàng Ngọc Hoa, nàng công chúa trong truyện Lý Công đến nàng công chúa trong truyện Hoàng Trừu hay nàng Phương Hoa trong truyện cùng tên, tất cả đều mạnh mẽ và chủ động. Họ chủ động trong tình yêu và chủ động trong việc đấu tranh để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Dù hoàn cảnh có trái ngang, éo le đến đâu cũng không làm họ gục ngã. Họ không dễ dàng đầu hàng trước hoàn cảnh hoặc buông xuôi theo định mệnh mà họ luôn kiên quyết đấu tranh, vượt qua. Khi yếu sức thì họ có thần linh giúp đỡ, đấu tranh trên dương thế không xong, chết xuống âm phủ họ lại tiếp tục đấu tranh cho đến khi chiến thắng. Có thể nói vai trò của người phụ nữ trong Truyện thơ Nôm thực chất phản ánh vai trò của người phụ nữ trên bình diện gia đình, đặc biệt là gia đình trong giai đoạn chế độ phong kiến suy tàn. Ở Truyện thơ Nôm, sự liên hệ giữa chủ đề đấu tranh để bảo vệ tình vợ chồng, bảo vệ gia đình với việc đề cao đặc biệt vai trò chủ động của người phụ nữ, không phải là ngẫu nhiên mà có tính chất tất yếu của nó. Truyện thơ Nôm cũng đã bắt đầu tiến vào phản ánh hiện thực cuộc sống với nhiều mối quan hệ phức tạp, những xung đột mạnh mẽ giữa con người với con người trong giai đoạn chế độ phong kiến Việt Nam trong thời kỳ suy tàn, khủng hoảng dữ dội… Chính vì vậy, nội dung của Truyện thơ Nôm trong giai đoạn thế kỷ XVIII – XIX tập trung vào hiện thực xã hội với số phận con người trong cảnh bế tắc, mất phương hướng trong một xã hội bao trùm màu xám xịt từ bước thăng trầm của thế sự. Với nội dung tập trung vào hiện thực cuộc sống, Truyện thơ Nôm phê phán, tố cáo giai cấp thống trị với bọn quan lại, tầng lớp quý tộc cho đến bọn nhà giàu phú hộ. Ở truyện “Lục Vân Tiên”, Nguyễn Đình Chiểu đã phản ánh những bậc thư sinh theo học sách thánh hiền nhưng lại nhỏ nhen, hiểm độc như Trịnh Hâm, Bùi Kiệm… Những tên quan lại sai nha đến cướp phá của cải gia đình Thúy Kiều, trắng trợn đòi tiền hối lộ, hình ảnh quan Tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến với hạ sách lừa gạt Thúy Kiều để chiến thắng Từ Hải… Truyện thơ Nôm bên cạnh xây dựng những mối tình của những con người, có hai hoàn cảnh trái ngược nhau thì cũng xây dựng những mối tình của những giai nhân tài tử sống trong gia đình quan lại giàu sang. Đó là mối tình giữa Phạm Kim và Quỳnh Thư, giữa Thúy Kiều với Kim Trọng, giữa Dao Tiên với Lương Sinh, Phan Tất Chánh và Trần Kiều Liên… đều môn đăng hộ đối theo quan điểm của Nho giáo phong kiến. Những mối tình của những đôi giai nhân tài tử thường đi vào tan vỡ. Các nhân vật tỏ ra thiếu mạnh mẽ, quyết liệt để bảo vệ tình yêu nhưng cũng có thể nói một phần do thế lực của xã hội phong kiến chi phối mạnh mẽ. “Sơ kính tân trang” diễn ra giữa một bên là tình yêu của Phạm Kim và Quỳnh Thư với một bên là việc cưỡng hôn của viên đô đốc. Trước sự nham hiểm của tên quan lại đô đốc, mối tình Phạm Kim – Quỳnh Thư tan vỡ một cách dễ dàng. Người viết truyện tỏ lòng thương cảm mối duyên của họ và phê phán mạnh mẽ thế lực đen tối đã chà đạp lên mối tình đẹp đẽ ấy. Tình yêu trong Truyện thơ Nôm thường chứa đựng nhiều mâu thuẫn và ảnh hưởng khá lớn bởi lễ giáo phong kiến. Ở “Hoa Tiên”, mâu thuẫn ấy không biểu hiện bằng hai tuyến nhân vật đối lập, mà thể hiện ngay trong các nhân vật chính – Lương Sinh, Dao Tiên – thành cuộc đấu tranh giữa tình cảm và lý trí, giữa cái khát vọng yêu đương tha thiết với những quan niệm chật hẹp của lễ giáo, đạo đức phong kiến. Tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng cũng là tình yêu vượt ra ngoài khuôn khổ của lễ giáo phong kiến thể hiện ở việc Thúy Kiều đã hẹn hò ở vườn Thúy với Kim Trọng và hai người đã thề ước với nhau. Dù có muốn vượt qua lễ giáo phong kiến để chủ động đến với nhau nhưng có thể nói tư tưởng phong kiến cũng ảnh hưởng khá lớn. Cho nên, dù Nguyễn Du rất ưu ái Thúy Kiều, rất cảm thông với Thúy Kiều nhưng Nguyễn Du vẫn để thế lực của bọn quan lại phong kiến vùi dập Thúy Kiều và làm tình yêu giữa Kim – Kiều phải tan vỡ. Có thể nói, sức mạnh đấu tranh được thể hiện đậm nét hơn ở Truyện thơ Nôm “Lục Vân Tiên”. Thông qua hàng loạt nhân vật chia làm hai tuyến, Truyện thơ Nôm “Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu đã thẳng thắn lên án bọn vua quan hèn nhát, ác độc và các hạng người xấu xa, tệ hại khác. Đối lập với chúng là những con người trung trinh, tiết nghĩa, biết sống theo những điều tốt lành và biết tôn trọng lẽ phải. Nhìn chung, Truyện thơ Nôm đã dần dần đi sâu vào mối quan hệ của đời sống xã bội với cách nhận thức và phản ảnh của chủ nghĩa hiện thực nên nội dung phản ánh, phê phán những vấn đề tiêu cực được thể hiện khá rõ nét. 1.1.4. Hình thức Về thi pháp, hình thức của truyện Nôm, có lẽ Cao Huy Đỉnh là người đầu tiên nêu lên đặc điểm thi pháp thể loại truyện này. Ông cho rằng Truyện Nôm “về cơ bản bảo lưu khuôn dạng của truyện cổ tích”, bao gồm: lai lịch nhân vật, những thử thách ngày càng khó khăn, những phấn đấu chống lại thế lực tàn ác của thiên nhiên và xã hội, thắng lợi tất yếu, kết thúc có hậu. Tuy nhiên, Truyện Nôm là một hiện tượng khác cổ tích do có “xu hướng tiểu thuyết hóa truyện dân gian”. Khi khảo sát, nghiên cứu về Truyện thơ Nôm, hầu hết loại truyện này dựa theo cốt truyện của truyện cổ tích, hay diễn ca truyện cổ tích. Vì vậy, về nhiều phương diện, kết cấu nghệ thuật của nó rất giống với kết cấu trong nghệ thuật của truyện cổ tích. Ở loại truyện này, câu chuyện diễn biến theo trật tự thời gian, việc gì xảy ra trước được kể trước, việc gì xảy ra sau được kể sau. Câu chuyện thường bắt đầu bằng việc giới thiệu khá tỉ mỉ lai lịch của nhân vật trung tâm từ lúc mới ra đời, sau đó kể ngay vào nội dung chính. Người kể bao giờ cũng đứng ở ngôi thứ ba và luôn luôn ghi nhớ câu chuyện mình đang kể thuộc về thời quá khứ. Đa số Truyện Nôm thường xây dựng theo mô típ và kết cấu giống nhau. Đó là thường rơi vào trường hợp một anh nho sĩ nghèo đi ăn xin lấy được người vợ đảm đang chịu khó nuôi cho ăn học. Về sau hoặc người chồng học thành tài vua ép gả công chúa, hoặc người vợ có nhan sắc bị bọn vua quan hay cường hào cưỡng bức phải bỏ chồng nhưng cả hai đều cự tuyệt, dứt khoát chung thủy với người bạn trăm năm của mình. Họ phải đấu tranh quyết liệt và phải vượt qua nhiều thử thách để cuối cùng được chiến thắng và vợ chồng sum họp. Theo Nguyễn Lộc [66, tr. 299] cốt truyện của Truyện Nôm bình dân có hai đặc điểm đáng chú ý. Thứ nhất, những tình tiết, những sự kiện trong truyện không có ý nghĩa khách quan chân thực của nó mà chỉ có tác dụng soi sáng hay tô đậm cho tính cách nhân vật. Vì vậy, trong nhiều Truyện thơ Nôm bình dân, chi tiết nhiều khi được cường điệu đến mức hoang đường. Chúng ta có thể thấy trong “Phạm Tải – Ngọc Hoa”, Phạm Tải chết rồi mà đêm đêm Ngọc Hoa vẫn mở nắp quan tài vào nằm với chồng. Nàng công chúa trong truyện Lý Công bị chặt tay chân, xẻo tai vất ra ngoài chợ mà vẫn sống... Trong Truyện thơ Nôm, nhiều chi tiết được sử dụng láy đi láy lại như những mô-típ trong truyện cổ tích, chẳng hạn trong truyện “Phạm Công – Cúc Hoa”, Phạm Công đi thi đậu trạng, vua ép gả công chúa, Phạm Công không lấy, vua tức giận đày chàng sang Ô-qua. Bên Ô-qua, Phạm Công lại đi thi đậu trạng, vua lại ép lấy công chúa, Phạm Công lại chối từ. Vua tức giận, sai chặt tay chân, khoét mắt, cắt tai Phạm Công. Sau đó nhờ có Ngọc Hoàng cho tiên dược nên Phạm Công thoát nạn. Tới nước Triệu, Phạm Công lại một lần nữa đi thi, lại đậu Trạng và vua cũng lại ép gả công chúa nhưng lần này may cho chàng là khi Vua toan trị tội, thì nàng công chúa đứng ra xin tha cho chàng… Một đặc điểm nữa là kết thúc của Truyện thơ Nôm thường có hậu. Đó cũng là sự nối tiếp, kết thúc có hậu do ảnh hưởng của truyện kể dân gian. Nhân vật tích cực trong Truyện Nôm nhiều khi rơi vào những tình thế bất lợi nhưng về phương diện tinh thần, không bao giờ họ ở thế thua kém mà họ chống đến cùng. Nàng Ngọc Hoa, nàng công chúa trong truyện Lý Công, chàng Tống Trân, chàng Phạm Công hay chàng Châu Tuấn có thể họ không thắng lợi ngay nhưng họ không thất bại, các thế lực phản động không khuất phục được ý chí phản kháng của họ. Những nhân vật như thế, lô - gic tất yếu của nó phải là kết thúc thắng lợi, phải là “có hậu”. Xét về mặt nghệ thuật, để thực hiện mô hình kết thúc có hậu, Truyện thơ Nôm thường sử dụng các yếu tố thần kỳ tương tự như trong thể loại truyện cổ tích. Có thể nói, việc sử dụng các yếu tố thần kỳ không những là một biện pháp nghệ thuật quan trọng để thực hiện mô hình cấu trúc gặp gỡ – tai biến – đoàn tụ của Truyện thơ Nôm, mà còn là đặc trưng thi pháp không thể thiếu được của thể loại này. Trong Truyện thơ Nôm, mô hình cấu trúc gặp gỡ – tai biến – đoàn tụ thì trường đoạn tai biến là trường đoạn có nhiều diễn biến phức tạp nhất của cốt truyện. Đa phần, nhân vật chính phải trải qua những biến cố cực kỳ quan trọng với những thử thách rất khó vượt qua. Trong những trường hợp như thế, nhân vật của Truyện thơ Nôm thường được sự hỗ trợ của sức mạnh vô hình của những yếu tố thần kỳ. Nhờ vậy, các nhân vật chính mới có thể vượt qua các thử thách đi đến thắng lợi cuối cùng để bước vào trường đoạn đoàn tụ như cấu trúc có hậu của nó (Lý Công, Phạm Công – Cúc Hoa, Phạm Tải – Ngọc Hoa, Truyện Chàng Chuối, Chuyện Cái Tấm – Cái Cám, Hoàng Trừu, Phù Dung Tân Truyện...). Song song với yếu tố thần kỳ, Truyện thơ Nôm còn sử dụng các mô - típ dân gian như đặc điểm nghệ thuật có sức hấp dẫn đặc biệt của thể loại Truyện thơ Nôm bình dân. Chúng ta dễ dàng tìm gặp mô – típ của nhân vật chính trong Truyện thơ Nôm xuống âm phủ tìm người thân như Ngọc Hoa xuống âm phủ tìm chồng là Phạm Tải, còn Phạm Công thì xuống âm phủ để tìm vợ Cúc Hoa. Mô – típ “Xử kiện cành đa” được vận dụng vào việc Tống Trân xử kiện ở nước Tần. Mô – típ gái giả trai phổ biến trong truyện dân gian thì trong Truyện thơ Nôm đó cũng là một mô – típ khá quen thuộc. Nàng Phương Hoa trong truyện “Phương Hoa” đóng giả trai và đổi tên Cảnh Yên để đi thi. Ngay trong “Sơ Kính Tân Trang” cũng có nàng Thụy Châu giả trai để đi dự lãm các nơi danh lam, thắng cảnh, Thị Kính giả trai để đi tu (Quan Âm Thị Kính), nàng Phi Nga giả trai để đi học, đi thi (Nữ Tú Tài). Chúng ta cũng thấy các trò thi may áo, thi thổi cơm, làm bánh mà Tống Trân đưa ra để chọn giữa Cúc Hoa và Công chúa nước Tần xem ai đáng là “chánh thê”, đó cũng là những mô – típ dân gian trong truyện cổ tích thần kỳ “lấy vợ cóc”. Một mô – típ phong chức hương cống cho chuột để từ đó có tên gọi chuột cống, cũng được sử dụng trong truyện Tống Trân – Cúc Hoa. Truyện thơ Nôm, còn có sử dụng mô – típ tiếng đàn. Tiếng đàn nghe như trách móc, oán than trong truyện “Thạch Sanh”, “Thoại Khanh – Châu Tuấn”... Như vậy, việc sử dụng các mô – típ dân gian trong Truyện thơ Nôm nhìn chung rất linh hoạt. Có khi người ta giữ nguyên dạng mô – típ của truyện dân gian và sử dụng nó như một tình tiết nào đó như mô – típ xuống địa ngục tìm người thân… Song cũng có khi người ta chỉ mượn ở mô – típ dân gian cái chủ đề cơ bản để phát triển nội dung của truyện. Qua một số thí dụ vừa nêu, chúng ta thấy rằng việc sử dụng các mô – típ dân gian không những là một thủ pháp nghệ thuật, mà hơn thế việc sử dụng các mô – típ dân gian còn là một quy luật có tính tất yếu trong quy trình sáng tạo của thể loại Truyện thơ Nôm. Đồng thời, việc sử dụng các mô – típ này có tính phổ biến. Các tác giả Truyện Nôm sử dụng những tình tiết rút ra từ kho tàng tri thức dân gian, hoặc những chi tiết mang tính chất ly kỳ, hấp dẫn của nghệ thuật dân gian. Mặt khác, cách nói khoa trương, phóng đại, cách nói ước lệ tượng trưng của nghệ thuật kể chuyện dân gian hầu như cũng được các tác giả Truyện Nôm kế thừa và sử dụng rộng rãi như một đặc trưng trong phong cách tự sự của thể loại này. Hoàng Trừu từng đi khắp mười tám nước chư hầu để kén vợ, Thạch Sanh lấy được Công chúa bị quân của mười tám nước chư hầu kéo đến bao vây... Tính công thức, ước lệ, nhiều khi còn được thể hiện ngay ở những câu mở đầu hoặc ở những câu kết thúc của một Truyện Nôm. Có thể kể hàng loạt dẫn chứng, chẳng kể nội dung truyện như thế nào, bao giờ truyện cũng phải được mở đầu hoặc kết thúc bằng những lời ca tụng tốt đẹp, hoặc bằng những câu mang tính chúc mừng: “Mừng nay vừa thuận nước non, Lê dân lạc nghiệp bốn phương yên hòa. (Phạm Công – Cúc Hoa) “Nay mừng Nam Bắc thuận hòa, Chẳng còn lo ngại đường xa nỗi gần. (Hoàng Trừu) Diễn biến nội tâm của nhân vật cũng được tác giả thể hiện khá đặc sắc trong tâm trạng dằn vặt, đau khổ của Thúy Kiều, tâm trạng miêu tả có chiều sâu ở Trương Quỳnh Thư, Kiều Nguyệt Nga, Dương Dao Tiên ... Xét về ngôn ngữ, Truyện thơ Nôm sử dụng từ ngữ đời thường, bởi Truyện Nôm vốn là một thể loại sinh thành và phát triển từ cội nguồn văn học dân gian. Và ngôn ngữ sinh hoạt đời thường góp phần làm cho nhân vật của Truyện thơ Nôm gần gũi với cuộc sống, giàu chất sống và phản ánh hiện thực một cách sinh động. Ngoài ra, Truyện thơ Nôm cũng sử dụng khá nhiều thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong lời nhân vật (Lục Vân Tiên, Truyện Kiều, Hoa Tiên...). Cách vận dụng sinh động ngôn ngữ tự nhiên của nhân dân từ trong thành ngữ, ca dao, tục ngữ đã góp phần đưa Truyện thơ Nôm không những đến với tầng lớp quí tộc mà cũng gần gũi với tầng lớp bình dân. Bên cạnh đó, sự vận dụng này đã làm cho ngôn ngữ, suy nghĩ, nội tâm của nhân vật trong Truyện thơ Nôm càng hàm súc, giàu hình ảnh và thâm trầm. Cũng nhờ sử dụng thành ngữ, tục ngữ, Truyện thơ Nôm và ngôn ngữ nhân vật Truyện thơ Nôm không những nói đúng mà còn nói rất ngắn gọn, rất hay, rất gần gũi, rất tâm lý về nhiều vấn đề của cuộc sống. Chính đặc điểm này là một trong những lý do cơ bản giúp Truyện thơ Nôm được nhân dân yêu thích.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất