Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thế giới nhân vật trong kịch nguyễn đình thi...

Tài liệu Thế giới nhân vật trong kịch nguyễn đình thi

.PDF
109
43
65

Mô tả:

1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nguyễn Đình Thi (1924-2002), là một nghệ sĩ đa tài và có một vị trí đặc biệt trong nền văn học Việt Nam. Ông là một trong những người hoạt động văn nghệ chủ chốt từ những ngày đầu cách mạng tháng Tám đến nay, đồng thời có những đóng góp tiêu biểu trong nhiều lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật như: thơ, âm nhạc, văn xuôi, lí luận phê bình, kịch… Nguyễn Đình Thi là một mẫu hình của thế hệ nhà văn trưởng thành trong cách mạng. Nhà văn tài hoa này đến với cuộc đời mới với nhiều tham vọng khai thác trên nhiều bình diện lớp sâu của hiện thực qua tiểu thuyết, những xung đột giàu kịch tính và chất thơ của cuộc đời. Nguyễn Đình Thi bắt đầu bằng chính sự bắt đầu – ông ít chịu ảnh hưởng của văn chương thời kì trước Cách mạng tháng Tám. Tỉnh táo, thông minh, giàu tưởng tượng và liên tưởng, Nguyễn Đình Thi đã đem đến văn chương niềm vui và sự trong sáng của lí tưởng và cuộc đời mới. Trong khoảng thời gian hơn 60 năm cầm bút với những đóng góp tìm tòi của mình. Nguyễn Đình Thi ngày càng thu hút được sự chú ý tìm hiểu, lí giải, đánh giá không chỉ của giới văn học nghệ thuật mà còn của nhiều công chúng, của giới thuyền thông. Đến nay những gì mà chúng ta đã biết, đã đánh giá về cuộc đời và sự nghiệp của ông chắc chắn mới chỉ là những bước đầu, tuy rất quan trọng, nhưng còn cần được tiếp tục tìm hiểu, suy ngẫm, khám phá. Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy từ trước tới nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về Nguyễn Đình Thi, khẳng định những thành công của ông trong sự nghiệp sáng tác và nghiên cứu phê bình nghệ thuật. Tuy nhiên, trong đó việc nghiên cứu nghệ thuật sáng tạo về kịch của ông còn chưa nhiều. Các ý kiến mới chủ yếu đề cập đến các vở kịch cụ thể và đời sống của chúng trên sàn diễn. Trong đó chỉ có ở hai công trình nghiên cứu của Lê Thị Chính và 2 Bùi Thị Thanh Nhàn chúng tôi mới thấy kịch của Nguyễn Đình Thi bước đầu được nghiên cứu một cách có hệ thống. Tuy nhiên, trong đó các vấn đề mới chỉ được phân tích một cách khái quát chưa đi sâu vào một vấn đề cụ thể. Đặc biệt về vấn đề nhân vật mới chỉ được bàn một cách chung chung, hoặc được nhắc đến như một yếu tố làm rõ hơn cho những luận điểm đang được chứng minh mà chưa có nghiên cứu sâu. Từ những lý do trên, chúng tôi đi vào tìm hiểu đề tài “Thế giới nhân vật trong kịch Nguyễn Đình Thi” với mong muốn góp thêm một chút công sức vào việc tìm hiểu và khẳng định những đóng góp của kịch Nguyễn Đình Thi đặc biệt là về nhân vật. Đó cũng là tiếng nói tri ân dành cho một tài năng lớn. 2. Lịch sử vấn đề Hoạt động trên nhiều lĩnh vực của đời sống văn hóa nghệ thuật, Nguyễn Đình Thi trở thành đề tài, đối tượng của hàng trăm bài viết cũng như các công trình nghiên cứu lớn nhỏ. Những thành tựu và đóng góp quan trọng của tác giả trên các lĩnh vực thơ, văn xuôi, âm nhạc, lí luận phê bình…đã được khẳng định bởi nhiều nhà nghiên cứu có tên tuổi như Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Hữu Tá, Chu Văn Sơn. Bên cạnh điểm chung khẳng định tài năng phong cách tác giả còn có những tư tưởng không đồng nhất. Trong khi Nguyễn Xuân Nam, Nguyễn Đăng Mạnh khẳng định sở trường, đóng góp của tác giả ở lĩnh vực thơ ca thì Chu Nga lại cho rằng thành công lớn nhất của ông là ở văn xuôi. Không chỉ vậy, cũng có người nhấn mạnh cống hiến của tác giả ở mảng lí luận phê bình, cho rằng đây mới là những tác phẩm được “chờ đón, đề cao” [Nguyễn Khoa Điềm]. Kịch là mảng sáng tác còn khá xa lạ với độc giả mặc dù Nguyễn Đình Thi dành phần lớn thời gian khi tuổi đã cao cho kịch “Ở tuổi năm mươi Nguyễn Đình Thi mới sáng tạo được những vở kịch giàu tính trải nghiệm đến như thế, Kịch Nguyễn Đình Thi như mang ý nghĩa đúc kết về hai bình diện, 3 những suy nghĩ của người viết qua nhiều chặng đường và bình diện đúc kết những điển hình không trải ra ở bề rộng mà lắng đọng ở chiều sâu, ở những xung đột bi kịch của nhiều số phận, nhiều cảnh đời qua nhiều thời kì lịch sử, xưa cũng như nay: Kịch là phần đóng góp nổi bật của Nguyễn Đình Thi” [Hà Minh Đức]. So với những mảng sáng tác khác, kịch Nguyễn Đình Thi đã từng chịu số phận long đong, thậm chí còn oan ức. Dù không sớm được đề cao, khẳng định nhưng cho đến nay những kịch phẩm của ông cũng đã giành được sự quan tâm đích đáng. Trong số đó, có không ít bài viết thực sự tâm huyết của các tác giả như Huy Cận, Hà Minh Đức, Tất Thắng, Tuệ Minh, Phan Trọng Thưởng. Qua những bài nghiên cứu của các tác giả này, nhiều phương diện đặc sắc về nội dung cũng như nghệ thuật của kịch Nguyễn Đình Thi đã được chỉ ra như: tính triết lí, màu sắc bi kịch, nội dung nhân bản hay khuynh hướng tượng trưng, sự đan xen giữa hiện thực và huyền ảo. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu: Khi nghiên cứu về hai vở kịch ngắn “Người đàn bà hóa đá” và “Cái bóng trên tường”, tác giả Huy Cận có đưa ra cách nhìn nhận xác đáng:“Hai vở kịch ngắn đều nói tới định mệnh nghiệt ngã, tàn khốc đối với nhân vật để rồi cuối cùng một vở để lại cái bâng khuâng, xa xót nghìn đời, cái xa xót sừng sững giữa trời đất, và cuối vở sau để lại nỗi ân hận, hối hận chẳng bao giờ nguôi được”. Đồng thời tính chất mới mẻ, sáng tạo của hai tác phẩm này còn được khẳng định, đó là “chuyện xưa nhưng hồn truyện vẫn trẻ” [inter.]. Cùng nghiên cứu về đặc điểm kịch của Nguyễn Đình Thi, Trần Khánh Thành và Bùi Thị Hợi viết: “Kịch của Nguyễn Đình Thi giàu chất triết lí, hình tượng nghệ thuật đa nghĩa, nhiều ẩn dụ, không dễ hiểu với tầng lớp bình dân. Thế giới nghệ thuật kịch của Nguyễn Đình Thi là một thế giới văn hóa đa dạng nhiều màu sắc, nơi mà dấu vết văn hóa cổ kim, đông tây, dân gian, bác học được hội tụ và tỏa sáng. Dù đa dạng về sắc thái tính chất nhưng tất cả 4 đều thể hiện tình yêu tha thiết của một nghệ sĩ tài năng tâm huyết với đất nước, với dân tộc, với nhân dân, thể hiện xót xa về số phận con người và những khát vọng sáng tạo nghệ thuật” [37, inter]. Tác giả Trần Hữu Tá cho rằng: “Kịch Nguyễn Đình Thi giàu chất suy tưởng và thiên về tính trữ tình, triết lí”. Tương tự, nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn còn khẳng định thêm: “Phần lớn các vở kịch của Nguyễn đình Thi đều ít nhiều mang màu sắc bi kịch, tỏ rõ khuynh hướng tượng trưng và đậm chất triết lí” [38, tr. 544]. Hà Minh Đức bổ sung thêm: “Kịch Nguyễn Đình Thi là một thế giới mang màu sắc văn hóa, nơi mà dấu vết văn hóa được quy tụ trong một nội dung nhân bản”. Trong bài viết Nguyễn Đình Thi - nghệ sĩ và cách mạng, tác giả Tôn Phương Lan lại hướng tới một đặc điểm khác: “Kịch của ông giàu chất thơ, gửi gắm những tình cảm, những suy ngẫm về đạo đức, về thời cuộc”. Và trong bài viết về vở Giấc Mơ và tác giả, học giả nước ngoài M.B. Khrapchenko cũng nhận ra: “Bầu trời các vở kịch của Nguyễn Đình Thi rất phong phú về màu sắc và rất nhiều chất thơ… Dù là kịch lịch sử hay những biểu tượng thần tiên, Nguyễn Đình Thi đã biết kết hợp cái nhìn thực tế với khái niệm thần thoại, quan hệ thời gian như một loại hình cơ đông và vĩnh viễn với ý thức lạ lùng về những mối ràng buộc con người với nhau, trong một nhân loại không thể chia cắt được” [28, tr. 382]. Nghiên cứu về Thế giới kịch của Nguyễn Đình Thi, nhà nghiên cứu Tất Thắng cho rằng: “Thế giới kịch của Nguyễn Đình Thi là một thế giới như hư, như thật, nó kì ảo như một Giấc mơ nhưng lại sờ sờ ra đấy như Hòn Cuội, và trong cái thế giới ấy, Nguyễn Đình Thi như làm hiện lên trước mắt ta, trong sự tiếp nhận của ta, những con người, những cảnh đời vừa quen vừa lạ, vừa thấy đấy như một dòng sông, một bến nước, một người vợ đêm đêm chờ chồng…mà thoắt cái đã trở thành cái bóng oan nghiệt, đã biến đi xa vời vợi 5 như mặt trăng tròn ở tít chân trời cao…”. Và ông còn nhấn mạnh thêm: “Các vở kịch của anh trừ Hoa và Ngần xem có vẻ thật một trăm phần trăm còn tất cả đều thấm nhuần không khí hư ảo và đông đặc tính chất huyền thoại” [47, tr. 357]. Và cũng chính ông là người đã đưa ra một nhận xét khá xác đáng về vấn đề xung đột trong kịch của Nguyễn Đình Thi: “Hình thái xung đột quán xuyến các vở kịch của Nguyễn Đình Thi là sự diễn tả cuộc sống như ta thấy và như ta tưởng, như ta chứng kiến và như ta ao ước, như ta trải nghiệm và như ta khát khao” [16, tr. 369]. Hà Minh Đức nhận định: “Có thể nói tới một thế giới kịch của Nguyễn Đình Thi. Ở đây cuộc đời có quá khứ, hiện tại và tương lai, chủ yếu là những vấn đề chung của lịch sử ở một thời điểm và cũng là muôn đời. Ở đây có những gương mặt hiền lành cụ thể của người con gái, bà mẹ, người chiến binh như mới từ cuộc đời đi vào trang sách và cũng sâu xa hơn họ lại đến với thế giới có màu sắc huyền thoại” [11, tr. 27]. Cũng chính ông còn phát hiện: “Điểm mạnh của ngòi bút kịch Nguyễn Đình Thi là những đột phá vào thế giới bên trong của nhân vật” [11, tr. 25-26]. Năm 1999, nhân sự kiện vở Rừng Trúc được dàn dựng và đạt huy chương vàng tại Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp cuối cùng của thế kỉ XX, Phan Trọng Thưởng phân tích khá sâu về vở kịch với những phát hiện quan trọng về tư tưởng nghệ thuật cũng như tính cách các nhân vật và nghệ thuật tổ chức xung đột, từ đó nêu lên một số vấn đề lí luận sáng tác về đề tài lịch sử. Tác giả bài viết cho rằng: “ Rừng trúc cho thấy khả năng khai thác vào các sự kiện lịch sử tưởng như đã cũ để tìm ra trong đó những bài học”. Trong một bài nghiên cứu khác (Về một số nhân vật lịch sử trong vở kịch “Rừng trúc” của Nguyễn Đình Thi), tác giả Lê Thị Chính cũng đã khẳng định thêm rằng: “Khai thác đề tài lịch sử, ngòi bút Nguyễn Đình Thi muốn tìm trong lịch sử những gì gần gũi, mượn lịch sử để gửi gắm, chiêm nghiệm tư tưởng của mình”. Tác phẩm vừa dựng lên những sự kiện lịch sử đầy bạo động, vừa khái 6 quát được những vấn đề sâu sắc về thế sự, nhân sinh. Mặc dù là vở kịch “giàu chất văn học và rất khó sân khấu hóa” nhưng khi đã dược hóa thân trên sàn diễn nó thực sự có thể tạo nên một hiệu quả chinh phục lớn lao. Có thể nói, sau 21 năm sống trong im lặng, rừng trúc có nhiều ưu điểm vượt trội và hiện hình thực sự trên sân khấu, sống cuộc sống đầy đủ của một kịch bản sân khấu. Sau này, có thêm nhiều ý kiến bộc lộ sự quan tâm tâm tới mảng sáng tác kịch của ông. Tô Hoài “đặc biệt chú trọng khu vực sáng tác kịch bản sân khấu của Nguyễn Đình Thi và thấy ở mỗi vở kịch đều mang triết lí của nhân vật lịch sử, một truyền thuyết hay huyền thoại”[15, tr. 79]. Lê Thiếu Sơn phát hiện: “Những nhân vật trong kịch Nguyễn Đình Thi đa diện và mở ra nhiều hướng tiếp cận”[15, tr. 231]. Nguyễn Văn Thành cho rằng: “Các kịch bản của Nguyễn Đình Thi được viết với một bút pháp tân kì, táo bạo, thật sự là nỗ lực cách tân cung cách biên kịch nhằm mở rộng dung lượng, sức chứa, cũng như tăng cường chất văn học, nâng cao tầm khái quát và chiều sâu triết lí của kịch”[15, tr. 237]. Mai Quốc Liên và Nghĩa An nhấn mạnh thêm: “Kịch Nguyễn Đình Thi lay động người ta bởi những ý tưởng văn chương sâu sắc”[15, tr. 176] và “mang đậm những suy tư triết học về con người”[15, tr. 110]. Trong luận án tiến sĩ của Lê Thị Chính, Đại học Sư phạm Hà Nội – “Nguyễn Đình Thi với thơ và kịch”. Tác giả đã đi sâu vào nghiên cứu các kiểu xung đột nổi bật trong những kịch phẩm của tác giả như: xung đột thật – giả, xung đột giữa vận nước và số phận con người, xung đột giữa quyền lực và quyền sống tự do của mỗi cá nhân. Đồng thời luận án còn có sự luận giải khá chính xác về một số loại hình tượng nghệ thuật đặc biệt, về đặc điểm ngôn ngữ kịch. Cũng theo hướng nghiên cứu đó, luận văn thạc sĩ của Doãn Thị Thanh Hương (Đặc điểm kịch Nguyễn Đình Thi) khai thác xung đột nội tâm cũng như chỉ ra các cấp độ xung đột trong những vở kịch của tác giả. Luận văn cũng khám phá thành công một số đặc điểm của nhân vật trong kịch 7 Nguyễn Đình Thi: đó là những con người sống có lí tưởng và đấu tranh cho lí tưởng, luôn bảo vệ phẩm giá và ý chí sắt đá, trong đó có nhiều nhân vật là nhân vật vô danh hoặc nhân vật huyền thoại. Do khuôn khổ hạn chế nên các công trình này cũng mới chỉ đề cập đến một trong những khía cạnh về nội dung cũng như nghệ thuật của kịch Nguyễn Đình Thi và còn bỏ trống nhiều khía cạnh chưa có điều kiện khai thác. Chính vì vậy, để góp phần khẳng định tài năng cũng như cá tính sáng tạo của Nguyễn Đình Thi trong kịch, chúng tôi chọn đề tài “Thế giới nhân vật trong kịch Nguyễn Đình Thi”. Thực hiện đề tài này, chúng tôi mong muốn đem tiếng nói của mình góp thêm vào những ý kiến, bài viết, những công trình nghiên cứu đã có để hướng tới khẳng định, đánh giá một cách hoàn chỉnh về những đặc điểm, giá trị của hệ thống kịch bản mà tác giả dành nhiều tâm huyết tạo dựng, vun đắp trong suốt khoảng thời gian gần 30 năm của mình... Đồng thời góp thêm một tiếng nói, một cái nhìn mới về viêc nghiên cứu và giảng dạy kịch ở các cấp học. 3. Mục đích nghiên cứu Thông qua việc tập hợp, khảo sát, phân tích trọn bộ 10 tác phẩm kịch của Nguyễn Đình Thi, luận văn hướng tới làm nổi bật nét đặc sắc về thế giới nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật trong kịch Nguyễn Đình Thi. Đồng thời, quá trình tìm hiểu, nghiên cứu cũng khẳng định tài năng sáng tạo và vị trí, sự đóng góp của Nguyễn Đình Thi đối với sự phát triển của thể loại kịch trong nền văn học Việt Nam hiện đại. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung vào việc tìm hiểu Thế giới nhân vật trong kịch Nguyễn Đình Thi * Phạm vi nghiên cứu: 8 Những tác phẩm kịch của Nguyễn Đình Thi(gồm 10 tác phẩm) 1. Con nai đen (1961) 2. Hoa và Ngần (1974) 3. Giấc mơ (1977) 4. Rừng trúc (1978) 5. Nguyễn Trãi ở Đông Quan (1979) 6. Tiếng sóng (1980) 7. Người đàn bà hóa đá (1980) 8. Cái bóng trên tường (1982) 9. Trương Chi (1983) 10. Hòn cuội (1986) Ngoài ra để thấy được những đặc sắc về nhân vật kịch của Nguyễn Đình Thi, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát một số tác phẩm tiêu biểu của một số nhà viết kịch khác như Nguyễn Huy Tưởng, Lưu Quang Vũ. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn vận dụng phối hợp và linh hoạt các phương pháp nghiên cứu khoa học sau: Phương pháp loại hình: Vận dụng những kiến thức lý luận về thể loại kịch làm tiền đề cho việc đi vào nghiên cứu các vấn đề cụ thể về thế giới nhân vật trong kịch Nguyễn Đình Thi. Phương pháp hệ thống: Cho phép luận văn đặt vấn đề nhân vật vào trong hệ thống thi pháp kịch Nguyễn Đình Thi, chỉ ra sự phong phú cũng như những đặc trưng của thế giới nhân vật kịch. Phương pháp phân tích tổng hợp: Vận dụng phương pháp này chúng tôi sẽ thuận lợi hơn trong việc phân tích, lý giải các khía cạnh về nhân vật kịch Nguyễn Đình Thi, từ đó tổng hợp lại, rút ra những kết luận cần thiết theo yêu cầu của luận văn. 9 Phương pháp so sánh, đối chiếu: Thông qua sự so sánh, đối chiếu, làm rõ đặc trưng của các kiểu loại nhân vật cũng như sự đa dạng của thế giới nhân vật kịch Nguyễn Đình Thi. Phương pháp thống kê: Có ý nghĩa cung cấp dữ liệu và những số liệu chính xác, tạo cơ sở tin cậy cho những kết luận của luận văn. 6. Bố cục luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tư liệu tham khảo,phần nội dung chính của luận văn gồm ba chương Chương I: Một số vấn đề lý luận chung về nhân vật kịch và hành trình sáng tác kịch của Nguyễn Đình Thi Chương II: Các kiểu nhân vật trong kịch Nguyễn Đình Thi Chương III: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong kịch Nguyễn Đình Thi 10 NỘI DUNG CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÂN VẬT KỊCH VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC KỊCH CỦA NGUYỄN ĐÌNH THI 1.1. Những vấn đề lý luận về nhân vật kịch 1.1.1. Nhân vật Nhân vật là một khái niệm quan trọng trong lý luận và nghiên cứu văn học. Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về nhân vật văn học nhưng đều gặp nhau ở những nội hàm không thể thiếu của khái niệm này: Thứ nhất, đó là đối tượng mà văn học miêu tả, thể hiện bằng những phương tiện văn học khác nhau. Thứ hai, đó là con người hoặc con vật, đồ vật, sự vật hiện tượng mang linh hồn, đặc điểm của con người, là hình ảnh ẩn dụ của con người. Thứ ba, đó là đối tượng mang tính ước lệ và có cách điệu so với đời sống hiện thực, bởi nó đã được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của nhà văn. Nhân vật văn học chính là đối tượng được miêu tả có sức sống riêng nào đó bên trong tùy thuộc vào nhiệm vụ nghệ thuật mà tác giả trao cho nó. Đối với mỗi nhân vật văn học thì tính cách được coi là hạt nhân, là đặc điểm quan trọng nhất, là “nội dung của mọi nhân vật văn học” [9, tr. 64]. Trong nghiên cứu văn học, theo nghĩa rộng nhất của nó, khái niệm “nhân vật” mới chỉ là hình ảnh về con người, khái niệm “tính cách điển hình” chính là điển hình về con người. Như vậy, dùng khái niệm “nhân vật” là chỉ đối tượng được nói đến, còn dùng “tính cách” và “tính cách điển hình” là đã bao hàm cả sự đánh giá về chất lượng tư tưởng nghệ thuật của đối tượng đó” [31, tr. 162 – 163]. Nhân vật và tính cách là những yếu tố thuộc nội dung nhưng các biện pháp thể hiện chúng sao cho sinh động, hấp dẫn là thuộc về 11 hình thức của tác phẩm. Không thể phát huy vai trò của các chi tiết trong việc miêu tả ngoại hình và hành động nhân vật như tự sự; việc khắc họa tính cách, nhân vật kịch tập trung vào hành động và ngôn ngữ của nhân vật. Nhờ đó mà với nghệ thuật trình diễn, nhân vật kịch mới có thể hiện lên một cách chân thực, thuyết phục được công chúng. Việc phân chia các loại hình nhân vật cũng rất đa dạng. Xét về vai trò nhân vật trong tác phẩm, có thể nói tới nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm. Xét về phương diện hệ tư tưởng, về quan hệ đối với lý tưởng của nhà văn, có thể nói tới nhân vật chính diện và nhân vật phản diện. Các kiểu cấu trúc nhân vật cũng rất đa dạng: có kiểu nhân vật chức năng, nhân vật loại hình, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng. Điều này càng cho thấy tính đa dạng và phong phú đồng thời cũng là khó khăn của việc đi vào tìm hiểu, nghiên cứu nhân vật văn học. Là yếu tố vừa thuộc nội dung vừa thuộc hình thức, nhân vật văn học là đối tượng để nhà văn thể hiện chủ đề, tư tưởng của mình trong tác phẩm. Nói như nhà văn Anh Đức thì sức sống của nhà văn chính là ở việc xây dựng những nhân vật đặc sắc. Tất nhiên, đó không phải là điều đơn giản. Nhân vật văn học là hình ảnh về con người. Trong vai trò “người thư kí trung thành của thời đại” (Banzắc), văn học trở thành một phương thức khái quát, phản ánh và thể hiện cuộc sống – bằng những hình tượng, nhân vật cụ thể – vô cùng hữu hiệu. Do vậy, vai trò, chức năng quan trọng đầu tiên phải kể đến của nhân vật văn học là phương tiện để nhà văn khái quát hiện thực. “Nhân vật chính là người dẫn dắt người đọc vào thế giới riêng của đời sống trong một thời kì lịch sử nhất định” [9, tr. 160] Nhân vật là công cụ tạo nên thế giới nghệ thuật, tái hiện con người với những đặc điểm về tính cách, số phận và con đường đời: Mỗi nhân vật luôn được đặt trong không gian, thời gian nhất định với đời sống tâm lý riêng nên 12 một cách hiển nhiên, nó là tâm điểm để tạo ra các mối quan hệ xã hội, là đối tượng để đánh giá các quan niệm đạo đức… có những quy luật nội tại và những bậc thang giá trị riêng. Nhân vật là chìa khóa giúp cho nhà văn mở rộng đề tài, giúp cho tác phẩm có tầm bao quát sâu và rộng. Sự phát triển của cốt truyện cũng như tình tiết truyện chính là sự xoay quanh các nhân vật trong tác phẩm, qua đó tác giả gửi gắm những giá trị nội dung và tư tưởng. Có thể khẳng định nhân vật sẽ quyết định đến mầu sắc và tính chất của tác phẩm, có nghĩa là loại nhân vật sẽ quyết định việc nhà văn đi sâu vào vấn đề cốt lõi nào của đời sống và thế giới nghệ thuật mà nó tạo nên vì thế mà cũng có nét riêng phù hợp. Nhân vật còn là phương tiện để khái quát lên tính cách xã hội. Điều này là do nhân vật là nơi chứa đựng tính cách duy nhất. Khi đã mang trong mình sự khái quát tính cách nhất định, nhân vật vừa có nét riêng lại vừa có khả năng đại diện cho một lớp người nào đó. Lý luận văn học đã chỉ ra tính cách là sự khái quát bản chất xã hội – lịch sử, tâm lý con người bằng hình thức con người cụ thể, là sự thể hiện các phẩm chất xã hội của con người với tư cách là con người xã hội. “Tính cách là điểm trung tâm của các mối quan hệ giữa nội dung và hình thức” [Hêghen]. Về mặt nội dung: nhân vật với tính cách của nó là phương tiện để thể hiện tư tưởng tác phẩm. Về hình thức: nhân vật với tính cách của nó quyết định đến phần lớn các yếu tố hình thức kết cấu, những quy luật loại thể, ngôn ngữ… Tập hợp các cá thể nhân vật sẽ tạo nên một thế giới nhân vật. Ở đó truyền tải ý đồ nghệ thuật của người cầm bút với những quan niệm nghệ thuật, cách nhìn nhận và thể hiện con người…Trong thế giới nhân vật, từ con người cá thể với những đặc điểm về tính cách, cuộc đời, số phận, cho phép ta hình dung nên bức tranh tổng thể về đời sống. Thế giới nhân vật chính là phần tất yếu trong thế giới nghệ thuật của người cầm bút. 13 Với vai trò, vị trí quan trọng như vậy, một lần nữa có thể khẳng định: nhân vật là yếu tố không thể thiếu đối với tác phẩm văn chương. 1.1.2. Nhân vật kịch và đặc điểm của nhân vật kịch Nhân vật kịch là con người được miêu tả trong tác phẩm kịch. Tất cả mọi nội dung, diễn biến của câu chuyện, hành động, xung đột và tư tưởng, quan niệm của tác giả đều phải thể hiện qua nhân vật – và trực tiếp là qua hoạt động biểu diễn của diễn viên trên sân khấu. Nhân vật kịch luôn hiện hình trong tác phẩm đúng vào thời điểm “bước ngoặt số phận” và dù ở bất cứ dạng thức nào, nó cũng luôn tự khẳng định bản chất, tính cách của mình bằng hành động. Cũng giống như các loại văn khác, nhân vật là yếu tố quan trọng nhất, không thể thiếu đối với tác phẩm kịch. Mọi khía cạnh và vấn đề của đời sống, dụng ý của tác giả đều gửi gắm qua nhân vật. “Do tính hiện đại và tính thời sự của mình, kịch thường tập trung trong hình tượng trung tâm của mình những điển hình mang dấu vết của từng thời kì lịch sử” [50, tr. 67]. Với những hạn chế về thời gian và không gian sân khấu, cốt truyện kịch bản văn học tập trung nên số lượng nhân vật bị hạn chế, không xuất hiện nhân vật người kể chuyện. Trong nhân vật kịch, yếu tố quan trọng nhất là hành động kịch. Mối quan hệ giữa hành động và nhân vật trong mỗi tác phẩm luôn là tiền đề, là trục chính để xác định tính cách nhân vật kịch. Hành động được đặt trong tương quan và bộc lộ qua xung đột. Nhân vật lại là phương tiện tất yếu và quan trọng nhất để thể hiện tư tưởng trong tác phẩm do đó tính cách nhân vật phải thật tiêu biểu (nhưng không có nghĩa là đơn giản một chiều). Tính cách nhân vật kịch tuy không đa dạng như nhân vật tiểu thuyết nhưng có được những đường nét, mầu sắc nổi bật hơn và dễ xác định về mặt bản chất. 14 Ngôn ngữ nhân vật chiếm vai trò quan trọng trong việc thể hiện nhân vật. Nguyên tắc xây dựng ngôn từ nghệ thuật của một kịch bản văn học là tất cả mọi vấn đề xoay quanh hình tượng đều nằm trong ngôn ngữ nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật chiếm vai trò quan trọng trong việc thể hiện nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật là hình thức tồn tại hầu như duy nhất của ngôn ngữ kịch (không tính đến những lời chú thích, minh họa về mặt sân khấu, trang phục, sự xuất hiện của diễn viên khi diễn xuất trên sân khấu…). Nhân vật trong kịch bản là con người được khắc họa bằng đối thoại và độc thoại. Nhân vật kịch phải có tính cách dựa vào lời thoại và hành động sân khấu của bản thân nhân vật mà không phải qua mô tả của tác giả như trong văn xuôi. Như vậy, thông qua việc tìm hiểu về nhân vật và nhân vật kịch nói riêng, có thể thấy, trong kịch, yếu tố nhân vật đóng vai trò vô cùng quan trọng. Nhân vật kịch vừa là nơi trực tiếp và duy nhất khắc họa hình tượng, thể hiện mâu thuẫn, xung đột, vừa là nơi để truyền tải thông điệp, tư tưởng của tác giả đến công chúng. Việc đi vào tìm hiểu về nhân vật trong một vở kịch hay tìm hiểu về thế giới nhân vật trong các sáng tác của một kịch tác gia văn học là một việc bao quát và toàn diện cho thấy quan niệm, tư tưởng, tài năng nghệ thuật của tác giả cũng như toàn bộ tác phẩm, đặc biệt khi nó được trình diễn trên sân khấu. Đó sẽ luôn là một con đường hiệu quả nhất để tiếp cận với kịch. 1.2. Hành trình sáng tác kịch của Nguyễn Đình Thi Nguyễn Đình Thi tiêu biểu cho một thế hệ trí thức trưởng thành từ cuộc cách mạng tháng Tám vĩ đại, “là sản phẩm của một thời đại đẹp, sáng, oai hùng”. Là một trí thức có vốn văn hóa uyên bác, lịch lãm, lại đa tài, ông đã đem đến cho nền văn nghệ Việt Nam một diện mạo mới, một khuynh hướng sáng tạo nghệ thuật mới mẻ. 15 Nói như Nguyễn Trọng Tạo “Ở đời người đa tài như Nguyễn Đình Thi đâu có nhiều, mà đa tài kiểu Nguyễn Đình Thi chỉ có một” [11, tr. 328]. Không chỉ là “lục sĩ” như Đặng Vương Hưng đã gọi mà ông còn là một nhà báo, một nhà hùng biên, một nhà điện ảnh…Với cách nói giàu hình ảnh, giản dị và đầy sức thuyết phục Nguyễn Đình Thi còn là người viết thuyết minh cho nhiều phim (Việt Nam trên đường thắng lợi, Hồ Chí Minh – chân dung một con người). Dường như tất cả những gì thuộc về văn chương nghệ thuật đều không xa lạ đối với ông. Trên hành trình đi tìm cái đẹp, Nguyễn Đình Thi đã nỗ lực, kiên trì thể nghiệm tài năng của mình và thành công ở nhiều thể loại khác nhau: âm nhạc, thơ, lí luận phê bình…Và đặc biệt Kịch là thể loại ông dành tâm huyết gần 30 năm cuối cuộc đời. Tuy số phận của các tác phẩm kịch còn gặp nhiều sóng gió nhưng Nguyễn Đình Thi đã để đời những tác phẩm bất hủ như (Con Nai đen, Cái bóng trên tường, Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Rừng Trúc…). Bên cạnh những cây bút kịch đầy tài năng như Lưu Quang Vũ, Nguyễn Huy Tưởng thì kịch của Nguyễn Đình Thi thực sự sống khi được nhà đạo diễn tài ba Nguyễn Đình Nghi dàn dựng đưa lên sân khấu. Vở kịch đầu tiên Con nai đen được viết năm 1961. Tiếp đến Hoa và Ngần 1974. Từ năm 1977 đến năm 1986, Nguyễn Đình Thi viết liền 8 vở: Giấc mơ (1977); Rừng trúc (1978), Nguyễn Trãi ở Đông Quan (1979), Tiếng sóng, Người đàn bà hóa đá (1980), Cái bóng trên tường (1982), Trương Chi (1983) và Hòn cuội (1983 - 1986). Năm 1949, tại hội nghị tranh luận Văn Nghệ Việt Bắc, Nguyễn Đình Thi đã chân thành giãi bày “Thơ là niềm thiết tha nhất, là cái tìm tòi rất khổ” của ông. Gần 40 năm sau, năm 1988, ông lại tâm sự “Kịch là điều tôi say mê nhất đã từ gần 30 năm nay”[14, tr. 390], nhưng ngẫm lại, “tôi thấy việc viết kịch của tôi còn gặp nhiều khó khăn hơn cả thơ: mấy vở viết ra đều bị cấm diễn” [14, tr. 256]. Nỗi niềm ấy của tác giả chỉ có thể là sau khi đã qua một 16 hành trình thật dài…Các tác phẩm kịch của Nguyễn Đình Thi gặp rất nhiều khó khăn khi dàn dựng đưa lên sân khấu. Vì sao những vở diễn lại có số phận long đong đến như vậy. Vở Con nai đen hoàn thành tháng 6/ 1961, tháng 11/1961 được in. Năm 1962, Thế Lữ dàn dựng, được diễn trong hội diễn kịch nói 1962 và gây nhiều tranh luận. Vở kịch bị phê bình quá nặng về tư tưởng và không được diễn nữa. Vở Hoa và Ngần viết năm 1974, đoàn kịch Hà Nội dựng (đạo diễn Dương Ngọc Đức), chỉ xuất hiện duy nhất trong đêm tổng duyệt rồi bị cấm. Đặc biệt là sự kiện về vở kịch lịch sử “Nguyễn Trãi ở Đông Quan” viết 1979. Năm 1980, Nguyễn Đình Nghi đạo diễn, nhà hát kịch Trung ương thực hiện, cũng chỉ diễn được vài buổi rồi có lệnh cấm. Nhà văn Hoàng Hữu Các [11, tr. 179] kể lại: “Buổi công diễn đầu tiên, Nhà hát lớn đông nghịt người xem. Màn mở. Đạo diễn Nguyễn Đình Nghi dẫn kíp diễn ra sân khấu chào khán giả, và ông quay lại nói với các nghệ sĩ: “Không có nguyên mẫu nào ngoài đời để chúng ta bắt chước cả. Anh chị em nghệ sĩ hãy đốt tim mình lên để thắp sáng tác phẩm”. Từ phút đó cả nhà hát im phăng phắc… Rồi tiếng vỗ tay ào lên như sấm… mọi người ùa lên sân khấu tặng hoa, bắt tay, ôm hôn tác giả… Nhưng sau 8 buổi diễn, vở kịch có lệnh cấm”. Giới sân khấu lúc đó có giai thoại vui “nếu kịch bản mang tên Nguyễn Đình Thi, đạo diễn Nguyễn Đình Nghi thì khâu duyệt vở sẽ là Nguyễn Đình …Chỉ”. Chính Nguyễn Đình Thi cho biết với vở kịch này ông còn gặp rất nhiều phiền phức rắc rối. Điều đáng nói dù không được diễn, hoặc không được in, Nguyễn Đình Thi vẫn cứ viết. Số phận của Rừng trúc còn long đong hơn. Rừng trúc được viết trước Nguyễn Trãi ở Đông Quan, ngay tháng áp tết 1978. Nguyễn Đình Thi đã ôm bản thảo đến đoàn kịch Trung ương đọc cho nghệ sĩ Đào Mộng Long, Phạm 17 Thị Thành và Tuệ Minh, cả ba đều xuýt xoa tấm tắc. Đoàn kịch Điện ảnh định dàn dựng nhưng không thành. Đạo diễn Nguyễn Đình Nghi đã rất mê Rừng trúc từ ngày ấy và đem giới thiệu cho một số đoàn kịch (Đoàn kịch Trung ương, Nhà hát cải lương Trung ương, nghệ sĩ Bạch Tuyết ở Thành phố Hồ Chí Minh…). Nhưng tất cả mới chỉ dừng lại ở dự định. Rừng trúc lặng lẽ tồn tại ở dạng bản thảo đánh máy và truyền tay từ người này sang người khác. Gần 10 năm sau, bước vào công cuộc đổi mới, Rừng Trúc mới được công bố toàn văn trên Tạp chí Tác phẩm mới. Sau đó đạo diễn Nguyễn Đình Nghi và đoàn kịch Hà Nội đã đưa vào kế hoạch dàn dựng, nhưng rồi phải gác lại bởi những lí do bất khả kháng [14, tr. 380]. Đến tận cuối 1999, sau 21 năm “im lặng”, Rừng trúc mới thực sự hiện diện trên sân khấu Nhà hát tuổi trẻ do công của các đạo diễn Nguyễn Đình Nghi và Phạm Thị Thành, cùng lớp diễn viên nổi tiếng của nhà hát. Vở diễn đã đạt huy chương vàng trong Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp cuối cùng của thế kỉ XX. Lúc ấy Nguyễn Đình Thi đang nằm cấp cứu tại bệnh viện Hữu Nghị, nhưng ông thấy mình còn may mắn vì được chứng kiến đứa con tinh thần của mình hóa thân trọn vẹn trên sân khấu. Ông ngậm ngùi nhớ Nguyễn Huy Tưởng “Khi Vũ Như Tô được công diễn, Nguyễn Huy Tưởng đã chết được hơn 30 cái giỗ rồi”. Hành trình sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Đình Thi là cả một quá trình “tìm tòi rất khổ” nhiều khi “cô đơn heo hút” trong sự kì thị dường như không dứt của đồng nghiệp [Mai Hương]. Trong làng văn nghệ Việt Nam hơn nửa thế kỉ qua, ông thuộc những cây bút gặp nhiều phiền toái. Nhưng sau sự kiện: thơ 1949, vở kịch Con nai đen, rồi Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Nguyễn Đình Thi vẫn bền gan chịu đựng, tiếp tục tìm tòi và viết. Ông có nhiều dự cảm đúng đắn, có ý kiến trở thành chân lí nghệ thuật của thời đại. Các vở kịch tâm trạng như Rừng trúc (1978), Nguyễn Trãi ỏ Đông Quan (1979) là những dự 18 báo cho công cuộc đổi mới văn học sẽ trở nên rầm rộ vào cuối những năm 80 của thế kỉ XX. Có nhiều lí do dẫn đến những “tai nạn lao động” (theo cách nói của Nguyễn Tuân) của các vở kịch Nguyễn Đình Thi, trong đó có nguyên nhân liên quan đến những vấn đề tư tưởng mang tính thời đại, kể cả hậu quả của bệnh quan liêu, giáo điều, hoặc những ấu trĩ của quan điểm xã hội học dung tục một thời. Đã đi qua thời gian, Con nai đen, Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Rừng trúc… đang được đánh giá lại, như là những tác phẩm lớn, mang tầm vóc tư tưởng sâu sắc, và đã trở thành “những sự kiện trong đời sống nước ta mấy chục năm qua” (Trọng Khôi - Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 5/ 2003), [27]. Thời gian cầm bút nguyễn Đình Thi hơn một lần tha thiết “Suy nghĩ và nguyện vọng của tôi là được viết những điều mình thấy và nên viết”. “Tôi muốn tìm một câu trả lời về ý nghĩa kiếp sống của con người và phải tìm trong cội nguồn cách sống và cách nghĩ của dân tộc”. Nhìn lại 10 tác phẩm kịch của ông để cùng đồng cảm với tác giả “Tôi cảm thấy kịch cho phép tôi nói được những vấn đề làm tôi suy nghĩ mấy chục năm”. Với cách khai thác ở những dạng khác nhau như: khai thác ở đề tài lịch sử; dựa vào tích cũ của văn học dân gian; khai thác đề tài cuộc sống đương đại. Các hướng khai thác này đều sáng lên một cảm quan về lịch sử, thời đại, dân tộc, con người với chiều sâu triết luận giàu tính nhân văn. Dường như, mỗi tác phẩm kịch của Nguyễn Đình Thi đều có xu hướng muốn vươn tới những chủ đề vĩnh cửu. Huy Cận đọc hai vở kịch ngắn của ông là Cái bóng trên tường và Người đàn bà hóa đá đã nghĩ đến chủ đề định mệnh trong sân khấu thế giới. Tương tự Con nai đen, Hòn cuội là cuộc đấu tranh giữa cái Thiện và cái Ác, giữa sự thật và dối trá; vấn đề trong Giấc mơ là hành trang dành quyền tồn tại giữa Sự sống và Cái chết, là ước mơ sống 19 đẹp và sống thật vươn lên mọi nỗi đau, mọi sự thiệt thòi mà không cần đến sự khôn ngoan, toan tính… Đối với văn học, đạo diễn chỉ là người ăn theo, còn với kịch không có đạo diễn sẽ không có kịch. Nguyễn Đình Thi cho rằng “Người đạo diễn là người giải mã, biến ước mơ in trên trang giấy thành tác phẩm nghệ thuật”. Mặc dù Nguyễn Đình Thi viết kịch khá nhiều song mới chỉ có một vài vở được dàn dựng diễn trên sân khấu (Nguyễn Trãi ở Đông Quan và Rừng Trúc). Theo một số đạo diễn, đa số các vở kịch của Nguyễn Đình Thi trong khi giàu chất văn học đặc biệt chất hình tượng và chất triết lí của kịch cùng với chất chau chuốt của văn chương đối thoại nhưng lại có phần nghèo tính sân khấu, cụ thể có những vở kịch đọc thì hay mà diễn thì khó, khó không có nghĩa là không diễn được. Chính vì những yếu tố đó, mãi về sau này các vở kịch của Nguyễn Đình Thi mới được bàn tay tài ba của đạo diễn Nguyễn Đình Nghi dàn dựng thành công và ra mắt công chúng. Tuy còn nhiều tranh cãi nhưng cũng đủ để khẳng định tài năng nghệ thuật của Nguyễn Đình Thi về kịch. Kịch Nguyễn Đình Thi là những vấn đề ông nghĩ từ lâu, những vấn đề không chỉ của một thời, những vấn đề mang triết lí nhân văn sâu sắc. Lời thoại trong kịch của Nguyễn Đình Thi, ở nhiều vở mang vẻ đẹp cổ điển, đậm dấu ấn văn hóa, giàu chất thơ và thấm đẫm chất triết lí trí tuệ. Nó đòi hỏi một năng lực diễn xuất, một không khí và cả một trình độ thưởng thức cao…Ưu điểm này cũng đi liền với hạn chế tất yếu của các vở diễn, vì với đông đảo khán giả, không dễ để chỉ trong một giờ rưỡi đến hai giờ, có thể hiểu hết tư tưởng của vở kịch cũng như ý nghĩa của các lời thoại. Dù viết về đề tài lịch sử hay vay mượn những cốt truyện dân gian, hoặc nghiêng về mảng sống hiện đại, kịch Nguyễn Đình Thi luôn có sự mấp mé thực - ảo, và phần lớn là kịch tâm trạng. Thế mạnh của tác giả là hướng vào 20 thế giới nội tâm nhân vật với những màn độc thoại dài, nhưng cũng chính vì thế mà khó cho cả đạo diễn, diễn viên và cả người xem. Thêm nữa, việc dàn dựng kịch của Nguyễn Đình Thi đòi hỏi nhiều điều kiện khác. Như đã nói tác phẩm kịch chỉ sống trọn vẹn khi trình diễn trên sân khấu. Tuy nhiên, là một thể loại chính của văn học với đầy đủ các đặc trưng riêng trong cấu trúc hình tượng, trong phương thức biểu hiện, trong ngôn ngữ nghệ thuật, người ta vẫn thưởng thức tác phẩm kịch bằng cách đọc kịch bản văn học. Tiếp xúc với kịch bản văn học, độc giả có thể nghiền ngẫm, xúc cảm trước nghệ thuật ngôn từ, nghệ thuật xây dựng tính cách, nghệ thuật tổ chức xung đột, đồng thời lĩnh hội sâu sắc hơn những tư tưởng mà nhà văn gửi gắm, kí thác. Kịch của Nguyễn Đình Thi là kịch của một nhà văn, kịch của một thi sĩ…Nó là những tác phẩm văn học kịch hơn là kịch bản sân khấu. Nó thích hợp với việc đọc để nghiền ngẫm, nghiên cứu hơn là để dàn dựng thành vở diễn. Chọn hình thái kịch, nhà văn muốn phản ánh, muốn thể hiện những suy nghĩ về cuộc sống dưới dạng những xung đột, nhằm nổi bật hơn, sâu sắc hơn bản chất của hiện thực, của vấn đề. Lựa chọn 3 kiểu đề tài (đề tài lịch sử; dựa trên tích truyện cũ của văn học dân gian; đề tài hiện thực cuộc sống đương đại), trước hết không phải khẳng định không phải là “đặc sản” của Nguyễn Đình Thi. Ta có thể bắt gặp hiện tượng này trong sáng tác kịch, tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng với: Vũ Như Tô, Cột đồng Mã Viện, Đêm hội Long Trì, Những người ở lại, Bắc Sơn, Anh sơ đầu quân; trong những sáng tác kịch của lưu Quang Vũ với: Hồn Trương Ba da hàng thịt, Nàng Sita, Đam San, Ông vua hóa hổ, Linh hồn của đá, Đôi dòng sữa mẹ, Hẹn ngày ở lại, Muối mặn của đời con, Tôi và chúng ta, Người tốt số nhà 5, Bệnh sĩ, Lời thề thứ 9… Trong hành trình chinh phục những đỉnh cao của sáng tạo nghệ thuật, người nghệ sĩ có xu hướng lựa chọn những đề tài khác nhau, những điểm nhìn khác nhau và thể
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất