Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thành ngữ tiếng anh và thành ngữ tiếng việt có yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người d...

Tài liệu Thành ngữ tiếng anh và thành ngữ tiếng việt có yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận

.PDF
219
5
92

Mô tả:

Mục lục DẪN NHẬP ............................................................................................................................. 1  Lí do chọn đề tài ................................................................................................................. 1  Lịch sử vấn đề..................................................................................................................... 2  Mục tiêu nghiên cứu .......................................................................................................... 5  Câu hỏi nghiên cứu ............................................................................................................ 6  Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu ........................................................................ 6  Phương pháp nghiên cứu .................................................................................................. 7  Ý nghĩa khoa học của nội dung nghiên cứu..................................................................... 8  Về mặt lí luận .................................................................................................................. 8  Về mặt thực tiễn .............................................................................................................. 9  Bố cục của luận án ...........................................................................................................10  CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN .....................................................................12  1.1. Thành ngữ, nhận diện và phân loại.........................................................................12  1.2. Quan điểm ngôn ngữ học tri nhận về thành ngữ ...................................................14  1.3. Các quá trình tri nhận cơ bản trong bộ não người ...............................................18  1.4. Hoạt động tổ chức và phân loại tri thức trong bộ não người ...............................20  1.4.1. Hoạt động ý niệm hóa ........................................................................................20  1.4.2. Dữ liệu cảm nhận vận động và các cấu trúc tiền ý Diệm .................................21  1.4.3. Mô hình tri nhận lí tưởng hóa ..........................................................................23  1.5. Miền ý niệm ...............................................................................................................25  1.6. Vai trò của miền ý niệm trong ẩn dụ và hoán dụ ý niệm ......................................28  CHƯƠNG 2: ẨN DỤ Ý NIỆM VÀ HOÁN DỤ Ý NIỆM .................................................34  2.1. Cấu trúc ẩn dụ ý niệm ..............................................................................................34  2.1.1. Ẩn dụ ý niệm cấu trúc ........................................................................................39  2.1.2. Ẩn dụ ý niệm định hướng ..................................................................................40  2.1.3. Ẩn dụ ý niệm bản thể ..........................................................................................41  2.1.4. Ẩn dụ ý niệm ống dẫn.........................................................................................43  2.2. Cấu trúc hoán dụ ý niệm ..........................................................................................44  2.2.1. Hoán dụ ý niệm tuyến tính .................................................................................44  2.2.2. Hoán dụ ý niệm tiếp hợp ....................................................................................45  2.2.3. Hoán dụ ý niệm bao gộp.....................................................................................47  2.3. Ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm: hai chiến lược tri nhận khác nhau .................50  2.3.1. Ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm trên cấu trúc hai trục của ngôn ngữ ...........50  3 2.3.2. Quan hệ tương đồng và quan hệ tương cận .....................................................51  2.3.3 Hiện tượng chiếu xạ miền ý niệm và làm nổi miền ý niệm .............................54  2.4. Thành ngữ chứa yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người từ góc nhìn ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm .................................................................................................................57  2.4.1. Tính tổ hợp qua lăng kính tri nhận ...................................................................58  2.4.2. Vai trò của ẩn dụ ý niệm ....................................................................................59  2.4.3. Vai trò của hoán dụ ý niệm ................................................................................63  CHƯƠNG 3: ẨN DỤ Ý NIỆM TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT CÓ YẾU TỐ CHỈ BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI...............................................................65  3.1. Bộ phận cơ thể người được xem là vật chứa đựng ................................................65  3.1.1. Yếu tố ĐẦU .........................................................................................................65  3.1.2. Yếu tố MẮT .........................................................................................................67  3.1.3. Yếu tố TRÁI TIM ................................................................................................69  3.2. Bộ phận cơ thể người với quyền lực và sự kính trọng...........................................70  3.2.1. Nắm cái gì đó trông tay là có quyền kiểm soát ..................................................70  3.2.2. Khuôn mặt là danh dự của con người ...............................................................72  3.2.3. Giương mũi lên là thể hiện niềm tự hào ...........................................................75  3.3. Bộ phận cơ thể người và tính cách con người ........................................................76  3.3.1. Đôi tay sach hay bẩn là biểu hiện của tính cách ..............................................76  3.3.2.Tính cách là chất liệu ..........................................................................................77  3.3.3. Tính cách là hình dạng đôi mắt .........................................................................79  3.4. Các loại ẩn dụ ý niệm khác ......................................................................................80  3.4.1. Các loại ẩn dụ ý niệm về yếu tố đầu ..................................................................80  3.4.2. Thị giác cũng là xúc giác ...................................................................................81  3.4.3. Thị giác là nguồn gốc của nhận thức................................................................83  3.4.4. Các loại ẩn dụ ý niệm về yếu tố mặt ..................................................................85  3.4.5. Bắt tay nhau biểu hiện cho sự hợp tác ..............................................................86  CHƯƠNG 4: HOÁN DỤ Ý NIỆM TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT CÓ YẾU TỐ CHỈ BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI ....................................................88  4.1. Bộ phận cơ thể biểu trưng cho con người và đặc điểm tính cách ........................88  4. 1.1. Hoán dụ ý niệm về cái đầu ................................................................................88  4. 1. 2. Hoán dụ ý niệm về đôi mắt...............................................................................90  4. 1 .3. Hoán dụ ý niệm về khuôn mặt .........................................................................92  4.1.4. Hoán dụ ý niệm về cái mũi .................................................................................94  4.1.5. Hoán dụ ý niệm về đôi tay ..................................................................................95  4 4.2. Bộ phận cơ thể người biểu trưng cho kỹ năng .......................................................98  4.2.1. Mắt biểu trưng cho kĩ năng ...............................................................................98  4.2.2. Cái mũi biểu trưng cho kĩ năng .........................................................................99  4.2.3. Bàn tay biểu trưng cho kĩ năng .......................................................................100  4.2.4. Tai biểu trưng cho kĩ năng...............................................................................103  4.3. Bộ phận cơ thể người biểu trưng cho sự nhận thức ............................................103  4.3.1. Mắt biểu trung cho sự nhận thức ....................................................................103  4.3.2. Cái mũi biểu trưng cho sự tò mọc, tọc mạch ..................................................106  4.3.3. Đôi tai biểu trưng cho sự nhận thức ...............................................................107  4.4. Bộ phận cơ thể người biểu trưng cho tâm trạng, tình cảm.................................109  4.4.1. Cái đầu biểu trưng cho tình cảm, thái độ........................................................109  4.4.2. Khuôn mặt biểu trưng cho tâm trạng con người ............................................110  4.4.3. Mắt biểu trưng cho tình cảm ...........................................................................112  4.5. Các loại hoán dụ ý niệm khác ................................................................................116  4.5.1. Cái đầu biểu trưng cho sự thông minh ...........................................................116  4.5.2 Cái đầu biểu trưng cho sự sống ........................................................................119  4.5.3. Cái đầu biểu trưng cho trật tự trên dưới .........................................................121  4.5.4. Tay biểu trưng cho hoạt độngcủa con người ..................................................122  CHƯƠNG 5: ỨNG DỤNG CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THÀNH NGŨ DƯỚI GÓC ĐỘ TRI NHẬN VÀO VIỆC DẠY VÀ HỌC TIẾNG ANH............................................124  5.1. Tiềm năng ứng dụng của ngôn ngữ học tri nhận trong dạy tiếng ......................124  5.2. Một số ứng dụng trong giảng dạy thành ngữ .......................................................126  5.2.1. Hiện trạng .........................................................................................................126  5.2.2. Giải pháp ..........................................................................................................128  5.3. Ẩn dụ ý niệm và việc giảng dạy đọc hiểu ..............................................................133  5.4. Một vài giải pháp giảng dạy ngữ pháp theo hướng tri nhận .............................136  KẾT LUẬN .........................................................................................................................145  KIẾN NGHỊ VỀ NHỮNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO ...............................................147  DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ .................................................................148  DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................150  5 DẪN NHẬP Lí do chọn đề tài Thành ngữ là bộ phận quan trọng trong bất kì ngôn ngữ của dân tộc nào trên thế giới. Chính vì vậy, việc nghiên cứu thành ngữ được xem là một trong những chìa khóa để đi vào kho tàng ngôn ngữ và văn hóa của một cộng đồng. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu thành ngữ luôn thu hút sự quan tâm của các nhà ngôn ngữ học và chiếm số lượng đáng kể. Tuy nhiên, phần lớn các công trình nghiên cứu thành ngữ đến nay chủ yếu tập trung vào việc tìm hiểu cấu trúc hay khía cạnh văn hóa của thành ngữ. Số lượng các công trình nghiên cứu thành ngữ theo hướng tri nhận vẫn còn ít, đặc biệt là lớp thành ngữ có chứa yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người. Với đối tượng nghiên cứu chủ yếu là các quá trình ý niệm hóa thế giới khách quan trong tư duy của con người, ngôn ngữ học tri nhận đang hé mở nhiều phát hiện thú vị về ngôn ngữ và tư duy. Chính vì vậy, việc khảo sát thành ngữ dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận hứa hẹn đem lại những phát hiện mới và giải quyết thêm những vấn đề còn tồn tại trong các công trình nghiên cứu thành ngữ trước đây. Ở Việt Nam, từ khi nhà nước thực hiện chính sách mở cửa đến nay phong trào học tập tiếng Anh và nhu cầu dịch thuật các tài liệu, ấn phẩm văn hóa tiếng Anh phát triển rất mạnh mẽ. Để có thể học tập, giảng dạy và dịch thuật bất kì một ngôn ngữ nào một cách hiệu quả thì ngoài yếu tố ngôn ngữ chúng ta cũng cần phải quan tâm đến yếu tố văn hoá và tư duy. Hơn nữa, việc giảng dạy và dịch thuật thành ngữ tiếng Anh và tiếng việt luôn là công việc khó khăn mà rào cản lớn nhất trong việc hiểu đúng và trọn vẹn chúng là nghĩa ẩn dụ. Các lí thuyết ngôn ngữ học và phương pháp giảng dạy ngôn ngữ truyền thống vẫn còn để ngỏ một số câu hỏi về việc học tập và giảng dạy ngoại ngữ Chẳng hạn như việc người bản xứ dùng lẫn lộn các thì tiếng Anh khi giao tiếp, việc phân tích nghĩa của giới từ tiếng Anh sao cho Rõ ràng, việc giảng dạy nghĩa của những tổ hợp từ đa nghĩa v.v... Các vấn đề tồn tại này phần lớn gắn liền với hoạt động tri nhận và quá trình tư duy của con người. Chính vì vậy, câu trả lời thỏa đáng cho những vấn đề trên không nằm ngoài các vấn đề nghiên cứu của ngôn ngữ học tri nhận. Các nhà giáo học pháp trong giới giảng dạy tiếng Anh gần đây đã nhận ra tiềm năng to lớn của ngôn ngữ học tri nhận trong việc giải quyết những khó khăn khi dạy học ngôn ngữ cho học viên. Điều này thể hiện qua việc các sách chuyên khảo và bài báo khoa học về việc 1 ứng dụng ngôn ngữ học tri nhận vào việc giảng dạy tiếng Anh trên thế giới xuất hiện ngày càng nhiều. Như vậy, một công trình đối chiếu thành ngữ tiếng Anh với thành ngữ tiếng việt theo góc độ ngôn ngữ học tri nhận sẽ có giá trị đối với công tác giảng dạy cũng như dịch thuật tiếng Anh ở Việt Nam. Dù mới xuất hiện hơn hai mươi năm nay nhưng những lí luận của ngôn ngữ học tri nhận đã làm sáng tỏ thêm nhiều vấn đề ngôn ngữ học đặc biệt là trong lĩnh vực thành ngữ học. Ngoài ra, do nhu cầu học tập và giao lưu văn hóa với khối các nước có nói tiếng Anh đang phát triển mạnh ở Việt Nam, ngành ngôn ngữ học so sánh đối chiếu đang thu hút sự quan tâm ngày càng nhiều trong giới nghiên cứu. Việc bắt buộc giảng dạy bộ môn ngôn ngữ học so sánh đối chiếu cho tất cả sinh viên chuyên ngữ ở các trường đại học từ năm 2007 cho thấy vai trò quan trọng của ngành học này trong tình hình mới. Bên cạnh đó. bộ môn ngôn ngữ học tri nhận cũng đang được đưa vào giảng dạy cho sinh viên ngữ văn của các trường đại học. Tuy nhiên, các tài liệu phục vụ việc nghiên cứu ngôn ngữ học tri nhận bằng tiếng việt hiện nay còn rất thiếu. Giáo trình phục vụ việc nghiên cứu ngôn ngữ học tri nhận của sinh viên Việt Nam chủ yếu vẫn chỉ có nguồn từ tiếng Anh hoặc tài liệu dịch. Đến giữa năm 2008, ở Việt Nam mới chỉ có hai quyển sách bàn về ngôn ngữ học tri nhận là "Ngôn ngữ học tri nhận: Từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng việt" của tác giả Lý Toàn Thắng (2005) [70] và "Ngôn ngữ học tri nhận: ghi chép và suy ngẫm" của tác giả Trần Văn Cơ (2007) [7]. Như vậy, về mặt khoa học, luận án không chỉ đóng góp vào vốn hiểu biết về thành ngữ tiếng Anh và tiếng việt mà còn làm phong phú thêm kho tàng lí luận ngôn ngữ học so sánh đối chiếu nói chung và bổ sung thêm tư liệu cho việc nghiên cứu ngôn ngữ học tri nhận nói riêng. Lịch sử vấn đề Do có vị trí quan trọng trong kho tàng ngôn ngữ của các dân tộc, thành ngữ đã thu hút sự quan tâm và chú ý rất lớn của các nhà nghiên cứu không chỉ trong lĩnh vực ngôn ngữ học mà còn ở các lĩnh vực khác như văn học, dân tộc học. văn hóa dân gianv.v... Số lượng các ấn phẩm về thành ngữ trên thế giới cũng như ở Việt Nam là rất lớn. Theo Cowie (1998) [98], thành ngữ học đã được giới nghiên cứu của Liên Xô và Đông Âu khám phá mạnh mẽ từ thập niên 50 của thế kỉ trước. Trong hơn ba mươi năm trở lạiđây, thành ngữ học đã trở thành lĩnh vực thu hút rất nhiều sự chú ý của giới học giả không chỉ ở Tây Âu mà cả ở Hoa Kỳ. Điều này thể hiện qua việc nhiều hội thảo quốc tế về thành ngữ đã đuợc tổ chức. Bên cạnh đó, các dự án 2 nghiên cứu thành ngữ trên qui mô lớn trong cả lĩnh vực ngôn ngữ học lí thuyết và ngôn ngữ học ứng dụng đã được triển khai. Sự quan tâm của giới nghiên cứu phương tấy đối với thành ngữ xuất phát từ những thay đổi trong quan điểm đối với vai trò của thành ngữ trong việc giảng dạy ngoại ngữ và dịch thuật. Nếu trước đây. theo trường phái tạo sinh, người ta xem ngôn ngữ là một hệ thống có thể giải thích được dựa trên một hệ thống các qui tắc mang tính phổ quát thì hiện nay ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy việc thông thạo một ngôn ngữ phụ thuộc rất nhiều vào khả năng sử dụng thành thục các tổ hợp từ cố định gọi là "prefabricated uníts" hay -prerabs" (Bolinger 1976 [93]; Pavvley 1985 [162]). Mối quan tâm đối với thành ngữ không chỉ thể hiện ở số lượng các công trình khoa học về thành ngữ mà còn ở số lượng từ điển thành ngữ chuyên dụng được phát hành như "Longman Diclionary of English Idioms" (Long, 1979 [147]), "English Idioms and How to Use them" (Me MoI’die. 1978 [153]). "Selected English Collocations" (KozIowska & Dzierzanowska, 1982 [130]), "Le Dictionnaire de collocations" (Hausmann. 1979 [205]), "Collocations dans une base de données terminologique et lexicale" (Heid & Preibott, 1991 [206]) v.v... Số lượng công trình nghiên cứu về thành ngữ hiện nay rất lớn nhưng phần lớn các công trình này đều khảo sát thành ngữ dưới góc độ ngôn ngữ học cấu trúc với quan điểm chung coi thành ngữ là những tổ hợp bền vững về cấu trúc, ổn định về ngữ nghĩa và nghĩa của thành ngữ toát ra từ toàn khối. Nói một cách khác là nghĩa của thành ngữ khó có thể suy ra được từ các đơn vị cấu thành. Tuy nhiên ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy nghĩa của các đơn vị cấu thành có đóng góp một cách hệ thống vào nghĩa của thành ngữ. Chẳng hạn như trong trường hợp của thành ngữ "take the bull by the horn" (giải quyết vấn đề tận gốc) người ta có thể phần nào suy được nghĩa của thành ngữ từ các đơn vị như "bull và "horn". Nếu đưa thành ngữ tiếng Pháp "le ceour du pays" cho một người Việt Nam không hề biết tiếng Pháp và giải thích nghĩa "coeur" là "tìm" và "pays" là '"đất nước" thì gần như ai cũng suy được nghĩa của thành ngữ này là "trung tâm của đất nước". Điều đó cho thấy là trong tư duy có một hoạt động giải mã mà trong chừng mực nào đó có thể nói là giống nhau giữa các dân tộc; nó giúp chúng ta thực hiện được việc suy nghĩa trên. Ngôn ngữ học tri nhận ra đời chủ yếu là để khám phá hoạt động tư duy ấy. Một loat các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học tri nhận nổi tiếng như George Lakoff, Mark Johnson và Raymond Gibbs đã đánh giá lại quan điểm truyền thống về bản chất của ngữ nghĩa, vai trò của ẩn dụ cũng như hoán dụ, vấn đề phạm trù hóa ngôn ngữ và các mối 3 quan hệ giữa cấu trúc với ngữ nghĩa. Từ những công trình nghiên cứu này một bộ khung lí thuyết phong phú về cách thức con người cảm nhận, ý niệm hóa và phạm trù hóa thế giới đã được xây dựng. Trong một chuyên khảo mang tên "Thành ngữ: Một cách nhìn từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận", Kovecses và Szabo (1996) [ 129] đã so sánh cách nhìn thành ngữ từ quan điểm truyền thống và quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận. Theo các tác giả này, quan điểm truyền thống cho rằng thành ngữ là hiện tượng ngôn ngữ đặc biệt không liên quan đến hệ thống ý niệm của con người và nghĩa của thành ngữ không thể suy ra được từ các đơn vị cấu thành. Tuy nhiên, theo quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận thì hầu hết thành ngữ là sản phẩm của hệ thống ý niệm. Thành ngữ không chỉ đơn thuần là vấn đề của ngôn ngữ mà còn là vấn đề của tư duy. Nghĩa của thành ngữ có mối liên hệ với các đơn vị cấu thành và có nguồn gốc từ quá trình ý niệm hóa thế giới của con người. Cùng quan điểm với Kovecses và Szabo, Lakoff (1987) [135] cho rằng trong bộ não của mỗi người chúng ta đều có một tập hợp lớn các hình ảnh qui ước về thế giới xung quanh. Các hình ảnh này cũng phụ thuộc vào môi trường văn hóa - xã hội mà mỗi cá nhân là thành vìên. Những hình ảnh qui ước này là nền tảng cho hoạt động ý niệm hóa và tạo nghĩa hàm ẩn của thành ngữ. Như vậy, theo quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận, nghĩa của thành ngữ có mối liên hệ với các đơn vị cấu thành và có thể suy luận được. Tuy nhiên, nghĩa ẩn dụ của thành ngữ cũng có quan hệ chặt chẽ với quá trình ý niệm hóa mang những đặc trưng của môi trườngvăn hóa - xã hội của một cá nhân. Do đó. khả năng suy nghĩa ở các lớp thành ngữ khác nhau tùy thuộc vào mức độ tương đồng và dị biệt trong hoạt động ý niệm hóa giữa các nền văn mình. Thành ngữ chứa yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người là một trong những lớp thành ngữ cho thấy nhiều điểm tương đồng giữa các nền văn mình. văn hóa và ngôn ngữ. Chẳng hạn như đa số các nền văn hóa đều tri nhận cái đầu là bộ phận quan trọng nhất của cơ thể, tay phải quan trọng hơn tay trái, đôi mắt là nơi thể hiện tình cảm, trái tim là trung tâm của sự sống v.v... Việc nghiên cứu quá trình ý niệm hóa thành ngữ chứa yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về điểm chung giữa các nền văn hóa. Tuy nhiên, số lượng công trình nghiên cứu về thành ngữ chứa yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người vẫn còn ít so với tổng số công trình nghiên cứu về thành ngữ nói chung. Rải rác trên intenet, chúng ta có thể tìm được các bài viết hay luận văn bàn về thành ngữ chứa yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người của Ning Yu (2007) [157], Bilkova (2000) [90], Janyan và Andonova (2000) [121], Stracker (1993) [178] 4 ... Các sách chuyên khảo về thành ngữ của Pemando (1997) [108], Langlotz (2006) [145], Glucksberg (2001) [116] V.V.. cũng có đề cập đến thành ngữ chứa yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người nhưng nhìn chung là ít phân tích mà chỉ dùng lớp thành ngữ này để minh họa cho các luận điểm nêu ra trong sách. Ở Việt Nam, thành ngữ cũng thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu thành ngữ ở Việt Nam cho đến nay vẫn chủ yếu đi theo huớng ngôn ngữ học chức năng hoặc ngôn ngữ học cấu trúc. Đi theo hướng miêu tả cấu trúc hình thái và đặc điểm ngữ nghĩa của một số loại thành ngữ riêng biệt như thành ngữ đối, thành ngữ so sánh có Bùi Khắc Việt (1981), Trương Đông San (1974), Hoàng Văn Hành (1976), Chu Bích Thu (1994), Phan Văn Quế (1995) (dẫn theo Đào Thị Dung, 2004 [20]). Theo hướngnghiên cứu thành ngữ trong khuôn khổ phân định ranh giới với các đơn vị khác như từ ghép, quán ngữ, tục ngữ có các công trình của Nguyễn Văn Tu (1960. 1968, 1976), Đỗ Hữu Châu (1962, 1981, 1986), Nguyễn Kim Thản (1963), Cù ĐInh Tú (1973, 1982), Nguyễn Văn Mệnh (1972, 1986), Nguyễn Thiện GÌáp (1975, 1985), Hồ Lê (1976), Trương Đông San (1976) (dẫn theo Hoàng Ọuốc, 2003 [61]). Các công trình nghiên cứu thành ngữ từ góc độ tri nhận đã bắt đầu xuất hiện trong thời gian gần đây nhưng vẫn chủ yếu ở đăng các bài báo đăng trên tap chí. Theo khảo sát của chúng tôi, đến thời điểm đầu năm 2008, ở Việt Nam vẫn chưa có luận án hay công trình khoa học nào nghiên cứu đối chiếu một cách toàn diện hệ thống thành ngữ chứa yếu tố bộ phận cơ thể người tiếng Anh và tiếng việt từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu chính của luận án là nghiên cứu khả năng suy nghĩa thành ngữ và các tổ hợp ngữ cố định từ những đơn vị cấu thành của chúng. Do thành ngữ là một bộ phận của từ vựng có số lượng rất lớn trong các ngôn ngữ, nên trong khuôn khổ luận án này của chúng tôi, sẽ chỉ có những thành ngữ (của tiếng Anh và tiếng việt) có chứa yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người được tập trung nghiên cứu. Để phục vụ việc nghiên cứu khả năng suy nghĩa của thành ngữ và các tổ hợp ngữ cố định từ những đơn vị cấu thành của chúng, chúng tôi dựa vào bộ khung lí thuyết của ngôn ngữ học tri nhận. đặc biệt là lí thuyết về ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm. Vì vậy, vai trò của ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm trong việc tạo lậpnghĩa cho thành ngữ vừa là căn cứ lý luận, lại vừa là mục tiêu nghiên cứu quan trọng của luận án. 5 Để phục vụ việc giảng dạy và học tập tiếng Anh, một mục đích khác mà luận án cũng nhắm tới là đưa ra những đề xuất về cách thức giảng dạy và học thành ngữ cũng như các tổ hợp ngữ cố định trong tiếng Anh một cách hiệu quả. Tại đây, chúng tôi cũng sẽ đề xuất một số ứng dụng của bộ khung lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận vào công tác giảng dạy tiếng Anh nói riêng. Câu hỏi nghiên cứu Nội dung nghiên cứu của luận án thể hiện ở những vấn đề được đặt ra qua các câu hỏi nghiên cứu quan trọng mà chúng tôi tập trung phân tích, giải đáp là: 1. Liệu nghĩa của thành ngữ. đặc biệt là thành ngữ có yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người của tiếng Anh và tiếng việt, có thể suy ra được từ các đơn vị cấu thành của chúng hay không? Để suy nghĩa của thành ngữ được thì cần có những yêu cầu gì? 2.Ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm có vai trò như thế nào trong việc tạo nghĩa của thành ngữ? 3.Thành ngữ tiếng Anh và tiếng việt chứa yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người có những điểm giống và khác nhau nào? Nguồn gốc của những điểm tương đồng hay dị biệt này là ở đâu? Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu Để đạt được mục tiêu của luận án, hướng tiếp cận đối tượng nghiên cứu mà chúng tôi đặt ra là quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận, cụ thể hơn là ngữ nghĩa học tri nhận đối với các tổ hợp ngữ cố định. trong đó có thành ngữ. Trong phần nghiên cứu lí luận của ngôn ngữ học tri nhận, chúng tôi tập trung vào vấn đề ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm bởi vì đây là hai công cụ quan trọng nhất của ngôn ngữ học tri nhận được dùng trong việc khảo sát các tổ hợp ngữ cố định, nhất là thành ngữ. Đối tượng nghiên cứu quan trọng của luận án là lớp thành ngữ chứa yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Anh và tiếng việt Trong khuôn khổ của luận án, chúng tôi tập trung phân tích sâu vai trò các ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm trong việc tạo nghĩa cho lớp thành ngữ này. Để đảm bảo được mục tiêu này, luận án cũng không khảo sát toàn bộ các ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm có liên quan mà tập trung khảo sát những bộ phận quan trọng, xuất 6 hiện thường xuyên trong lớp thành ngữ được khảo sát. Các thành ngữ tiếng Anh và tiếng việt có chứa yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người được thống kê đầy đủ nhưng trong phần phân tích và khảo sát chúng tôi cũng chỉ tập trung vào những phần quan trọng của lớp thành ngữ này như thành ngữ có chứa yếu tố "đầu", "mắt", "mặt", "tay", "tìm" V.V.. Đế đáp ứng yêu cầu nghiên cứu của luận án, chúng tôi tổng hợp tư liệu nghiên cứu từ nhiều nguồn khác nhau. Thành ngữ tiếng việt có chứa yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người được thống kê và tổng hợp từ các nguồn sau: - Thành ngữ tiếng việt năm 1978 của Nguyễn Lực, Lương Văn Đang và Nguyễn Đăng Châu [43]. - Từ điển thành ngữ - Tục ngữ Việt Nam năm 2000 của Vũ Dung, Vũ Thủy Anh và Vũ Quang Hào [22]. - Từ điển thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam năm 2003 của Việt Chương [5], [6]. Thành ngữ tiếng Anh có chứa yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người được thống kê từ các nguồn: - Oxford Idioms dictionary for leamers of English (Oxford, 2004) [ 159]. - Longman American Idioms (Urbom, 2000) [186]. - A Dictionary of American Idioms (Makkai, Boatner và Gates, 2004) [151]. Ngoài các từ điển kể trên chúng tôi cũng sử dụng các từ từ điển khác và cả từ điển trực tuyến khi cần thìết. Tổng số thành ngữ có yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người tiếng Anh và tiếng việt mà chúng tôi thống kê được lần lượt là 722 và 914. Phương pháp nghiên cứu Việc nghiên cứu của luận án được thực hiện bằng cách kết hợp giữa phân tích miêu tả định tính lẫn định lượng. Qua khảo sát các từ điển thành ngữ tiếng Anh và tiếng việt, chúng tôi lập bảng kiểm đếm tất cả các thành ngữ tiếng Anh và tiếng việt có chứa yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người. Cả hai danh sách này chúng tôi đều phân loại thành các nhóm thành ngữ theo yếu tố chỉ bộ phận cơ thể. Riêng đối với bảng danh sách thành ngữ tiếng Anh. Để thuận lợi cho việc tra cứu và học tập tiếng Anh, chúng tôi đưa cả phần giải nghĩa và ví dụ cụ thể. Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của luận án là xác định vai trò của Ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm trong việc tạo ra nghĩa hàm ẩn của thành ngữ. Để thực hiện nhiệm vụ này, chúng tôi sử dụng các thao tác phân tích ngôn ngữ học thông thường áp dụng cho những nhóm thành ngữ khác nhau. Đối với mỗi ẩn dụ ý niệm hay hoán dụ ý niệm được 7 đưa ra để khảo sát, chúng tôi phân tích miền ý niệm nguồn và miền ý niệm đích để chỉ ra mỗi liên hệ giữa miền ý niệm đích với nghĩa hàm ẩn. Đối với mỗi nhóm thành ngữ cùng có nguồn gốc từ một ẩn dụ hay hoán dụ ý niệm, chúng tôi tập trung phân tích một vài thành ngữ tiêu biểu để làm nổi bật vai trò của ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm trong việc suy nghĩa của thành ngữ. Sau mỗi phần phân tích, chúng tôi sẽ tổng kết lại vai trò của ẩn dụ và hoán dụ ý niệm đối với từng nhóm thành ngữ được khảo sát. Xuyên suốt luận án, phương pháp so sánh - đối chiếu có vai trò nổi bật và đặc biệt quan trọng. Trên cơ sở phân tích các thành ngữ được khảo sát. phương pháp so sánh - đối chiếu cho phép xác định những điểm tương đồng và dị biệt trong cách tư duy, phương phức ý niệm hóa thế giới và cả cấu trúc ngôn ngữ của người Anh và người Việt. Việc xác định được những tương đồng và dị biệt giữa thành ngữ của hai ngôn ngữvề phương diện này sẽ giúp ích nhiều cho công tác giảng dạy và dịch thuật. Những kết luận rút ra được từ việc so sánh - đối chiếu cũng là tiền đề cho việc ứng dụng ngôn ngữ học tri nhận vào giảng dạy tiếng Anh được trình bày ở chương cuối cùng của luận án. Ý nghĩa khoa học của nội dung nghiên cứu Về mặt lí luận Việc tập hợp và hệ thống hóa các kết quả nghiên cứu lí luận của ngôn ngữ học tri nhận, đặc biệt là quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận đối với các tổ hợp ngữ cố định sẽ góp phần bồ sung thêm lí luận và tư liệu cho việc nghiên cứu ngôn ngữ học tri nhận vốn còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Lý thuyết về ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm của ngôn ngữ học tri nhận được trình bày trong luận án không chỉ có ý nghĩa đối với việc nghiên cứu thành ngữ mà còn có tiềm năng to lớn trong các nghiên cứu về tâm lý học, ngôn ngữ học tâm lý và các ngành có nghiên cứu về hoạt động tư duy của con người. Khảo sát thành ngữ từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận là một hướng đi mới mẻ cho phép các nhà nghiên cứu đi xa hơn. sâu hơn trong việc giải quyết những vướng mắc và tồn tại trong những nghiên cứu về thành ngữ trước đây. Với luận điểm nghĩa từ điển của từ vựng chỉ là "điểm truy cập " đưa chúng ta đến với hệ thống nghĩa bách khoa toàn thư, ngôn ngữ học tri nhận đã có những bổ sung quan trọng đối với cách nhìn về nghĩa thành ngữ của ngôn ngữ học truyền thống. Việc phân tích vai trò của ẩn dụ ý niệm, hoán dụ ý niệm và tri thức qui ước trong sự hình thành nghĩa hàm ẩn cũng có những đóng góp đáng kể vào việc xác định nghĩa 8 hàm ẩn của thành ngữ. Do đó, luận án cũng sẽ có những bổ sung về mặt lí luận trong kho tàng lí luận về thành ngữ và các tổ hợp ngữ cố định. Lí thuyết về ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm được trình bày trong luận án còn có những đóng góp quan trọng về mặt lí luận cho chuyên ngành phương pháp giảng dạy tiếng Anh. Việc chỉ ra được mối liên hệ giữa tư duy và các tổ hợp từ cố định cũng như cách thức xử lí chúng trong hoạt động tư duy của con người có thể giúp cho các nhà giáo học pháp có thêm cơ sở lí luận để đưa ra những phương pháp và cách thức giảng dạy hiệu quả, giúp cho người học thực sự hiểu vấn đề và ghi nhớ lâu. Về mặt thực tiễn Việc phân tích những tương đồng và dị biệt trong đặc điểm cấu trúc cũng như đặc điểm văn hóa giữa hai lớp thành ngữ tiếng Anh và tiếng việt trước hết giúp cho học viên tiếng Anh ở Việt Nam hiểu tốt hơn những khác biệt về văn hóa giữa người Anh với người Việt. Một khi có được kiến thức văn hóa vững chắc về ngoại ngữ mình đang học tập thì khả năng phạm lỗi sẽ ít hơn và học viên cũng có khả năng phân tích, xử lí các vấn đề ngôn ngữ hiệu quả hơn. Luận án có những đóng góp mang tính thực tiễn đối với công tác giảng dạy và biên soạn giáo trình tiếng Anh ở Việt Nam. Các khung lí luận của ngôn ngữ học tri nhận, ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm còn có ý nghĩa thực tiễn đối với việc nghiên cứu dịch thuật và biên soạn từ điển. Luận án cũng cung cấp một kho tư liệu phong phú cho việc nghiên cứu thành ngữ có chứa yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người. Trong tiếng Anh, lớp thành ngữ này xuất hiện thường xuyên và được sử dụng phổ biến. Hai bảng danh sách thành ngữ trong luận án sẽ hỗ trợ đáng kể cho việc học và giảng dạy lớp thành ngữ có chứa yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người. Một trong những trở ngại cho việc nghiên cứu ngôn ngữ học tri nhận ở Việt Nam hiện nay là chưa có được hệ thống thuật ngữ thống nhất tương đương với hệ thống thuật ngữ tiếng Anh. Những thuật ngữ như "mô hình tri nhận lí tưởng hóa", "hoán dụ ý niệm tiếp hợp", "hoán dụ ý niệm bao gộp", "miền ý niệm", "cấu trúc tiền ý niệm" v.v... được chúng tôi mạnh dạn đưa ra trên cơ sở nghiên cứu cách Sử dụng trong những tài liệu khác nhau để dịch các thuật ngữ tương ứng trong tiếng Anh. Trước khi có được một hệ thống thuật ngữ và tên gọi thống nhất, việc đưa ra các thuật ngữ này sẽ phần nào giải quyết những khó khăn trong việc dịch thuật tài liệu ngôn ngữ học tri nhận sang tiếng việt. 9 Bố cục của luận án Phần chính văn của luận án được chia thành năm chương. Chương một "Một số vấn đề lí luận" Nội dung chương một trình bày những vấn đề lí luận cơ bản nhất của ngôn ngữ học tri nhận có liên quan trực tiếp đến việc khảo sát thành ngữ tiếng Anh và tiếng việt ở các chương tiếp theo. Các vấn đề chính được trình bày trong chương một là quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận về thành ngữ, hoạt động tri nhận trong tư duy của con người và miền ý niệm. Chương hai "Ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm" Chương này tập trung phân tích cấu trúc của ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm để tạo tiền đề cho việc phân tích các cơ chế tri nhận này trong những chương sau. Tại đây, sự khác biệt và mối liên hệ giữa ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm cũng được phân tích làm rõ. Vai trò của ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm đối với quá trình tạo nghĩa hàm ẩn cho thành ngữ cũng được đề cập. Đây là chương lí luận có vai trò chủ chốt trong các phân tích và kết luận mà luận án đưa ra. Chương ba "Ẩn dụ ý niệm trong thành ngữ chứa yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người tiếng Anh và tiếng việt" Chương này trình bày những ẩn dụ ý niệm thường gặp nhất trong thành ngữ có chứa yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người tiếng Anh cũng như tiếng việt. Ba nhóm ẩn dụ ý niệm được trình bày trong chương này là: • "Bộ phận cơ thể người là vật chứa đựng" • "Bộ phận cơ thể người với quyền lực và sự kính trọng" • "Bộ phận cơ thể người và tính cách con người" Một số ẩn dụ ý niệm khác có liên quan cũng được phân tích thêm để làm rõ vai trò của ẩn dụ ý niệm đối với việc tạo nghĩa hàm ẩn cho thành ngữ. Chương bốn "Hoán dụ ý niệm trong thành ngữ chứa yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người tiếng Anh và tiếng việt" Chương này trình bày những hoán dụ ý niệm thông dụng nhất trong thành ngữ tiếng Anh và tiếng việt có chứa yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người. Các nhóm hoán dụ ý niệm được thảo luận trong chương này là: • "Bộ phận cơ thể người biểu trưng cho con người và đặc điểm tính cách" • "Bộ phận cơ thể người biểu trưng cho kĩ năng" 10 • "'Bộ phận cơ thể người biểu trưng cho sự nhận thức" • "Bộ phận cơ thể người biểu trưng cho tâm trang, tình cảm" Các hoán dụ ý niệm quan trọng khác cũng được khảo sát để làm rõ vai trò của hoán dụ ý niệm đối với việc tạo nghĩa hàm ẩn của thành ngữ. Chương năm "ứng dụng ngôn ngữ học tri nhận trong giảng dạy tiếng Anh'" Chương này trình bày những tiềm năng ứng dụng của ngôn ngữ học tri nhận trong các lĩnh vực khác nhau. đặc biệt là lĩnh vực phương pháp giảng dạy tiếng Anh. Dựa trên cơ sở lí luận được trình bày trong bốn chương trước của luận án, chương này trình bày những ứng dụng thực tiễn của ngôn ngữ học tri nhận vào việc giảng dạy tiếng Anh, cụ thể là day thành ngữ, đọc hiểu và ngữ pháp. Ngoài phần chính văn, luận án có 4 phụ lục. Hai phụ lục đầu tiên trình bày các thuật ngữ Anh-Việt và Việt-Anh được sử dụng trong luận án. Do hệ thống thuật ngữ dùng trong ngôn ngữ học tri nhận hiện nay chưa thống nhất và còn thiếu nhiều nên chúng tôi đưa phụ lục này vào để tiện việc đối chiếu của người đọc. Phụ lục thứ ba là bảng danh sách các thành ngữ tiếng việt có chứa yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người. Phụ lục thứ tư là bảng danh sách các thành ngữ tiếng Anh chứa yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người. Để tiện cho việc học tập và nghiên cứu thành ngữ tiếng Anh, chúng tôi đưa luôn cả nghĩa và ví dụ cho từng thành ngữ trong bảng danh sách này. 11 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN Trong chương 1, chúng tôi trình bày những vấn đề lí luận chính của ngôn ngữ học tri nhận có liên quan trực tiếp đến nội dung khảo sát của luận án. Các vấn đề trọng tâm được trình bày trong chương này là quan điểm tri nhận về thành ngữ, các quá trình hình thành ý niệm và cấu trúc miền ý niệm. 1.1. Thành ngữ, nhận diện và phân loại Mặc dù thành ngữ là một khái niệm rất quen thuộc trong từ vựng học, được nghiên cứu từ nhiều góc độ và phương diện nhưng cho đến nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thống nhất giữa các nhà nghiên cứu. Đối với thành ngữ tiếng việt, đã có hàng chục quan niệm của các nhà nghiên cứu được phát biểu. Nói chung, tất cả các ý kiến đó đều đề cập đến hai đặc điểm thuộc hai bình diện căn bản của thành ngữ (đồng thời lấy đó làm căn cứ để nhận diện chúng) là: - Đặc điểm về cấu trúc hình thức - Đặc điểm về nội dung ý nghĩa Những dị biệt nhỏ của các ý kiến chủ yếu tập trung ở các đặc điểm phụ hoặc những đặc điểm chức năng mà các tác giả muốn nhấn mạnh, ví dụ: - Các nhà nghiên cứu như Nguyễn Văn Tu, Đái Xuân Ninh. Đỗ Việt Hùng, Lê Hữu Tính có nêu đặc điểm về vai trò ngữ nghĩa của các yếu tố cấu tạo thành ngữ. Theo các nhà nghiên cứu này, các thành tố cấu tạo nên thành ngữ đã mất hẳn hoặc gần như mất hẳn tính độc lập trong khả năng tạo dựng nghĩa và giúp nhận ra nghĩa của cả tổ hợp. Trong khi đó. các nhà nghiên cứu khác lại không đề cập đến đặc điểm này. - Chức năng tương đương với từ về phương diện định danh, về sự biểu thị khái niệm của thành ngữ được đề cập trong phát biểu của các nhà nghiên cứu như Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Hữu Quỳnh, Nguyễn Công Đức, Vũ Đức Nghiêu v.v... Nếu nhìn một cách khái quát, những đặc điểm căn bản của thành ngữ được hầu hết các nhà nghiên cứu nhất trí bao gồm: 1. Thành ngữ là một cụm từ (ngữ) cố định. là đơn vị ngôn ngữ được làm sẵn và có khả năng tham gia cấu tạo câu như từ. 2. Có kết cấu hình thức vững chắc, ổn định. 12 3. Có chức năng định danh. 4. Có ý nghĩa hòan chỉnh, mang tình hình tuợng cao. Tuy nhiên, thực tiễn ngôn ngữ cho thấy việc nhận diện, phân biệt thành ngữ với các đơn vị lân cận như: quán ngữ, tục ngữ, những đơn vị mà trước nay vẫn được gọi là từ ghép ... không phải lúc nào cũng đạt được sự nhất trí hoặc không có những trường hợp ngoai lệ rất khó quyết đáp. Đối với sự phân biệt thành ngữ và quán ngữ, vấn đề hình như có vẻ khá Rõ ràng. Thành ngữ có chức năng định danh, gọi tên sự vật một cách gợi cảm, bóng bẩy, có tính hình tượng; còn quán ngữ là những cụm từ cố định được dùng trong các loại văn bản để thực hiện các chức năng liên kết, tạo lập văn bản, các chức năng ngữ nghĩa, dụng học của câu (nhấn manh, lịch sự, phủ định, bác bỏ, nói dối, mỉa mai...). Ví dụ: chẳng có lí do gì, của đáng tội, tóm lại, thiết nghĩ. đáng chủ ý là v.v... Tuy nhiên, sự phân biệt thành ngữ với từ ghép và tục ngữ thì tình hình phức tạp hơn và hiện nay vẫn chưa hết tranh luận (Xem Nguyễn Văn Tu, 1976; Hồ Lê, 1976; Đái Xuân Ninh, 1976; Trương Đông San, 1976; Cù Đình Tú, 1982; Nguyễn Thiện Giáp, 1985; Đỗ Hữu Châu, 1986; Nguyễn Văn Mệnh, 1986; Vũ Đức Nghiêu, 1991, 2008 ...). Ví dụ, các đơn vị như: đen thui, trẻ măng, dẻo kẹo ... người thì coi là từ ghép,người thì bảo là thành ngữ rút gọn (Trương Đông San Chẳng hạn ); các đơn vị như; được đằng chân. lân đằng đầu; có chí làm quan. có gan làm giàu: cờ đến tay ai người ấy phất... có tác giả coi là thành ngữ, có tác giả lại xác định là tục ngữ (cũng là đơn vị làm sẵn, có tính cố định nhưng thường biểu thị một phán đoán. kết luận, một kinh nghiệm sống, một triết lý nhân sinh ...)■ Đối với tiếng Anh, các thành ngữ của nó cũng là đối tượng được nhiều người nghiên cứu và nghiên cứu trên khá nhiều phương diện. Cũng như trong tiếng việt và nhiều ngôn ngữ khác, vấn đề nhận diện và phân loại thành ngữ tiếng Anh không kém phần phức tạpvà rất đa dạng về các ý kiến (Langlotz 2006) [145]. Bàn về vấn đề này, nhà nghiên cứu Pellbaum (1993 dẫn theo Langlotz 2006) [145] đã phải thốt lên: "Việc phân tích thành ngữ về mặt hình vị, từ vựng hay cấu trúc đều đòi hỏi một nỗ lực cực kì lớn" (a very considerable underlaking). Đứng trước tình hình như vừa trình bày trên đây. xuất phát từ mục tiêu và đối tượng nghiên cứu của mình, chúng tôi không chủ trương đi sâu vào xác định về mặt lý luận các tiêu chí nhận diện và phân định thành ngữ so với các đơn vị khác. Chấp nhận một quan niệm được đa số đồng thuận trong các công trình đi trước nghiên cứu và phân loại thành ngữ từ góc độ 13 ngôn ngữ học cấu trúc và chức năng, đồng thời dựa trên các từ điển hiện biết, chúng tôi quan niệm: Thành ngữ là một loại tổ hợp từ cố định, bền vững về hình thái - cấu trúc, hoàn chỉnh, bóng bẩy về ý nghĩa, được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp hàng ngày. đặc biệt là trong khẩu ngữ. Trên cơ sở quan niệm như vậy, chúng tôi khảo sát những từ điển thành ngữ, tục ngữ tiếng Anh và tiếng việt có tiếng, được nhiều người chấp nhận để rút lấy khối ngữ liệu nghiên cứu cho mình. Trong khối ngữ liệu đó có cả một số ít đơn vị có thể còn phải tranh biện thêm về tư cách thành ngữ của chúng, tùy theo quan niệm của người nghiên cứu; nhưng để đảm bảo có một nhãn quang về tư liệu rộng rãi và đầy đủ hơn, chúng tôi vẫn đưa vào khối ngữ liệu khảo sát. Nói chung là những đơn vị ứng với thuật ngữ thành ngữ và idiom. 1.2. Quan điểm ngôn ngữ học tri nhận về thành ngữ Trong khi các nhà nghiên cứu thành ngữ theo quan điểm truyền thống tập trung khảo sát các khía cạnh cấu trúc và hình thức của thành ngữ thì một số nhà ngôn ngữ học tri nhận lại có quan điểm khác hẳn. Những nhà ngôn ngữ học tri nhận nổi tiếng như George Lakoff và Mark Johnson (1999) [140], Raymond GÌbbs (1997) [I 15] đã xem xét lại một cách hệ thống về bản chất của ngữ nghĩa trong thành ngữ và mối quan hệ giữa cấu trúc với ngữ nghĩa của thành ngữ. Họ đã đưa ra những lí thuyết quan trọng về ngữ nghĩa của từ vựng dựa trên cách chúng ta tri nhận, khái niệm hóa và phân loại thế giới xung quanh. Theo những công trình khảo sát ngôn ngữ theo hướng mới này thì thành ngữ Rõ ràng là một đối tượng nghiên cứu không thể xem nhẹ. Với nguyên lí ngôn ngữ không phải là một khả năng tri nhận tự trị (autonomous), các nhà ngôn ngữ học tri nhận đã đưa ra một cách nhìn mới so với ngữ pháp tạo sinh về bản chất ngôn ngữ: "Tri thức ngôn ngữ (tức là tri thức về ý nghĩa và hình thức) về cơ bản là cấu trúc ý niệm và biểu hiện ngữ nghĩa về cơ bản là biểu hiện ý niệm... các biểu hiện về cú pháp, từ pháp và âm vị học về cơ bản cũng mang tính ý niệm; bởi vì các âm thanh và các phát ngôn phải được tạo sinh ở đầu ra và nhận hiểu ở đầu vào của các quá trình tri nhận chi phối sự nói viết và sự nghe đọc - vốn là hai quá trình đều liên quan đến trí não" (Lý Toàn Thăng, 2005) [70]. Chính từ quan điểm cơ bản này, những người theo trường phái ngôn ngữ học tri nhận cho rằng hầu hết thành ngữ là sản phẩm của quá trình ý niệm hóa và nó không chỉ thuần túy là vấn đề ngôn ngữ. Gibbs (1997) [115] khẳng định "thành ngữ không tồn tại với tư cách là những đơn vị nghĩa độc lập trong hệ thống từ vựng mà về bản chất chúng là những bộ phận của hệ thống các khái niệm đã được ẩn dụ hóa". Giải thích cho điều này, Gibbs cho rằng 14 nghĩa ẩn dụ của các thành ngữ và nghĩa hiển ngon liên hệ với nhau qua những cơ chế tri nhận như ẩn dụ, hoán dụ và tri thức nền. Chính vì vậy, thành ngữ hình thành cùng với quá trình hình thành các khái niệm trong tư duy của con người. Một tiền đề quan trọng của ngôn ngữ học tri nhận là "khi tham gia vào bất kì hoạt động ngôn ngữ nào, chúng ta cũng đều huy động một cách vô thức rất nhiều khả năng tri nhận và tri thức văn hóa. thiết lập những mối liên hệ chằng chịt, xử lí những lượng thông tin rất lớn" (Pauconnier, 2004) [107]. Bản thân ngôn ngữ không thể hiện nghĩa mà nó chỉ kích hoạt quá trình tạo lập nghĩa trong những văn cảnh nhất định với sự hỗ trợ của các khả năng tri nhận và mô hình văn hóa nhất định. Quan niệm trên đã đặt ra một số câu hỏi quan trọng cho việc đi sâu nghiên cứu bản chất của thành ngữ. Nếu cho rằng thành ngữ chính là khái niệm đã được ẩn dụ hóa thì nghĩa ẩn dụ của nhiều thành ngữ có thế suy ra được bằng cách lập lược đồ tri nhận về mối liên hệ giữa ý niệm nguồn và ý niệm đích. Khi làm được điều này thì ta có thể miêu tả chi tiết và Rõ ràng hơn nghĩa ẩn dụ của nhiều thành ngữ trong gần như tất cả các ngôn ngữ. Điều này sẽ rất có ích cho quá trình học ngoại ngữ bởi vì thành ngữ luôn là những đơn vị ngôn ngữ gây khó khăn nhiều nhất cho người học. Một khi lập được bản đồ tri nhận về mối liên hệ giữa ý niệm nguồn và ý niệm đích thì chúng ta lại có thể nghĩ đến việc tìm những nét tương đồng giữa các dân tộc trong việc thiết lập mối liên hệ giữa ý niệm nguồn và ý niệm đích. Nói cách khác là nếu khảo sát thành ngữ theo hướng mới này chúng ta có thể dựa trên những nét tương đồng trong cách tri nhận thế giới của các dân tộc để đoán được nghĩa ẩn dụ trong ngôn ngữ của các dân tộc khác nhau. Cùng có quan điểm trên, Steen (1997) [176] cho rằng trong bộ nhỏ của mỗi người đều tồn tại một tập hợp rất lớn các hình ảnh về thế giới xung quanh. Tập hợp hình ảnh này sẽ có những điểm khác nhau tùy theo từng môi trường cụ thể mà người đó sống. Ví dụ như đối với người Việt Nam thông thường những hình ảnh như ông Bụt. chùa bà Đanh. vua Hùng, cây tre, rau muống, áo dài là khá quen thuộc trong khi người Anh thì lại rất khó hình dung cũng những sự vật cụ thể nêu trên. Những hình ảnh như vậy được hình thành từ quá trình tri nhận thế giới và tạo thành cái mà Lakoff (1987) [135] gọi là "image schorna" (lược đồ hình ảnh ). Cũng theo Steen, những lược đồ hình ảnh tri nhận này không bị chi phối bởi ngữ cảnh mà nằm trong tiềm thức của mỗi người. Ví dụ như chúng ta rất ít sử dụng hình ảnh ông bụt trong bộ nhớ của mình nhưng hình ảnh này vẫn tồn tạirất lâu trong trí nhớ của chúng ta và khi cần là nó sẽ tự hiện lên. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất