Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn phan thị vàng anh...

Tài liệu Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn phan thị vàng anh

.PDF
115
26
139

Mô tả:

BỘGIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 ĐÀO THỊ HƯỜNG THẾGIỚI NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN PHAN THỊVÀNG ANH LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC HÀ NỘI, 2011 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Truyện ngắn là thể loại xuất hiện và tồn tại từxa xưa dưới những hình thức tựsựkhác nhau. Với đặc thù là một thểloại nhỏgọn và cơ động, truyện ngắn bắt nhịp rất nhanh với những biến chuyển mạnh mẽvà phức tạp của đời sống (đặc biệt trong tâm tưởng, tình cảm con người và trong tâm lý xã hội). Trải qua bao biến cốthăng trầm của thểloại, với thếmạnh của một loại hình tựsự, truyện ngắn nhanh nhạy len lỏi vào mọi ngóc ngách của xã hội, phản chiếu cả bối cảnh cuộc sống trong từng mảnh ghép nhỏ. Ngày nay, truyện ngắn luôn được người đọc đón nhận một cách hào hứng và đã chiếm được vịtrí quan trọng trên văn đàn văn học nghệthuật. Truyện ngắn Việt Nam từ 1975 đến nay phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt từnăm 1985 trởlại đây, nhờvào công cuộc đổi mới và không khí dân chủcởi mở, truyện ngắn Việt Nam có được bước đột khởi. Hàng loạt những cuộc thi sáng tác, những tác phẩm đoạt giải cao, những cây bút nổi bật với sức trẻ, tài năng họ đã tạo nên một vườn hoa nhiều hương sắc với việc mởrộng biên độ, nội dung phản ánh, đổi mới cách viết và hình thức truyện. Trong rất nhiều cây bút viết truyện ngắn đương thời như: Nguyễn Huy Thiệp, Phạm ThịHoài, Nguyễn ThịThu Huệ, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Ngọc Tư, ĐỗHoàng Diệu, Võ ThịHảo, Y Ban, …Phan ThịVàng Anh là một trong những gương mặt tiêu biểu. Chị đã được nhận giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1994. Sựxuất hiện của Phan ThịVàng Anh đã gây tranh luận tương đối sôi nổi trong đời sống văn học. Ngay từnhững tác phẩm đầu tay, Vàng Anh đã trởthành hiện tượng văn học, tạo nhiều hứng thú cho bạn đọc cũng nhưgiới nghiên cứu phê bình. Dẫu còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu, 2 phê bình đều thống nhất công nhận Phan ThịVàng Anh là một tài năng trẻ, một chân dung sớm được định hình. Ởcon người Vàng Anh tồn tại nhiều mặt tính cách: Vàng Anh của thơ, của truyện, của kịch bản phim, biên tập sách, của tạp bút, tiểu phẩm… và gần đây nhất là Vàng Anh của phim tài liệu hiện đại. Nhưng trong gương mặt đa năng ấy, mặt nổi bật nhất chính là truyện ngắn. Tác phẩm của Vàng Anh được chú ý bởi “Vàng Anh là một cây bút truyện ngắn biến ảo, lúc thì nghiêm trang, lúc sắc ngọt, lúc đắm đuối…Văn Phan ThịVàng Anh là lối văn tung phá mang dấu ấn của kẻtrưởng thành không tránh khỏi sựbất thường” [63, tr6]. Vẻn vẹn chỉtrong 2 tập truyện ngắn “Khi người ta trẻ”(1993) và “Hội chợ”(1995), Vàng Anh đã tạo nên một phong cách truyện ngắn rất đặc trưng: ngắn gọn, súc tích, sắc sảo, thâm thúy, trí tuệ, đầy tinh thần đương đại và không lẫn vào đâu được. Nhà văn Nguyễn Khải từng khen Vàng Anh một câu rất ngắn gọn mà “nức tiếng”, so sánh và gọi chị là “Nguyễn Huy Thiệp mặc váy” bởi cách giống nhau cùng tạo một ấn tượng rực rỡkhi xuất hiện trên văn đàn. Dương Tường - một dịch giả, nhà thơ, nhà phê bình nổi tiếng cũng từng nhận xét: ở Vàng Anh “vẫn tiềm ẩn một sức mạnh nội tại”. Xuất phát từnhững lý do trên, chúng tôi lựa chọn đềtài nghiên cứu Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh. Thực hiện đềtài trên, chúng tôi mong muốn tiếp tục khẳng định vịtrí, tài năng của nhà văn trong tiến trình phát triển chung của văn học Việt Nam hiện đại. Đồng thời chúng tôi hy vọng sẽmang lại những đóng góp khoa học nhất định trong việc nhận diện một phương diện đổi mới, phong cách một nhà văn. Thành quả ấy có thểrất nhỏbé, song nó chính là nguồn động lực thôi thúc và cổvũchúng tôi say mê theo đuổi con đường mà mình đã lựa chọn. 3 2. Lịch sửvấn đề - Tình hình nghiên cứu truyện ngắn và các bài viết vềcác cây bút nữ trẻsau 1975. Với hướng nghiên cứu là truyện ngắn của Phan ThịVàng Anh – một cây bút nữthời kì đổi mới, chúng tôi xin bắt đầu bằng việc khảo sát tình hình nghiên cứu truyện ngắn và truyện ngắn các cây bút nữtrẻsau 1975, khi đời sống văn học có những chuyển động sâu sắc. Từsau bước ngoặt lịch sử1975, đời sống văn học đã có những biến chuyển mạnh mẽ. Cùng các thểloại khác, truyện ngắn đã có sựchuyển động và góp phần tạo nên diện mạo mới cho văn xuôi giai đoạn này. Khảo sát truyện ngắn thời kì đổi mới các nhà nghiên cứu đã tiếp cận với xu h ướng đổi mới cảvềnội dung và nghệthuật. Nhiều cuộc tranh luận xung quanh các vấn đềcủa truyện ngắn, các tác phẩm cụthể đã diễn ra tạo nên một đời sống văn học sôi động. Nhiều công trình nghiên cứu vềsựvận động của truyện ngắn sau 1975 đã giúp cho người đọc thấy được những bước đi của thểloại trong tiến trình văn học dân tộc. Ngoài các công trình nghiên cứu chuyên biệt, mang tính tổng quan vềthể loại truyện ngắn nhưluận án tiến sĩcủa Nguyễn ThịBình với đềtài Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975; luận án tiến sĩ của Lê Thị Hường với đềtài Những đặc điểm cơbản của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 – 1995; Bình luận truyện ngắn, Mấy nhận xét vềtruyện ngắn Việt Nam sau 1975của Bùi Việt Thắng … đã có rất nhiều bài viết đềcập đến nhiều vấn đềcủa truyện ngắn in trên các báo và tạp chí chuyên ngành. Các bài viết này ởnhiều góc độkhác nhau đã đềcập đến thành tựu của truyện ngắn, những đóng góp và thách thức của thểloại này trong đời sống văn học đương đại. 4 Trong tiến trình vân động của truyện ngắn dân tộc thếkỷXX, cùng với thời gian, các cây bút nữ đã dần chứng tỏtài năng và vịtrí của họtrên văn đàn. Đặc biệt, sựgóp mặt của các cây bút văn xuôi nữtrong những năm gần đây đã tạo nên những âm sắc mới cho đời sống văn học và đã được ghi nhận trong các bài viết của nhiều tác giả. Đểcó cái nhìn toàn diện vềsáng tác của các nhà văn nữ, đã có rất nhiều các bài viết đăng tải ý kiến của chính các nhà văn nữnhư: Lan man với Nguyễn ThịThu Huệ, Chúng tôi phỏng vấn bốn cây bút nữ, Gặp gỡ các nhà văn trẻ... Ởbài viết Chúng tôi phỏng vấn bốn cây bút nữ, các cây bút nữ Võ ThịHảo, Y Ban, Nguyễn ThịThu Huệ, HồThịHải Âu đã bộc lộnhững suy nghĩcủa mình vềnhững khó khăn và những thuận lợi đối với người phụnữkhi sáng tác văn học, giúp người đọc và các nhà nghiên cứu hình dung đầy đủhơn vềcuộc đời và sáng tác của các nhà văn nữ. Ngoài ra, còn rất nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu phê bình vềcác tác phẩm của các cây bút nữnhư: Nguyễn ThịNhưTrang, Bích Thu, Nguyễn ThịThành Thắng, Bùi Việt Thắng, Huỳnh NhưPhương…Bên cạnh những bài viết trên các báo và tạp chí, truyện ngắn nữ thời kỳ đổi mới cũng trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều luận văn tốt nghiệp đại học, luận văn thạc sỹ. Có thểnhận thấy, qua các bài viết và công trình nghiên cứu, từnhững góc độkhác nhau, các tác giả đã có sự nhìn nhận trên nhiều bình diện của truyện ngắn các cây bút nữ, đềcập đến những đặc điểm nổi bật trong sáng tác của họ. Các bài viết đã khẳng định sựtiếp nối về đội ngũcũng nhưcác đặc điểm của giới tính bộc lộqua cách nhìn hiện thực và con người đó là một hiện thực xã hội đang thay đổi nhanh chóng, quyết liệt và ảnh hưởng đến từng cuộc đời, ít nhiều làm vỡ những giấc mộng của con người với thái độ chung là chấp nhận như một chuyển động tất yếu của thời đại. 5 - Các bài viết vềtác giảPhan ThịVàng Anh và sáng tác của chị Sinh ra và lớn lên trong cái nôi văn học, bốlà nhà thơChếLan Viên, mẹ là nhà văn VũThịThường, Vàng Anh đã có những lợi thế đểphát huy niềm đam mê và khảnăng sáng tạo văn học của mình. Phan ThịVàng Anh đã được độc giả đặc biệt chú ý kểtừkhi chịtham gia cuộc thi truyện rất ngắn trên tạp chí Thế giới mới. Sựxuất hiện của chịtrên văn đàn làm cho người đọc có cảm nhận rõ hơn không khí đổi mới của văn xuôi đương đại. Đây là một nhà văn đã gieo vào lòng người đọc hy vọng vềmột tài năng xuất chúng của văn xuôi. Tác phẩm của Vàng Anh có nhiều lớp nghĩa và vì thếnên rất giàu sức gợi, là minh chứng khá rõ cho tính đa giọng điệu của văn học hiện đại. Từnhững thành công ban đầu, tác phẩm của Vàng Anh đã được chào đón nồng nhiệt và có nhiều ý kiến nhận xét, đánh giá cao. Những đóng góp của chị đã được ghi nhận nhưmột điểm nhấn của văn học đương đại. Nhận xét vềtài năng của Phan ThịVàng Anh, đáng chú ý là ý kiến của dịch giả Huỳnh Phan Anh trong tập Không gian và khoảnh khắc văn chương. Ông cho rằng: “Vàng Anh là một tài năng trẻ, một cây bút nhà nòi, một nhà văn đã sớm định hình ngay từtập truyện đầu tay, một giải thưởng quốc gia dành cho một nhà văn trẻv.v. và còn gì nữa? tất cả đều đúng, nhưng tôi không quên rằng vượt lên trên những thông tin đó, tác phẩm của Vàng Anh hay bất luận của ai khác dù bao người đã đọc tới và nói tới, vẫn còn và mãi mãi vẫn còn là một sự chờ đợi, một thách thức” [5,16]. Đánh giá vềhai tập truyện ngắn của Vàng Anh, Huỳnh Phan Anh khẳng định: “Hai tập truyện ra đời trong khoảng cách hai năm, mỏng manh nhưnhau, bao gồm những truyện thường ngắn, có khi rất ngắn, bấy nhiêu cho một thếhệ đang hình thành, sinh sôi nảy nở, một thếgiới không ngớt trởvềtrên những trang giấy đang kêu gọi, bổsung cho nhau, vẫn là nó nhưng 6 không đơn giản là nó, bởi nó luôn được vén mở, soi rọi thêm, nó luôn tìm kiếm những bến bờvà những chiều sâu mới” [5,18]. Ghi nhận tài năng văn chương của Vàng Anh, Tuyết Ngân đã viết: “Những năm đầu thập kỷ90, văn đàn “nổi sóng” và những truyện ngắn “Kịch câm”, “Đất đỏ”cho đến “Hoa muộn” của nhà văn trẻPhan ThịVàng Anh. Khi đó chịmới ngoài 20 tuổi. Những truyện ngắn của chị đã khiến các nhà văn lớp trước và độc giảphải bàng hoàng vềgiọng điệu cũng nhưý tưởng mới lạcủa nó” [46]. Tập truyện ngắn Khi người ta trẻ của Phan Thị Vàng Anh được tặng thưởng của Hội nhà văn và khi viết lời giới thiệu “Trong sân chơi của Vàng Anh” cho tập truyện này, Huỳnh NhưPhương đánh giá: “ sựxuất hiện của Vàng Anh đã đem đến cho một không khí mới cho đời sống văn học hồi bấy giờ”. Sức hấp dẫn mà truyện ngắn của Phan ThịVàng Anh có được là nhờ“Vàng Anh biết cách lạhóa những điều quen thuộc, biết làm cho da diết những điều tưởng chừng nhạt nhẽo”, “Văn chương của Vàng Anh là trò chơi nói bằng ngôn ngữcủa trò chơi” và “Trong thếgiới của Vàng Anh, những sựvật gần gũi nhất lại đưa tâm hồn con người đi xa nhất”. Lạ! Vì vậy sựxuất hiện của truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh gây sửng sốt cho người đọc, nhiều tờbáo từBắc vào Nam đua nhau in, bàn và bình như“dịch sốt”. Ghi nhận đóng góp của các nhà văn trẻ(trong đó có Phan ThịVàng Anh) trong tiến trình đổi mới văn học, Nguyễn ThịBình đã rất sắc sảo nhận ra: “Nhìn chung ưu thếvềtốc độ- ngôn ngữcũng nhưtrong sinh hoạt- thuộc vềlớp trẻ. Vàng Anh viết cứ“nhưchơi” mà lột tảthật chính xác cái nhịp điệu cuộc sống, nhịp điệu tâm lý của bao nhiêu hạng người, bao nhiêu lứa tuổi” [7,117]. Trong bài viết “Phan Thị Vàng Anh và Trần Thanh Hà hai phong cách truyện ngắn trẻ”, từchỗ đi sâu vào phân tích truyện ngắn Hoa muộn- tác phẩm 7 đưa Vàng Anh đến với giải thưởng của tạp chí Thếgiới mới, Tuyết Ngân lại một lần nữa khẳng định sựxuất hiện có ý nghĩa của Phan ThịVàng Anh trong đời sống văn học những năm gần đây: “Người ta hồhởi đón nhận truyện ngắn của Phan ThịVàng Anh và tác giảcũng đáp lại sựchờ đợi của mọi người bằng cách liên tục xuất bản những tập truyện ngắn”. Cảm nghiệm vềsựmỏng manh của một sốmối liên hệcon người trong đời sống hiện đại, vềnhững con người nhỏbé, lẻloi trước những tình cảm hời hợt, những đứt gãy của cuộc sống ởmột sốnhân vật trong sáng tác của Vàng Anh, Nguyễn Chí Hoan trong bài viết Bơvơtrong cái đời thường (Đọc truyện ngắn Phan ThịVàng Anh – Nguyễn Trọng Nghĩa) cho rằng: Phan ThịVàng Anh đã “cốgắng bóc đi những lớp vỏsựkiện đời sống đểtrực quan các mối quan hệgiản đơn và vô hình giữa con người” [30]. Cho đến nay đã có nhiều ý kiến đánh giá cao và khẳng định tài năng cũng nhưnhững đóng góp của Phan ThịVàng Anh trong sựphát triển của văn học nước nhà. Ngay sau khi những tác phẩm đầu tay đến với bạn đọc, Phan ThịVàng Anh đã gây được sựchú ý của độc giảvà các nhà nghiên cứu phê bình. Vàng Anh trởthành một trong sốnhững cây bút trẻmà khi nói đến sự đổi mới văn học, sựvận động của thểloại truyện ngắn, các nhà nghiên cứu, phê bình không quên nhắc đến tác phẩm của chị. Kếthừa những người đi trước, luận văn chúng tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu một sốphương diện nghệthuật cơbản trong sáng tác của Phan ThịVàng Anh. Chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đềtài này với mong muốn bằng sựkhảo sát của mình góp thêm một góc nhìn đểthấy được sự đóng góp vềphương diện thể loại của cây bút trẻnày. Những ý kiến, nhận xét, đánh giá từnhững cây bút có uy tín trên đây đã gợi mởcho chúng tôi đi vào con đường nghiên cứu đềtài và cho thấy sựlựa chọn đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là có cơsở. 8 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đềtài là tìm hiểu những đặc điểm nổi bật vềthế giới nghệthuật trong những truyện ngắn của Phan ThịVàng Anh. Từ đó thấy được những đóng góp trong tưduy nghệthuật của chị ởlĩnh vực truyện ngắn trong văn xuôi đương đại Việt Nam . 4. Nhiệm vụnghiên cứu Dựa trên cơsởlý thuyết thi pháp học vềThếgiới nghệthuật, luận văn của chúng tôi sẽnghiên cứu một cách có hệthống những đặc sắc vềnghệthuật trong truyện ngắn của Phan ThịVàng Anh . 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Thếgiới nghệthuật trong truyện ngắn của Phan ThịVàng Anh - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung khảo sát hai tập truyện ngắn: + Khi ngườ i ta tr ẻ : Tậ p truy ệ n ngắ n g ồm 19 truyệ n ngắ n – Nxb H ộ i nhà v ă n 1993. +Hội chợ:Tập truyện ngắn gồm 17 truyện ngắn – Nxb Trẻ1995. 6. Phương pháp nghiên cứu Trong luận văn, chúng tôi sửdụng (riêng lẻhoặc kết hợp) một sốphương pháp nghiên cứu văn học chính như: - Phương pháp thống kê - phân loại: Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tiến hành khảo sát toàn bộcác truyện ngắn trong phạm vi đềtài. Từ đó đi đến thông kê phân loại theo đối tượng, nghệ thuật trình bày các đối tượng cơbản trong thếgiới nghệthuật của Phan ThịVàng Anh. - Phương pháp phân tích đối tượng theo quan điểm hệthống: Mỗi sáng tác nghệthuật là một chỉnh thểtoàn vẹn và chịu sựchỉ đạo của tưtưởng một cách thống nhất trong cái đa dạng. Trong hệthống thì mối quan hệgiữa toàn thểvà bộ 9 phận, giữa cái chung và riêng là quan trọng nhất. Thông qua việc phân tích đối tượng theo quan điểm hệthống hóa, chúng tôi muốn tìm hiểu từng phương diện của tác phẩm từ đó làm rõ những đặc điểm nổi bật trong thếgiới nghệthuật của Phan ThịVàng Anh. - Phương pháp so sánh - đối chiếu: Chúng tôi sửdụng phương pháp này nhằm làm rõ nét đặc trưng trong cách trình bày các đặc điểm trong sáng tác của Phan ThịVàng Anh. Khi nghiên cứu các sáng tác của Phan ThịVàng Anh không thểkhông đặt các sáng tác của nhà văn trong mối tương quan với các nhà văn trước và các nhà văn cùng thời đểthấy được xu hướng vận động chung của văn học và cái nhìn bao quát tiến trình văn học. 7. Đóng góp mới của luận văn Khẳng định những đặc sắc vềnghệthuật trong truyện ngắn của Phan Thị Vàng Anh (trên cơsở đối sánh với một sốnhà văn cùng thời). Từ đó thấy được những đóng góp và vịtrí của nhà văn đối với nền văn học Việt Nam đương đại. 8. Bốcục của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính gồm 3 chương: Chương 1. Thếgiới nhân vật trong truyện ngắn của Phan ThịVàng Anh Chương 2. Thời gian, không gian nghệthuật trong truyện ngắn của Phan ThịVàng Anh Chương 3. Ngôn ngữ, gi ọng đi ệu nghệ thu ật trong truyệ n ngắn của Phan Thị Vàng Anh 10 NỘI DUNG CHƯƠNG I. THẾGIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN PHAN THỊVÀNG ANH 1.1. Khái niệm vềnhân vật và thếgiới nhân vật 1.1.1. Khái niệm vềnhân vật *Vềphương diện thuật ngữ Thuật ngữ“nhân vật” xuất hiện từrất sớm. Trong tiếng Hy Lạp cổ, “nhân vật” (đọc là persona) lúc đầu mang ý nghĩa chỉcái mặt nạcủa diễn viên trên sân khấu. Theo thời gian, thuật ngữ này đã được sử dụng với tần số nhiều nhất, thường xuyên nhất đểchỉ đối tượng mà văn học miêu tảvà thểhiện. Đôi khi nhân vật văn học còn được gọi bằng các thuật ngữkhác như: “vai” (actor) và “tính cách” (character). Tuy nhiên, các thuật ngữnày, theo chúng tôi, có nội hàm hẹp hơn so với “nhân vật”. Thuật ngữ“vai” chủyếu nhấn mạnh đến tính chất hành động của cá nhân, thích hợp với loại nhân vật hành động. Còn thuật ngữ“tính cách” lại thiên vềchỉ những nhân vật có tính cách. Trong thực tếsáng tác, không phải nhân vật nào cũng hành động, đặc biệt là những nhân vật thiên về“suy tư”, và cũng không phải nhân vật nào cũng có tính cách rõ rệt. Từ đó có thểthấy các thuật ngữ“vai”, “tính cách” không bao quát dược hết những biểu hiện khác nhau của các loại nhân vật trong sáng tác văn học. “Nhân vật” là thuật ngữ có nội hàm phong phú, đủ khả năng khái quát những hiện tượng phổbiến của tác phẩm văn học ởmọi bình diện và mọi cấp độ. Nhưvậy, thuật ngữ“nhân vật” là đúng đắn và đầy đủnhất. *Khái niệm nhân vật văn học Từ điển văn học định nghĩa: “Nhân vật là yếu tố cơ bản nhất trong tác phẩm văn học, tiêu điểm đểbộc lộchủ đề, tưtưởng chủ đềvà đến lượt mình nó 11 lại được các yếu tốcó tính chất hình thức của tác phẩm tập trung khắc họa. Nhân vật, do đó, là nơi tập trung giá trịtưtưởng - nghệthuật của tác phẩm văn học” [59, tr.86] Với định nghĩa này, các nhà biên soạn từ điển đã nhìn nhận nhân vật từ khía cạnh vai trò, chức năng của nó đối với tác phẩm và từmối quan hệcủa nó với các yếu tốhình thức tác phẩm. Có thểnói đây là một định nghĩa tương đối toàn diện vềnhân vật văn học. Trong cuốn 150 thuật ngữvăn học, Lại nguyên Ân đã đềxuất một cách nhìn khác. Theo ông: “Nhân vật văn học là một trong những khái niệm trung tâm đểxem xét sáng tác của một nhà văn, một khuynh hướng, trường phái hoặc dòng phong cách. Nhân vật văn học là hình tượng nghệthuật vềcon người, một trong những dấu hiệu vềsựtồn tại toàn vẹn của con người trong nghệthuật ngôn từ. Bên cạnh con người, nhân vật văn học có khi còn là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gán cho những đặc điểm giống con người”[6, tr.241]. Nhưvậy, với quan niệm này, nhân vật văn học sẽlà một trong những yếu tốtạo nên phong cách nhà văn và màu sắc riêng của một trường phái văn học. Nhà nghiên cứu còn quan tâm chỉ ra những đối tượng tiềm tàng khả năng trở thành nhân vật văn học. Các tác giảcủa cuốn Từ điển thuật ngữvăn họclại đưa ra quan niệm về nhân vật có phần thu hẹp hơn: “Nhân vật văn học là con người cụthể được miêu tảtrong tác phẩm văn học... chỉmột hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm” [64, tr.235]. Ngoài ra, dựa trên tiêu chí chức năng phản ánh hiện thực của tác phẩm văn học, lại có quan niệm cho rằng, nhân vật là phương tiện đểnhà văn tái hiện đời sống, mởrộng thếgiới nghệthuật cho tác phẩm: “Nói đến nhân vật văn học là 12 nói đến con người được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm văn chương bằng phương tiện văn học” [38, tr. 277]. Bên cạnh đó, có xu hướng lại nghiên cứu nhân vật với t ưcách là đối t ượng để nhà v ăn khái quát, phân tích đời sống, tái hiện bằng các phương tiện đặc trưng của văn chương . Từ đó, đưa đến định nghĩa: “Nhân vật là khái niệm dùng đểchỉ hiện tượng các cá thểcon người trong tác phẩm văn học - cái đã được nhà văn nhận thức và tái tạo, thể hi ện bằng các phương tiện riêng của nghệthuật ngôn từ” [85]. Nhưvậy, nhìn một cách tổng quát, nhân vật là một khái niệm tương đối ổn định trong nghiên cứu phê bình văn học. Trước nay dù đã có khá nhiều cách định nghĩa vềnhân vật, song tựu trung lại các ý kiến đều gặp nhau trong sựkhẳng định: nhân vật văn học là thành tốquan trọng trong tác phẩm, là phương tiện để nhà văn phản ánh đời sống và được nhà văn xây dựng bằng những yếu tốnghệ thuật độc đáo. Nghiên cứu vềtác phẩm văn chương cần phải tiếp cận nhân vật để chỉra cái mới trong ngòi bút nhà văn và đưa ra kết luận vềnhững đóng góp riêng của nhà văn đó. 1.1.2. Khái niệm vềthếgiới nhân vật “Thếgiới” là một khái niệm thuộc phạm trù triết học. Theo Từ điển triết học, “ Thếgiới” có thểhiểu: Theo nghĩa rộng, thếgiới là toàn bộhiện thực khách quan (tất cảnhững tồn tại ởbên ngoài và độc lập với ý thức con người). “Thếgiới” là nguồn gốc của nhận thức [66, tr.1083]. Theo nghĩa hẹp, thếgiới dùng đểchỉ đối tượng của vũtrụhọc, nghĩa là toàn bộthếgiới vật chất do thiên văn học nghiên cứu. Người ta đã chia bộphận thếgiới vật chất đó thành hai lĩnh vực nhưng không có ranh giới tuyệt đối: Thế giới vĩmô và thếgiới vi mô [66, tr.1083]. 13 Nhưthếcó thểkhẳng định: “thếgiới” là một phạm vi rất rộng, một vũtrụ rộng lớn tồn tại xung quanh con người và độc lập bên ngoài ý thức con người. Vậy “Thế giới nhân vật” là gì? Khái niệm “Thế giới nhân vật” là một phạm trù rất rộng. “Thếgiới nhân vật” là một tổng thểnhững hệthống nhân vật được xây dựng theo quan niệm của nhà văn và chịu sựchi phối của tưtưởng tác giả. Thếgiới ấy cũng mang tính chỉnh thểtrong sáng tác nghệthuật của nhà văn, có tổchức và sựsống riêng, phụthuộc vào ý thức sáng tạo của nghệsĩ. Nằm trong thếgiới nghệthuật, “Thếgiới nhân vật” cũng là sản phẩm tinh thần, là kết quảcủa trí tưởng tượng sáng tạo của nhà văn và chỉxuất hiện trong tác phẩm văn học, trong sáng tác nghệthuật. Đó là một mô hình nghệthuật, có cấu trúc riêng, có qui luật riêng, thểhiện ở đặc điểm con người, tâm lý, thời gian, không gian, xã hội… gắn liền với một quan niệm nhất định của chúng vềtác giả. “Thếgiới nhân vật” là cảm nhận một cách trọn vẹn, toàn diện và sâu sắc của chủthểsáng tạo vềtoàn bộnhân vật xuất hiện trong tác phẩm, mối quan hệ, môi trường hoạt động của họ, ý nghĩa, tư tưởng, tình cảm của họ trong cách đối nhân xử thế, trong giao lưu xã hội, với gia đình… “ Thếgiới nhân vật” vì thếbao quát sâu rộng hơn hình tượng nhân vật. Con người trong văn học chẳng những không giống với con người trong thực tại vềtâm lý, hoạt động mà còn có ý nghĩa khái quát, tượng trưng. Trong “Thếgiới nhân vật”, người ta có thểphân chia thành các kiểu loại nhân vật nhỏhơn (nhóm nhân vật) dựa vào những tiêu chí nhất định. Nhiệm vụ của người tiếp nhận văn học là phải tìm ra chìa khóa đểbước qua cánh cửa và bước vào khám phá thếgiới nhân vật đó. Do đó, nghiên cứu “Thếgiới nhân vật” cũng khác với phân tích hình tượng nhân vật. Trong lịch sửvăn học, có thểnói, mỗi tác giảlớn đều có “Thếgiới nhân vật” riêng. Mỗi thểloại văn học cũng có “Thếgiới nhân vật” với qui luật riêng của nó. 14 1.2. Thếgiới nhân vật trong truyện ngắn của Phan ThịVàng Anh Ởmỗi trào lưu, mỗi giai đoạn, do sựchi phối của nhiều yếu tố, thếgiới nhân vật trong các sáng tác lại mang tính đặc thù thểhiện những quan niệm khác nhau vềcuộc đời và con người. Nhân vật trong văn học trước 1975 là hiện thân của con người mới trong lao động chiến đấu, là đại diện cho lý tưởng cao cảvà thường là kiểu nhân vật đơn nhất. Sau 1975, quan niệm con người cá nhân, cá thểqua lăng kính của các nhà văn đã được cụthểhoá bằng thếgiới nhân vật đa đạng. Với hướng tiếp cận cuộc sống đa chiều, tác giả đã tái hiện bức tranh của cuộc sống với nhiều dáng vẻ. Đọc những tác phẩm của Vàng Anh ta thấy truyện của chịvừa trẻtrung vừa chững chạc và luôn đượm nét nhân bản, rất giàu tình người, có khi là sự đau đớn, xót xa cho sốphận cay đắng của những con người quắt quay giữa cuộc đời nghiệt ngã. Đó là những câu chuyện tưởng chừng như đơn giản nhưng cực kỳxuất sắc khi nó chứa ẩn nhiều điều sâu sắc. Đối tượng của nhà văn quan tâm là đời sống của lớp trẻtrong xã hội đương đại với những quan niệm vềtình yêu, nhân cách và lẽ đời. Khảo sát truyện ngắn của Phan Thị Vàng Anh căn cứvào tính lặp đi lặp lại của các mô hình nhân vật, căn cứvào cấp độquan niệm nghệthuật vềcon người có thểnhận thấy thếgiới nhân vật được khu biệt thành hai loại hình nhân vật cơbản là: nhân vật tính cáchvà nhân vật bi kịch. 1.2.1. Nhân vật tính cách Nhân vật tính cách là một kiểu nhân vật ph ức tạp. Tính cách là đối t ượng chủ yếu của nhận thức văn học nhưng không phải mọi nhân vật văn học đều phản ánh được cấu trúc của tính cách. Do đó hạt nhân của nhân vật tính cách là cá tính. Trong tác phẩm văn học thì nhân vật tính cách được miêu tảnhưlà một nhân cách, một cá nhân có cá tính nổi bật. Tính cách bộc lộtrong các khảnăng lựa chọn và thích ứng với hoàn cảnh. Khắc họa tính 15 cách là một trong các đặc điểm nghệthuật được tác giảsửdụng đối với loại hình nhân vật này. Trong văn học trung đại thì tính cách nhân vật là một phạm trù ít được đề cập tới. Trong bài viết Sự thể hiện con người trong văn chương thời cổ, nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn cho rằng: với “mảng sáng tác trong đó con người được thểhiện ởcấp độnhân vật văn học chúng ta có thểbắt gặp các nhân vật với chân dung ngoại hình có ngôn ngữ, tính cách, sốphận riêng”. Tuy nhiên “trong mảng sáng tác này, con người đều có tính tạo hình ở chừng mực nào đó” [62,tr84]. Văn xuôi giai đoạn 1945-1975 với nhiệm vụphục vụkháng chiến đã lấy công- nông- binh làm nhân vật trung tâm để phản ánh. Nhân vật thường mang tính chung và có một mô hình khá giống nhau, đã được biết trước dù mỗi nhân vật đều có tên tuổi và cá tính. Sau 1975, với sựthay đổi mối quan hệgiữa nhân vật - tác giảvà bạn đọc, với sựcổvũcủa ý thức cá nhân đã dẫn đến sựthay đổi trong cấu trúc nhân cách của nhân vật, cá tính nhân vật được khắc họa rõ nét. Trong các sáng tác của Nguyễn ThịThu Huệchúng ta thường thấy sự xuất hiện của các nhân vật có cá tính ngang tàn, mạnh mẽ, liều lĩnh, cuồng nhiệt nhưMy (Thiếu phụchưa chồng), Lụa (Bảy ngày trong đời), Lan (Một nửa cuộc đời), Hoài (Xin hãy tin em)…Trong các sáng tác của Phan ThịVàng Anh, từnhững chứng nghiệm của bản thân, tác giảlại thường xây dựng những nhân vật với một trong những nét tâm lý nổi bật của lớp trẻhôm nay là thích cái “lạ”. Chịthường có xu hướng đi sâu vào đặc điểm tính cách thích thay đổi, thích tìm tòi khám phá người khác, môi trường khác của lứa tuổi mới lớn. “Tôi thích mọi thứkhông phải nhà mình, ăn cơm nhà khác, ngủ ởnhà khác, trèo lên một cây ổi nhà khác vặt quả…đều thích hơn làm tại nhà mình, thích hơn, bởi vì nó lạvà tôi chỉcần lạ” [1;69]. Và, tình yêu là một thứtình cảm lạ đối với những người trẻtuổi, của lớp thanh niên mới lớn. Vì vậy họsẵn sàng 16 “gặm nhấm” tình yêu trong “Mười ngày” nghỉ Tết một cách vô nghĩa mà quên hết mọi thú vui hiện hữu xung quanh. Sắc thái thấy rõ nhất của cuộc sống được miêu tảtrong các tác phẩm của Phan ThịVàng Anh là sựtẻnhạt. Cuộc đời nói chung giống nhưmột “trò ấm ớ” (Khi người ta trẻ). Nó vốn nhàm chán như một buổi lễ cúng đình nham nhở (Hoài cổ), một cuộc picnic ngớngẩn không đâu vào đâu (Cuộc du ngoạn ngắn ngủi) với những miền đất “mới đến mà đẫ thấy buồn” (Đất đỏ)…Đối với họ, dường nhưcuộc sống lúc nào cũng toát ra mùi vị đơn điệu, buồn chán với toàn những cái nhạt nhẽo, “vớ va vớ vẩn”. Các nhân vật của Vàng Anh hầu như không chấp nhận cuộc sống tẻnhạt. Họluôn đi tìm những điều mới lạvà hấp dẫn, đi tìm những cung bậc mới của cảm xúc đểlạhóa những điều quen thuộc. Ở họluôn có thái độchán ghét những trạng thái cảm xúc lửng lơ, không mầu sắc, không cao trào, một cuộc sống nhàm chán, tẻ nhạt, đơn điệu. Nhân vật “tôi” trong Nhật kí cảm nhận sựvô nghĩa của cuộc sống tẻnhạt, ít thay đổi và thụ động: “Một cuộc sống lặng lờ như m ột vở kịch không cao trào” và coi đó là khoảng thời gian đang chết “có nhiều người đang chết nhưtôi”, “chúng tôi ngày ngày vào quán cà phê, thờ ơuống những thứnước ở đâu pha cũng giống nhau, làm những chuyện không đi quá xa tường trường và ra vềtrong cảm giác mệt mệt”. Cũng có khi họtưởng chừng nhưkhông chịu nổi trước thực trạng bức bối đang phải trải qua và khao khát một cuộc sống khác với thực tại: “Tôi muốn thét một tiếng thật to. May ra có cái gì đó sẽvỡ, sẽnổvà biết đâu sẽvui hơn” (Hồng ngủ). Đó là nguyên nhân dẫn đến một trạng thái tâm lí thích cái mới, cái lạ. Nhân vật của Vàng Anh thích cái mới, cái lạchính là một sựphản ứng trước cuộc sống và đằng sau những phản ứng đó là khát vọng sống thật đáng trân trọng của lớp trẻhôm nay. 17 Trong thếgiới nhân vật của Phan ThịVàng Anh xuất hiện một kiểu nhân vật thuộc vềcái tôi mới lớn với tâm hồn và thểxác bất ổn, luôn dao động, luôn muốn quậy phá với những trò tinh quái (Con trộm). Họluôn trăn trỏvới lẽ đời, với thực tại, quá khứ và tương lai (Đi thăm cha), hay với cái tôi muốn phục thiện, muốn cuộc sống của mình có ý nghĩa hơn trước cuộc đời (Phục thiện). Nhân vật mang những nét tính cách lưỡng diện là mảnh ghép của hai nửa con người “nửa hướng thiện và nửa hướng ác”. Dạng tính cách vừa trẻ con v ừa người lớn thường có trong các nhân vật trong truyện ngắn của Phan Thị Vàng Anh. Trong Hội ch ợ, Vàng Anh để cho nhân vật của mình xuất hiện cùng với một thứtình cảm tưởng nhưbồng bột của một cô gái (Thảo) với một chàng trai (Bá) của đoàn lô tô trong một dịp vềlàng. Bá cùng đoàn của mình đi nay đây mai đó và đến đâu anh cũng có những mối tình tương tự. Ban đầu tác giả đểcho người đọc có cảm nhận đây là một mối tình trẻcon và thoảng qua. Đến cuối tác phẩm, Thảo lại hiện ra với vẻ tr ưởng thành, chín chắn với những suy nghĩ c ổ điển khi nghĩ l ại mối tình bơvơcủa mình. “Và Thảo mởnhững cái thưcũra xem, vẫn thấy ngọt ngào, vẫn thấy vui, chỉ th ấy rằng, hóa ra, mình đang hồn nhiên thực hiện cái thiên chức của phụnữlà: chờ đợi!”. Với những kiểu tính cách khác nhau trong thếgiới nhân vật sống động ấy, Vàng Anh đã làm cho nhân vật trong sáng tác của mình gần hơn với cuộc đời thực. Mang dáng dấp của con người đời thường, con người thường được thểhiện trong tính hai mặt của nó với những trạng thái tâm lí không đồng nhất. Thông qua việc khắc họa tính cách- sốphận nhân vật, các truyện ngắn của Phan Thị Vàng Anh đã mở rộng bình diện khám phá con người. Với thếgiới nhân vật sống động vềmặt cá tính, tác giả đã gián tiếp bộlộquan niệm vềcon người cá nhân, cá thểtrong tính đa dạng và phức tạp của nó. Trong các trang viết 18 của Vàng Anh, mỗi con người là một cuộc đời, mỗi nhân vật mang một sốphận riêng và sau từng trang viết đều thểhiện được năng lực sáng tạo nghệthuật và khảnăng biểu đạt hiện thực đời sống qua hình tượng nhân vật. Không ít nhân vật của Vàng Anh đã đểlại trong lòng người đọc những ấn tượng rõ nét và sâu sắc. 1.2.2. Nhân vật bi kịch Trong cuốn Từ điển tiếng Việtcó lý giải: “Bi kịch có nội dung phản ánh cuộc xung đột gay gắt giữa nhân vật chính diện với hiện thực, có kết cục bi thảm” [67, tr.82]. Arixtot trong Nghệthuật thi ca, khi bàn vềbi kịch và hài kịch cũng đưa ra so sánh và cho rằng: Bi kịch khác với hài kịch và nó có một kết thúc không vui. Nhân vật bi kịch là con người ởtrên mức bình thường về địa vịvà tính cách, phải chịu một sựthay đổi vận mệnh. Họlà những con người dám đấu tranh chống lại vận mệnh, định mệnh và họchấp nhận nó. Họtìm thấy ý nghĩa trong sựkhốn khổcủa mình. Khi bi kịch được nâng lên trên mức điển hình nó trởthành nghệthuật. Nhân vật văn học mang bi kịch là sự đại diện cho một tư tưởng của nhà văn trước xã hội, nó phải tiêu biểu đặc trưng cho một lớp người. Lúc này nhân vật bi kịch mới có một chỗ đứng, vịtrí trong lòng độc giả. Khảo sát các tác phẩm văn học giai đoạn trước 1975, chúng tôi nhận thấy hiện thực được nhìn nhận bằng cái nhìn lý tưởng hóa nên được trình bày nhưmột tiến trình hợp lý tuyệt đối. Sau 1975, xu hướng dân chủhóa xuât hiện định vịlại giá trịcá nhân. Với sựthức tỉnh của ý thức cá nhân, sựnảy sinh của nhu cầu tựý thức trước những thay đổi của đời sống xã hội, sự đổi mới quan niệm nghệthuật vềcon người của nhà văn; hiện thực trong văn chương trởthành hiện thực của những trải nghiệm riêng, nó mang tính phức tạp da dạng. Trước hiện thực xã hội, trước tình thế đáng buồn của cuộc sống người có ý thức sẽdễbịrơi vào trong những bi kịch. Các sáng tác của Phan ThịVàng Anh cho thấy cái nhìn phi lý tưởng vềhiện thực. Hiện thực không còn tính hợp lý tuyệt đối, mất cảm giác ổn 19 định, đáng hoài nghi. Với nhãn quan tỉnh táo và sựnhạy cảm tinh tế, chị đã biểu đạt thật thuyết phục một hiện thực ngổn ngang nhiều bất cập của xã hội ởgiai đoạn giao thời. Đó là hiện thực mà ở đó mọi giá trịbị đảo lộn, thiếu vắng một niềm tin đủsức làm điểm tựa cho con người, con người bịrơi vào trạng thái tâm lý cô đơn với những nỗi bất hạnh. Xây dựng nhân vật bi kịch, tác giả đã quan tâm đến một thực trạng mà không ít người gặp phải trong xã hội hiện đại. Họlà những nhân vật phải “nếm trải” trong bi kịch tình yêu, bi kịch gia đình, bi kịch trong xã hội cộng đồng. 1.2.2.1. Nhân vật bi kịch trong tình yêu Tình yêu là một chủ đềlớn của các sáng tác văn học. Người đọc đã phải cảm động trước những trang văn thấm đầy nước mắt của tình yêu trong các sáng tác văn học lãng mạn với: Lan và Điệp, Hồn bướm mơtiên, Nửa chừng xuân… hay những vần thơ tình lay động nhân gian của Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Xuân Diệu… Cảthời kỳkháng chiến chống Mỹcứu nước, tình yêu cũng không tắt mà tỏa sáng, hòa quyện cùng tình yêu đất nước nhưcác sáng tác của Phạm Tiến Duật, Phan ThịThanh Nhàn…Và, tình yêu cũng là chủ đềlớn của văn học hôm nay, chỉcó điều tình yêu đã được các nhà văn tiếp cận, phản ánh bằng cái nhìn đương đại. Tình yêu ởmỗi thếhệ, mỗi thời có những màu sắc và đặc trưng
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất