Header Page 1 of 95.
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Khãa luËn tèt nghiÖp
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thành ngữ là một bộ phận quan trọng trong vốn từ của một ngôn ngữ.
Trong tiếng Việt, thành ngữ có một khối lượng rất lớn, phong phú và đa dạng,
chúng mang đặc trưng dân tộc rõ nét và giàu sức biểu cảm, biểu hiện. Cùng
với việc phát triển tiếng nói dân tộc, thành ngữ dần được hình thành, được
nhân dân sử dụng như một công cụ giao tế chung. Phát triển thành ngữ là một
trong những cách tốt để bổ sung cho vốn từ. Xét về mặt tu từ, thành ngữ đã
góp phần làm giàu, đẹp cho tiếng Việt về nhiều phương diện.
Mặt khác, do được hình thành và phát triển trong lịch sử lâu dài của
dân tộc, thành ngữ lại là những cụm từ cố định, hay những ngữ cố định, có
nội dung ngữ nghĩa sâu rộng, nên nó cũng giữ được nhiều khái niệm thuộc về
truyền thống. Những khái niệm này đã phản ánh nhiều mặt tri thức về giới tự
nhiên và đời sống xã hội của các thời đại đã sản sinh ra nó trên đất nước Việt
Nam.
Thành ngữ giản dị, dễ hiểu, mỗi câu mang một nội dung nhất định,
nhưng lại có thể ứng dụng vào nhiều hoàn cảnh khác nhau tuỳ theo đối tượng
và mục đích sử dụng. Những người thuộc thế hệ trước ít học lại thuộc nhiều,
sử dụng thành thục thành ngữ hơn lớp người trẻ tuổi, có học. Nó chứng tỏ một
điều thành ngữ rất gần với tâm thức dân gian. Vì vậy, tiếp cận thành ngữ
muốn chạm tới bản chất của nó phải là cách tiếp cận liên ngành: Ngôn ngữ
học, dân tộc học, tâm lí học, văn học, văn hoá... bởi thành ngữ phản ánh quan
niệm, cách tư duy, cách ứng xử của một dân tộc về các quy luật, hiện tượng tự
nhiên và xã hội.
Qua khảo sát chúng tôi thấy kho tàng thành ngữ, tục ngữ Việt Nam có
rất nhiều thành ngữ chỉ trường nghĩa “ăn”. Việc tìm hiểu các thành ngữ chỉ
Sv: Tr¬ng ThÞ Léng Ngäc
Footer Page 1 of 95.
Líp K32 B – Ng÷ v¨n
Header Page 2 of 95.
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Khãa luËn tèt nghiÖp
trường nghĩa “ăn” trong tiếng Việt là góp tiếng nói vào tìm hiểu lời ăn tiếng
nói sinh động trong hoạt động giao tiếp, trong việc tìm hiểu bản sắc văn hoá
dân tộc.
Khi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi có mong muốn giản dị, nó sẽ là cơ
sở cung cấp cho bản thân nhiều hiểu biết sâu sắc về thành ngữ. Đồng thời kết
quả nghiên cứu được vận dụng vào chuyên môn sẽ đem lại hiệu quả thiết thực
trong nhiều giờ lên lớp. Chính vì vậy, việc đi sâu nghiên cứu đề tài này là việc
làm có giá trị thực tiễn của một giáo viên dạy văn trong tương lai.
2. Lịch sử vấn đề
Trong nền văn hoá dân gian Việt Nam nói chung mà đặc biệt là nền văn
học dân gian nói riêng, chúng ta không thể không đề cập tới kho tàng thành
ngữ của dân tộc. Sự phong phú, đa dạng về số lượng mà quan trọng hơn là
phong phú, sinh động về khả năng sử dụng đã khiến thành ngữ trở thành vốn
sống, vốn kinh nghiệm quý báu trong cách ứng xử của nhân dân ta, gắn với
lời ăn tiếng nói của quần chúng qua bao thế hệ. Để tìm hiểu, phát hiện sự
phong phú và tinh tế của kho tàng văn hóa dân gian đồ sộ này, rất nhiều nhà
nghiên cứu đã dày công sưu tầm và cho ra đời những công trình nghiên cứu
mang tính khoa học với mục đích là thống kê, giải nghĩa, nêu một số ứng
dụng tiêu biểu của các thành ngữ, tục ngữ.
Trên cơ sở sự thống kê rất cụ thể của các công trình nghiên cứu đi
trước, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: Thành ngữ chỉ trường nghĩa
“ăn” trong tiếng Việt. Đây là đề tài khoa học khá mới mẻ và có nhiều điểm
khác so với các công trình nghiên cứu trước đó. Sở dĩ, người thực hiện đề tài
khẳng định điều đó bởi qua sự tìm hiểu, thống kê chúng tôi thấy vấn đề này
đã được các tác giả đi trước nghiên cứu ở những hướng sau:
Sv: Tr¬ng ThÞ Léng Ngäc
Footer Page 2 of 95.
Líp K32 B – Ng÷ v¨n
Header Page 3 of 95.
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Khãa luËn tèt nghiÖp
- Hướng thứ nhất : Tập hợp và giải thích các thành ngữ tiếng Việt. Đây
là công trình nghiên cứu của các tác giả làm từ điển. Tiêu biểu cho hướng này
có các công trình sau:
+ “Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam”, tác giả Vũ Dung, Vũ Thuý
Anh, Vũ Quang Hào, Nxb Văn học, 2008.
+ “Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam”, tác giả G.S Nguyễn Lân,
Nxb Văn học, 2006.
+ “Từ điển giải thích thành ngữ tiếng Việt”, Nguyễn Như Ý (chủ biên),
Hoàng Văn Hành, Lê Xuân Thại, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành,
Nxb Giáo dục, 1998.
- Hướng thứ hai: Nghiên cứu về đặc điểm, cấu trúc của thành ngữ, sưu
tập, phân loại thành ngữ tiếng Việt. Tiêu biểu cho hướng này có công trình:
+ “Thành ngữ học tiếng Việt” của tác giả Hoàng Văn Hành, Nxb Khoa
học xã hội, 2008. Trong công trình này tác giả Hoàng Văn Hành đã nghiên
cứu về đặc điểm, cách phân loại thành ngữ. Đặc biệt, ông dành một chương
riêng để nói về giá trị và nghệ thuật sử dụng thành ngữ qua thơ văn chủ tịch
Hồ Chí Minh. Trong cuốn sách, tác giả còn đưa ra một cái nhìn mới về thành
ngữ từ góc độ của văn hoá học. Cuối cùng, tác giả sưu tập thành ngữ và sắp
xếp chúng theo cách phân loại như đã trình bày ở đầu cuốn sách.
- Hướng thứ ba: Nghiên cứu về đặc điểm cấu trúc của thành ngữ. Tiêu
biểu cho hướng này có các công trình:
+ Tác giả Đỗ Hữu Châu trong cuốn “Từ vựng ngữ nghĩa học tiếng
Việt”, xem xét thành ngữ từ góc độ đặc trưng, đồng thời ông cũng đưa ra cách
phân loại thành ngữ.
+ Tác giả Nguyễn Thiện Giáp với công trình nghiên cứu về vấn đề
phân loại thành ngữ, phân biệt thành ngữ với ngữ định danh và cụm từ tự do.
Sv: Tr¬ng ThÞ Léng Ngäc
Footer Page 3 of 95.
Líp K32 B – Ng÷ v¨n
Header Page 4 of 95.
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Khãa luËn tèt nghiÖp
- Hướng thứ tư: Nghiên cứu các phương diện cụ thể của thành ngữ,
chẳng hạn một số bài viết trên tạp chí ngôn ngữ hay khoá luận tốt nghiệp Đại
học:
+ “Cách thể hiện các phương châm về chất trong thành ngữ tiếng
Việt”, bài viết của ThS. Khuất Thị Lan – Giảng viên tổ ngôn ngữ trường Đại
học Sư phạm Hà Nội 2, đăng trên tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống số 5 - 2005.
Trong bài viết này, người viết đã đề cập đến những thành ngữ thể hiện đúng
phương châm về chất và những thành ngữ vi phạm phương châm này. Bài
viết dừng lại ở việc nghiên cứu phương châm về chất trong nguyên tắc cộng
tác hội thoại của quy tắc điều hành nội dung hội thoại.
+ “Nghĩa của các thành ngữ chứa từ chỉ bộ phận cơ thể người” khoá
luận tốt nghiệp của sinh viên Lê Thị Hồng Hạnh - K26A - Khoa Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. Dựa trên những cơ sở lý thuyết chung
nhất về thành ngữ của các nhà nghiên cứu, khoá luận đã thống kê và phân loại
hơn 300 thành ngữ có chứa từ chỉ bộ phận cơ thể người.
+ “Tìm hiểu thành ngữ tục ngữ thể hiện các quy tắc nói năng của người
Việt” – khoá luận tốt nghiệp của sinh viên Vũ Minh Thảo - K30B - Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. Trong khoá luận này, từ việc tiến hành
phân loại dữ liệu thống kê được theo cơ chế: thành ngữ, tục ngữ thể hiện đúng
các quy tắc hội thoại và thành ngữ, tục ngữ vi phạm các quy tắc hội thoại, tác
giả đã đề cập đến sự thể hiện của các thành ngữ, tục ngữ trong từng quy tắc
hội thoại theo cơ chế đã phân loại.
Rõ ràng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể về thành
ngữ chỉ trường nghĩa “ăn” trong tiếng Việt. Đề tài này, chúng tôi xem xét các
thành ngữ chỉ trường nghĩa “ăn” theo bốn tiêu chí:
- Thành ngữ phản ánh cách lựa chọn thực phẩm.
- Thành ngữ phản ánh cách chế biến thực phẩm.
Sv: Tr¬ng ThÞ Léng Ngäc
Footer Page 4 of 95.
Líp K32 B – Ng÷ v¨n
Header Page 5 of 95.
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Khãa luËn tèt nghiÖp
- Thành ngữ phản ánh cách đánh giá con người.
- Thành ngữ phản ánh quan niệm sống, cách đối nhân xử thế.
Chúng tôi thực hiện đề tài với mong muốn là tìm ra tính chất mới mẻ
và sinh động của thành ngữ trong kho tàng văn hoá dân gian cực kì phong phú
và vô tận của dân tộc.
3. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi nhằm mục đích:
- Thấy được sự phong phú, đa dạng của thành ngữ chỉ trường nghĩa
“ăn” trong kho tàng thành ngữ, tục ngữ Việt Nam theo bốn tiêu chí: Thành
ngữ phản ánh cách lựa chọn thực phẩm; cách chế biến thực phẩm; cách đánh
giá con người; cách đối nhân xử thế và phản ánh quan niệm sống.
- Thấy được kinh nghiệm, vốn sống, vốn hiểu biết cũng như những giá
trị văn hoá tinh thần tàng ẩn trong các thành ngữ chỉ trường nghĩa “ăn”.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đề ra, đề tài này phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Tập hợp những cở sở lý luận có liên quan phục vụ cho đề tài.
- Khảo sát, thống kê, phân loại và mô tả các thành ngữ chỉ trường nghĩa
“ăn” theo bốn tiêu chí ngữ nghĩa.
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Thành ngữ chỉ trường nghĩa “ăn” trong tiếng Việt.
- Phạm vi nghiên cứu: Các thành ngữ có nhiều trong các cuốn từ điển cũng
như trong các tài liệu ngôn ngữ và tác phẩm văn học. Nhưng với đề tài này,
chúng tôi chỉ tập trung khảo sát các thành ngữ chỉ trường nghĩa “ăn” trong ba
cuốn:
1. “Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam” của Vũ Dung, Vũ Thuý
Anh, Vũ Quang Hào, Nxb Văn học, 2008.
2. “Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam” của G.S Nguyễn Lân, Nxb
Văn học, 2006.
Sv: Tr¬ng ThÞ Léng Ngäc
Footer Page 5 of 95.
Líp K32 B – Ng÷ v¨n
Header Page 6 of 95.
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Khãa luËn tèt nghiÖp
3. “Thành ngữ tiếng Việt” - Nguyễn Lực, Lương Văn Đang, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội 1978.
6. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này chúng tôi sử dụng nhiều phương pháp chẳng
hạn, phương pháp thống kê phân loại dùng để liệt kê, phân loại thành ngữ
theo bốn tiêu chí ngữ nghĩa. Phương pháp phân tích dùng để xử lí tư liệu đã
thống kê. Phương pháp hệ thống để tổng hợp lại tất cả tư liệu.
7. Đóng góp của khoá luận
Về mặt lí luận: làm sáng tỏ thành ngữ không chỉ trên phương diên lí
thuyết hàn lâm mà đi xem xét nghĩa của các thành ngữ theo bốn tiêu chí ngữ
nghĩa đã phân loại.
Về mặt thực tiễn: giúp giáo viên cũng như độc giả quan tâm có thêm
một cách tốt để bổ sung cho vốn từ, có cái nhìn đúng đắn, tinh tế, hiệu quả khi
tìm hiểu kho tàng văn hoá dân gian đồ sộ của dân tộc.
8. Bố cục khoá luận
Mở đầu
Nội dung:
- Chương 1: Cơ sở lí thuyết.
- Chương 2: Khái quát về văn hoá ẩm thực của người Việt Nam.
- Chương 3: Miêu tả thành ngữ chỉ trường nghĩa “ăn’ trong tiếng Việt.
Kết luận.
Tài liệu tham khảo.
Sv: Tr¬ng ThÞ Léng Ngäc
Footer Page 6 of 95.
Líp K32 B – Ng÷ v¨n
Header Page 7 of 95.
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Khãa luËn tèt nghiÖp
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Khái quát về thành ngữ
1.1.1. Khái niệm về thành ngữ
Có nhiều quan niệm về thành ngữ, sau đây là một số quan niệm của các
nhà nghiên cứu văn học và ngôn ngữ:
Trong cuốn “Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam”, tác giả Vũ Ngọc Phan
sau khi đi sâu vào phân tích, thống kê những quan niệm của các học giả đi
trước về vấn đề thành ngữ, tác giả đã cung cấp cho ta một cách hiểu về thành
ngữ như sau:
Xét về mặt nội dung: “Thành ngữ là một phần câu sẵn có, nó là một bộ
phận của câu mà nhiều người đã quen dùng, nhưng tự riêng nó không diễn đạt
được một ý trọn vẹn”.
Xét về mặt hình thức ngữ pháp: “Thành ngữ chỉ là nhóm từ, chưa phải
một câu hoàn chỉnh. Thành ngữ là một cụm từ trơn tru, quen thuộc, được
dùng thành câu nói thông thường cũng như được dùng trong tục ngữ, ca dao
dân ca” [ 11,21].
Tác giả Nguyễn Lực, Lương Văn Đang trong cuốn “Thành ngữ tiếng
Việt” nêu lên ba đặc tính của thành ngữ: Thành ngữ tiếng Việt có tính chất cố
định cao; các thành ngữ thường được biểu hiện và sử dụng ở nghĩa bóng là
chủ yếu; các thành ngữ cũng có quá trình vận động, biến đổi. Từ những đặc
tính này các tác giả đi vào phân biệt rõ rệt hai khái niệm thành ngữ và tục
ngữ: “Nội dung của thành ngữ là những khái niệm, nội dung của tục ngữ là
những phán đoán. Quan hệ giữa thành ngữ và tục ngữ là những quan hệ giữa
các hình thức khái niệm và phán đoán. Tục ngữ là một hiện tượng ý thức xã
hội, phản ánh lối sống của thời đại, lối nghĩ của nhân dân, lối nói của dân tộc.
Thành ngữ thuộc hiện tượng ngôn ngữ, là công cụ giao tế chung của cộng
Sv: Tr¬ng ThÞ Léng Ngäc
Footer Page 7 of 95.
Líp K32 B – Ng÷ v¨n
Header Page 8 of 95.
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Khãa luËn tèt nghiÖp
đồng dân tộc. Chính trong lối nghĩ, lối nói của nhân dân thường không thể
nào tách rời hình thức biểu đạt của nó. Chỗ giống nhau và thống nhất với
nhau ở một số đơn vị là chúng có cùng một mô hình biểu đạt cố định”
[10,21,22].
Cách định nghĩa của “Từ điển tiếng Việt” về thành ngữ: “Thành ngữ là
tập hợp từ cố định đã quen dùng mà nghĩa của nó thường không thể giải thích
được một cách đơn giản bằng nghĩa của các từ tạo nên.” [12,1136].
Định nghĩa của tác giả Đỗ Hữu Châu, trong cuốn “Từ vựng ngữ nghĩa
Tiếng Việt”: “Đối chiếu với từ phức và cụm từ tự do, có thể nói: ngữ cố định
là các cụm từ (ý nghĩa có tính chất là ý nghĩa của cụm từ, cấu tạo là cấu tạo
của cụm từ), nhưng đã cố định hoá cho nên cũng có tính chất chặt chẽ, sẵn có,
bắt buộc, có tính xã hội như từ” [ 3,72].
Các tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến trong
cuốn “Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt” định nghĩa thành ngữ như sau:
“Thành ngữ là cụm từ cố định, hoàn chỉnh về cấu trúc và ý nghĩa. Nghĩa của
chúng có tính chất cấu trúc và gợi cảm”. Ví dụ: Ba cọc ba đồng, chó cắn áo
rách, nhà ngói cây mít, bán bò tậu ếch ương, méo miệng đòi ăn xôi vò…
[4,157].
Trong “Từ vựng học tiếng Việt”, tác giả Nguyễn Thiện Giáp định nghĩa
về thành ngữ như sau: “Thành ngữ là những cụm từ cố định vừa có tính hoàn
chỉnh về nghĩa, vừa có tính gợi cảm”.Ví dụ: Chó ngáp phải ruồi, hồn xiêu
phách lạc, thắt lưng buộc bụng, lừ đừ như ông từ vào đền… [6,77]
Bên cạnh nội dung trí tuệ, các thành ngữ bao giờ cũng kèm theo các sắc
thái bình giá, cảm xúc nhất định; hoặc là kính trọng; hoặc là tán thành; hoặc là
chê bai, kinh rẻ; hoặc là ái ngại, xem thường.
Nhìn chung, các tác giả đều nhấn mạnh vào một số đặc trưng riêng của
thành ngữ. Song các tác giả đều gặp gỡ nhau trong quan niệm: Thành ngữ là
Sv: Tr¬ng ThÞ Léng Ngäc
Footer Page 8 of 95.
Líp K32 B – Ng÷ v¨n
Header Page 9 of 95.
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Khãa luËn tèt nghiÖp
một cụm từ cố định, có kết cấu chặt chẽ, có ý nghĩa hoàn chỉnh, bóng bẩy và
gợi cảm.
1.1.2. Phân biệt thành ngữ với các đơn vị từ ghép, cụm từ tự do, tục ngữ
Từ những khái niệm trên ta có thể đi phân biệt thành ngữ với các đơn vị
từ khác như: từ ghép, cụm từ tự do, tục ngữ.
1.1.2.1. Thành ngữ với từ ghép
Từ ghép là từ được tạo ra do sự kết hợp hai hay một số hình vị tách
biệt, riêng rẽ, độc lập đối với nhau theo một quan hệ ngữ pháp hoặc ngữ nghĩa
nào đó. Từ đó thấy rằng, thành ngữ và từ ghép giống nhau ở chỗ chúng đều là
đơn vị tương đương từ, được cấu thành từ nhiều hình vị khác nhau tạo nên
đơn vị có nghĩa. Nhưng giữa chúng lại có sự khác biệt. Ý nghĩa của từ ghép
được suy ra từ tổ hợp ý nghĩa của mỗi đơn vị cấu thành nên từ. Ví dụ: Các từ
ghép: ăn sổi - ăn ngay không đợi đến lúc vừa đủ ngon, hoặc muốn đạt được
kết quả ngay vì nóng vội; ăn không - ăn tiêu mà không làm, lấy không của
người khác bằng thủ đoạn, mánh khoé; ăn nói - nói năng bày tỏ ý kiến; ăn
mày - xin của bố thí để sống; ăn trực - ăn nhờ vào phần của người khác…
Trong khi đó nghĩa của các thành ngữ không thể giải thích được bằng các tổ
hợp nghĩa bộ phận. Chẳng hạn, cũng nói về ăn có các thành ngữ: ăn xổi ở thì,
ăn không nói có, ăn không ngồi rồi, ăn mày đồi xôi gấc, ăn chực nằm chờ…
Ý nghĩa của các thành ngữ này mang tính hình tượng khái quát và được lí giải
trong các văn cảnh cụ thể. Ăn xổi ở thì có thể hiểu: chỉ tính chuyện tạm bợ
trước mắt, không tính đến chuyện lâu dài; ăn không nói có lại hiểu trong ngữ
cảnh: đặt điều không mà nói thành có; ăn không ngồi rồi: chỉ những người chỉ
ăn, không chịu làm, sống không lao động; ăn mày đòi xôi gấc: chỉ những
người không biết thân biết phận, kênh kiệu đài các rởm, đã xin để sống mà
còn đòi người khác phải bố thí cho những thứ cao sang, yêu sách quá cao so
Sv: Tr¬ng ThÞ Léng Ngäc
Footer Page 9 of 95.
Líp K32 B – Ng÷ v¨n
Header Page 10 of 95.
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Khãa luËn tèt nghiÖp
với mức mình đáng được hưởng; ăn chực nằm chờ: chờ đợi, chầu chực lâu
ngày ở nơi nào đó để cầu cạnh, trông chờ điều gì…
1.1.2.2. Thành ngữ với cụm từ tự do
Về kết cấu: cụm từ tự do là sự tổ hợp của các từ theo mối quan hệ ngữ
pháp miễn là các từ có sự phù hợp về nghĩa với nhau. Tức là không bắt buộc,
không có sẵn, có tính chất chặt chẽ không cao. Ví dụ: sẽ học bài, âm mưu và
tình yêu, con người bội bạc… còn những thành ngữ cũng là sự tổ hợp của các
từ nhưng nó là một kết hợp chặt chẽ, có sẵn, bắt buộc rất khó tách rời. Ví dụ:
chuột chạy cùng sào, đâm bị thóc, chọc bị gạo, chim sa cá lặn…
Về ý nghĩa: nghĩa của cụm từ tự do thường miêu tả đặc điểm trạng
thái, tính chất của sự vật, hiện tượng và do ý nghĩa của các yếu tố cấu thành
gộp lại. Ví dụ cụm từ “sức khoẻ tốt” ý nghĩa của từ “tốt” bổ sung cho sức
khoẻ, còn cụm từ “học chăm chỉ” thì “chăm chỉ” bổ nghĩa cho từ học. Nhưng
nghĩa của thành ngữ không bằng tổng số nghĩa của các yếu tố cấu thành cộng
lại mà có tính biểu cảm. Ví dụ “cá nằm trên thớt” không phải miêu tả con cá
nằm trên thớt mà ngụ ý nói đến trạng thái nguy hiểm đến sự sống còn. Hay
các thành ngữ: nước mắt cá sấu - nước mắt giả dối, tức nước vỡ bờ - tất yếu
xảy đến không gì ngăn cản nổi. Cơ chế tạo nghĩa của các thành ngữ được hình
thành từ các phương thức ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, do vậy ý nghĩa của các
thành ngữ thường mang tính biểu trưng.
1.1.2.3. Thành ngữ với tục ngữ
Tục ngữ là những câu ngắn gọn, thường có vần điệu, đúc kết tri thức,
kinh nghiệm sống và thực tiễn của nhân dân. Ví dụ: uống nước nhớ nguồn, ăn
quả nhớ kẻ trồng cây, tốt gỗ hơn tốt nước sơn. So sánh thành ngữ và tục ngữ
ta thấy, chúng giống nhau ở điểm đều có tính chất cố định. Nhưng khác nhau
ở chỗ, thành ngữ là cụm từ dùng để gọi tên sự vật, hiện tượng hay biểu thị
những khái niệm. Còn tục ngữ là câu, là những phán đoán nghệ thuật. Nội
Sv: Tr¬ng ThÞ Léng Ngäc
Footer Page 10 of 95.
Líp K32 B – Ng÷ v¨n
Header Page 11 of 95.
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Khãa luËn tèt nghiÖp
dung của thành ngữ phản ánh những kinh nghiệm về tự nhiên, khoa học, xã
hội và con người. Vì là cụm từ nên thành ngữ là thành phần của câu, còn tục
ngữ là một câu hoàn chỉnh.
Tất cả những so sánh trên nhằm tường minh các đặc trưng cơ bản nhất
của thành ngữ. Đó là tính chất cố định về cấu trúc, có tính biểu trưng về ý
nghĩa, có khả năng gọi tên hay biểu thị khái niệm.
1.2. Đặc điểm của thành ngữ
1.2.1. Đặc điểm kết cấu
Từ những quan niệm trên ta có một cách hiểu: Thành ngữ là một tổ
hợp cố định, bền vững về hình thái - cấu trúc, hoàn chỉnh bóng bẩy về nghĩa,
được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp hàng ngày, đặc biệt trong khẩu ngữ. Ví
dụ: Lẩn như trạch, câm như thóc, lạnh như tiền, đẹp như tiên, xấu như ma…
Tính cố định về hình thái - cấu trúc của thành ngữ được thể hiện ở
những điểm sau:
Một là, thành phần từ vựng của thành ngữ nói chung là ổn định, nghĩa
là các yếu tố tạo nên thành ngữ hầu như được giữ nguyên trong sử dụng, mà
trong nhiều trường hợp không thể thay thế bằng các yếu tố khác. Chẳng hạn,
phải nói: “chân đăm đá chân chiêu” chứ không được nói “chân phải đá chân
trái”, mặc dù “đăm” thời cổ có nghĩa là phải, “chiêu” có nghĩa là trái.
Hai là, tính bền vững về cấu trúc của thành ngữ thể hiện ở sự cố định
trong trật tự các thành tố tạo nên thành ngữ. Ví dụ, thường nói cứng đầu cứng
cổ chứ không nói hoặc rất ít dùng cứng cổ cứng đầu, hoặc tai to mặt lớn,
không nói hoặc ít nói mặt lớn tai to.
Tính bền vững về hình thái - cấu trúc của thành ngữ có nhiều nguyên
nhân khác nhau nhưng xác đáng, hợp lí hơn cả, là ý kiến: tính ổn định, cố
định về thành phần từ vựng và cấu trúc của thành ngữ hình thành là do thói
quen sử dụng của người bản ngữ. Ở một thời kì lịch sử xa xưa nào đó, thành
Sv: Tr¬ng ThÞ Léng Ngäc
Footer Page 11 of 95.
Líp K32 B – Ng÷ v¨n
Header Page 12 of 95.
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Khãa luËn tèt nghiÖp
ngữ mà ngày nay ta sử dụng cũng vốn là những tổ hợp từ tự do. Song nhờ
được tái hiện lặp đi lặp lại nhiều lần trong lời nói với những sự chuyển di ngữ
nghĩa nhất định, nó đã được cộng đồng người bản ngữ ghi nhận và ưa dùng.
Vì thế, dạng ổn định của thành ngữ là dạng chuẩn, mang tính xã hội cao. Tuy
nhiên cũng cần nói thêm rằng dạng chuẩn này của thành ngữ không phải là
bất biến, “là chết cứng” mà trong sử dụng, nó vẫn uyển chuyển, vẫn phát huy
sự sáng tạo của cá nhân, đặc biệt là những cây bút tài năng.
Cho nên, tính bền vững của thành ngữ trong hệ thống chuẩn và tính
uyển chuyển của nó trong sử dụng là hai mặt không hề mâu thuẫn, không hề
loại trừ nhau.
1.2.2. Đặc điểm ý nghĩa
Đặc trưng nổi bật của thành ngữ là tính hoàn chỉnh bóng bẩy về nghĩa.
Nó biểu thị những khái niệm hoặc biểu tượng trọn vẹn về các thuộc tính, quá
trình hay sự vật. Nói một cách khác, thành ngữ là những đơn vị định danh của
ngôn ngữ. Ví dụ: nước mắt cá sấu: nước mắt giả dối; há miệng mắt quai: ở
trạng thái khó nói, vì tự mình đã gây ra điều gay cấn; tức nước vỡ bờ: tất yếu
xảy đến, không gì ngăn cản nổi. Song, khác với các đơn vị từ vựng bình
thường, thành ngữ là loại đơn vị định danh bậc hai, nghĩa là nội dung của
thành ngữ không hướng tới điều được nhắc đến trong nghĩa đen của các từ
ngữ tạo nên thành ngữ, mà ngụ ý điều gì đó suy ra là chúng. Ví dụ thành ngữ
cá nằm trên thớt không phải miêu tả con cá nằm trên thớt như nói cuốn sách
nằm trên bàn, mà ngụ ý nói đến trạng thái nguy hiểm đến sự sống còn. Hay
thành ngữ lạnh như tiền cũng không phải để chỉ đồng tiền lạnh mà ngụ ý chỉ
người có tính cách ít nói, ít bộc lộ cảm xúc trước một vấn đề thường gây xúc
động. Đó là nghĩa bóng hay nghĩa biểu trưng được hình thành từ phương thức
ẩn dụ, so sánh nhờ quá trình biểu trưng hoá.
Sv: Tr¬ng ThÞ Léng Ngäc
Footer Page 12 of 95.
Líp K32 B – Ng÷ v¨n
Header Page 13 of 95.
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Khãa luËn tèt nghiÖp
1.2.3. Các phương thức tạo nghĩa
Nghĩa của thành ngữ tiếng Việt thường được hình thành từ ba phương
thức: ẩn dụ, hoán dụ, so sánh. Dựa vào phương thức so sánh, ta có những
thành ngữ kiểu: nóng như lửa, rõ như ban ngày, tội tày đình, câm như thóc,
lạnh như tiền… Dựa vào phép ẩn dụ, ta có những thành ngữ như: đầu voi đuôi
chuột, mắt tròn mắt dẹt, cá mè một lứa… Dựa vào phép hoán dụ, ta có các
thành ngữ: mồm năm miệng mười, ba chìm bảy nổi, ba cọc ba đồng, đi guốc
trong bụng… Từ các phương thức cấu tạo này, yêu cầu chúng ta khi xem xét
thành ngữ bao giờ cũng phải tìm ý nghĩa biểu trưng, ý nghĩa hàm ẩn sau các
ẩn dụ, so sánh, hoán dụ. Nhờ các phương thức này mà nghĩa của các thành
ngữ bao giờ cũng ngắn gọn, cô đọng, hàm xúc, giàu tính hình tượng và tính
biểu cảm.
1.3. Tiểu kết chương 1
Chúng ta có nhận xét, thành ngữ là một cụm ngữ cố định, có tính gợi
cảm, có tính hoàn chỉnh, bóng bẩy về nghĩa. Ý nghĩa của thành ngữ được tạo
ra từ phương thức ẩn dụ, hoán dụ, so sánh. Đồng thời các đặc điểm về kết cấu,
về ý nghĩa của thành ngữ còn giúp chúng ta khu biệt được thành ngữ với các
đơn vị từ như: từ ghép, cụm từ tự do, tục ngữ. Điều này có tác dụng rất lớn
trong việc tìm hiểu và miêu tả thành ngữ chỉ trường nghĩa “ăn” trong tiếng
Việt.
Sv: Tr¬ng ThÞ Léng Ngäc
Footer Page 13 of 95.
Líp K32 B – Ng÷ v¨n
Header Page 14 of 95.
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Khãa luËn tèt nghiÖp
CHƯƠNG 2:
KHÁI QUÁT VỀ VĂN HOÁ ẨM THỰC CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
Thành ngữ là một bộ phận quan trọng của tiếng Việt. Nó thể hiện
những đặc trưng văn hoá, tư duy của một dân tộc. Thành ngữ chiếm một số
lượng lớn với tư cách là một đơn vị tiếng Việt. Qua những thành ngữ còn lưu
lại trong nhân dân ta đã được các tác giả đi trước thống kê trong các cuốn từ
điển, phần nào hé mở về một trong những lĩnh vực của đời sống con người,
những giá trị văn hoá truyền thống. Đó là quan niệm về “ăn”, sự ăn. Đề cập
tới cái ăn, sự ăn cũng chính là đề cập đến khía cạnh ẩm thực, vốn là câu
chuyện hàng ngày rất gần gũi và cũng rất đời thường. Quan niệm về cái ăn, sự
ăn được gắn với nhiều lĩnh vực, nhiều hệ thống giá trị ăn - nói, ăn - ở, ăn làm, ăn -mặc... “ăn” như quả cân để đo các giá trị văn hoá khác, để phân định
phẩm chất tốt - xấu, khinh - trọng, sang - hèn, hoặc gợi ra những lời khuyên
nên thế này, đừng nên thế nọ... những thước đo giá trị ấy cũng chính là nội
dung, là tiêu chí được phản ánh thông qua những thành ngữ chỉ trường nghĩa
“ăn”. Bởi thế, khi tìm hiểu đề tài Thành ngữ chỉ trường “ăn” trong tiếng
Việt, chúng tôi nhận thấy đề tài đang nghiên cứu đã chạm tới lĩnh vực văn
hoá ẩm thực của dân tộc ta. Đây là lý do chúng tôi dành chọn chương 2 của
khoá luận này để khái quát đôi nét về văn hóa ẩm thực của người Việt Nam
trước khi đi thống kê, miêu tả các thành ngữ chỉ trường nghĩa “ăn” trong tiếng
Việt.
2.1. Vài nét về văn hoá ẩm thực của người Việt
Theo “Từ điển Việt Nam thông dụng”, ẩm thực chính là ăn uống, là
hoạt động để cung cấp năng lượng cho con người sống và hoạt động. Chính vì
vậy nói đến văn hoá ẩm thực là nói đến việc ăn uống cùng với nguồn gốc và
lịch sử của nó.
Sv: Tr¬ng ThÞ Léng Ngäc
Footer Page 14 of 95.
Líp K32 B – Ng÷ v¨n
Header Page 15 of 95.
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Khãa luËn tèt nghiÖp
Ăn uống là chuyện hằng ngày mà cũng là chuyện muôn đời gắn liền
với con người ngay từ buổi sơ khai nguyên thuỷ. Nên, vào thời điểm ấy ăn
uống chỉ là một hoạt động sinh học, một phản ứng tự nhiên không điều kiện
của con người. Con người khi đó chỉ ăn theo bản năng, ăn để duy trì sự sống
và bảo tồn giống nòi. Thời kỳ này việc ăn uống chưa có chọn lọc, con người
ăn tất cả những gì kiếm được và đặc biệt là ăn sống, uống sống. Cùng với sự
phát triển của con người thì hoạt động nghệ thuật trong ăn uống hay ẩm thực
cũng dần thay đổi theo tích cực với sự đa dạng của các món ăn và cách chế
biến.
Nếu trước kia các món ăn chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu ăn cho no miệng,
giống như “có thực mới vực được đạo” thì bây giờ con người quan tâm đến
tính thẩm mĩ của món ăn, ăn bằng mắt, bằng mũi và bằng tất cả những giác
quan của cơ thể... Vì thế đồ ăn, thức uống được người đầu bếp chế biến, bày
biện một cách cầu kì hơn, đặc sắc hơn và nấu ăn cũng như thưởng thức món
ăn trở thành một nghệ thuật. Ẩm thực không chỉ là sự tiếp cận về góc độ văn
hóa vật chất mà còn chứa đựng trong đó văn hoá tinh thần.
Theo nghĩa rộng, “Văn hoá ẩm thực” là một phần văn hoá nằm trong
tổng thể, phức thể các đặc trưng, diện mạo về vật chất tinh thần, tri thức, tình
cảm... khắc họa một số nét cơ bản, đặc sắc của một cộng đồng, gia đình, làng
xóm, vùng miền, quốc gia ... Nó chi phối một phần không nhỏ trong cách ứng
xử và giao tiếp của một cộng đồng, tạo nên đặc thù của cồng đồng ấy. Trên
bình diện văn hoá tinh thần, văn hoá ẩm thực là cách ứng xử, giao tiếp trong
ăn uống và nghệ thuật chế biến thức ăn, ý nghĩa, biểu tượng tâm linh trong
món ăn đó. Qua ăn uống có thể nhận ra con người đối xử với nhau như thế
nào.
Theo nghĩa hẹp, “Văn hoá ẩm thực” là những tập quán và khẩu vị của
con người, những ứng xử của con người trong ăn uống; những tập tục kiêng
Sv: Tr¬ng ThÞ Léng Ngäc
Footer Page 15 of 95.
Líp K32 B – Ng÷ v¨n
Header Page 16 of 95.
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Khãa luËn tèt nghiÖp
kị trong ăn uống; những phương thức chế biến, bày biện trong ăn uống và
cách thưởng thức món ăn.
Theo Wikipedia, ẩm thực Việt Nam là cách gọi của phương thức chế
biến món ăn, nguyên lí phối trộn gia vị và những thói quen ăn uống nói chung
của mọi người Việt trên đất nước Việt Nam. Tuy hầu như có ít nhiều sự khác
biệt, ẩm thực Việt Nam vẫn bao hàm ý nghĩa khái quát nhất để chỉ tất cả
những món ăn phổ biến trong cộng động các dân tộc thiếu số nhưng đã tương
đối phổ thông trong cộng đồng người Việt.
Nhìn chung, các cách hiểu trên về văn hoá ẩm thực đều nhằm hướng
đến một nhận định chung: văn hoá ẩm thực là một phần của văn hoá ứng xử,
thể hiện những thói quen ăn uống và cách thức chế biến món ăn của mỗi dân
tộc, mỗi khu vực khác nhau. Hiểu và sử dụng đúng các món ăn sao cho có lợi
cho sức khoẻ nhất của gia đình và bản thân cũng như thẩm mỹ nhất luôn là
mục tiêu hướng đến của mỗi con người.
2.2. Bản sắc ẩm thực của người Việt
2.2.1. Quan niệm của người Việt Nam về ẩm thực
Văn hoá ẩm thực là một biểu hiện quan trọng trong đời sống con người,
nó cũng hàm chứa những ý nghĩa triết lý. Từ xa xưa, ông cha ta đã tổng kết
thành câu tục ngữ: “học ăn, học nói, học gói, học mở” chủ yếu nhằm nhắc
nhở những người trẻ tuổi mới bước vào đời thì khâu đầu tiên là “học ăn”. Ở
các nước khác trên thế giới, ngoài quan niệm dân gian thì các nhà chuyên
môn, những người yêu thích, am hiểu ẩm thực đều bàn luận, viết những tài
liệu, những cuốn sách về nghệ thuật ăn uống.
Đối với người Việt, cái ăn là cái ăn văn hoá, nó có một ý nghĩa sâu sắc
và liên quan đến mọi mặt của đời sống xã hội. Người Việt cho rằng: “có thực
mới vực được đạo”, đây là một đặc điểm hết sức biện chứng, coi đó là tiền đề
để con người có thể bước vào các lĩnh vực hoạt động khác. Việc ăn là việc
Sv: Tr¬ng ThÞ Léng Ngäc
Footer Page 16 of 95.
Líp K32 B – Ng÷ v¨n
Header Page 17 of 95.
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Khãa luËn tèt nghiÖp
trọng mà mỗi người, kể cả trời đất, thánh thần đều phải tôn trọng việc ăn.
Điều đó thể hiện ở câu nói: “Trời đánh còn tránh miếng ăn” và người Việt
cũng đối xử với thánh thần thông qua lễ vật dâng cúng. Những đồ ăn, thức
uống dùng trong dâng cúng thì đồ ăn chiếm vị trí quan trọng số một; người
trần gian, con cháu trong nhà không được phép ăn trước nếu như chưa cúng tổ
tiên, thần thánh. Những đồ ăn, thức uống dùng trong dâng cúng được nấu
nướng rất cẩn thận, chu đáo, tươn tất, bày biện trang trọng bằng thái độ và
tình cảm thành kính, thiêng liêng trong cử chỉ, lời nói và ánh mắt. Phải chăng
do cái ăn có ý nghĩa quan trọng như vậy mà trong vốn từ ngữ của người Việt
Nam khi gắn với mọi hành động đều lấy ăn làm đầu: ăn uống, ăn mặc, ăn nói,
ăn chơi, ăn tiêu, ăn nằm, ăn ngủ, ăn cắp, ăn trộm, ăn ở… Thực ra, không hẳn
như vậy, đó chỉ là một hình thức ngữ pháp trong tiếng Việt mà thôi. Bởi vì,
người Việt lấy bữa ăn làm mốc cho việc phân chia thời gian và công việc
trong một ngày.
Không chỉ tuân theo những quy tắc chung trong việc ăn uống, đối với
người Việt Nam, ăn uống có ý nghĩa nội tại trong mọi hoạt động đời sống,
trong mọi sinh hoạt vật chất và tình cảm con người, thể hiện trong quan niệm
về ăn đúng, ăn ngon và ăn đẹp. Người Việt rất hiếu khách, có khách đến đúng
bữa cơm thêm bát thêm đũa thành thực mời ăn cùng. Đôi khi sự hiếu khách
còn thể hiện ở hiện ở việc mời khách đến nhà dùng cơm thể hiện nét văn hoá
giữa người với người trong xã hội. Khi có dịp tổ chức ăn uống, gia chủ
thường làm những món ăn thật ngon, nấu thật nhiều để đãi khách. Chủ nhà
thường gắp thức ăn mời khách tránh việc dừng đũa trước trước khách, và có
lời mời ăn thêm khi khách dừng bữa. Bữa cơm thết khách không chỉ là cuộc
vui mà còn thể hiện tấm lòng hiếu khách đặc trưng của người Việt. Ngoài ra,
bữa ăn chính là lúc cả gia đình đoàn tụ, chuyện trò thân mật, kiêng tiếng mắng
mỏ: “Trời đánh còn tránh miếng ăn”. Bữa “cơm nhà” là cách gọi tên hai bữa
Sv: Tr¬ng ThÞ Léng Ngäc
Footer Page 17 of 95.
Líp K32 B – Ng÷ v¨n
Header Page 18 of 95.
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Khãa luËn tèt nghiÖp
chính: bữa trưa và bữa tối. Đó là một không gian gia đình đầm ấm, xum vầy
để các thành viên gắn bó, quây quần với nhau bên bàn ăn sau một ngày làm
việc mệt nhọc. Mặc dù không tồn tại sự phân chia đẳng cấp, nhưng qua cách
quan sát vị trí bên mâm cơm, bên bàn ăn cũng phản ánh, biểu hiện ngôi thứ,
sự tôn trọng trong gia đình và ngoài xã hội. Có những quy định bất thành văn.
Người mẹ hay con dâu trưởng thường ngồi bên mâm cơm xới cơm cho cả
nhà, xới cơm dẻo cho ông bà, cha mẹ. Những người phụ nữ này, họ đảm
nhiệm vai trò nội tướng trong gia đình và trong bữa cơm, họ cũng đồng thời là
người bổ sung thức ăn, tiếp thức ăn cho mọi người. Người việt trước khi ăn,
có lời mời “xơi” cơm đối với người hơn tuổi mình, ăn xong phải có lời “xin
phép” rồi mới đứng dậy. Và dù ai cũng vậy, khi ngồi vào bàn ăn là luôn có ý
thức nhường nhịn nhau, ưu tiên thức ăn ngon cho người lớn tuổi, trẻ nhỏ
“kính trên nhường dưới”, thể hiện sự kính trọng, tình cảm yêu thương. “Ăn
trông nồi, ngồi trông hướng” cũng là một tiêu chí bắt buộc thể hiện nét đẹp
trong ứng xử ẩm thực của mỗi người Việt.
Giống như nhiều nước trong khu vực, ẩm thực Việt Nam thể hiện sự
cân bằng, hài hoà giữa thiên nhiên và con người, giữa âm và dương, giữa hàn
và nhiệt. Những đồ ăn, thức uống của người Việt thường có tác dụng bổ trợ,
nâng cao sức khoẻ và chữa một số bệnh thông thường như ho, cảm cúm, các
bệnh có liên quan đến dạ dày… Như vậy, có thể thấy quan niệm về ẩm thực
của người Việt ít nhiều mang tính triết lý, và tìm hiểu về ẩm thực cho ta nhiều
hiểu biết về các lĩnh vực khác thuộc về văn hoá.
Và sau cùng, để tạo nên một món ngon, một bữa ngon theo người Việt
còn phụ thuộc vào sự sắp xếp khéo léo của người đầu bếp từ khâu chuẩn bị
nguyên liệu đến kĩ thuật chế biến món ăn. Người đầu bếp bằng kinh nghiệm
của mình phải tính toán, ước lượng sao cho nguyên liệu vừa đủ số khách ăn,
ăn no, ăn đủ song vẫn không chán, không ngán. Nấu món nào trước, món nào
Sv: Tr¬ng ThÞ Léng Ngäc
Footer Page 18 of 95.
Líp K32 B – Ng÷ v¨n
Header Page 19 of 95.
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Khãa luËn tèt nghiÖp
sau phải hợp lí, thứ tự, cùng với thái độ nấu ăn vui vẻ hứng khởi tạo nên món
ăn ngon bởi vị, bởi tình. Khi dọn ăn, nên chú ý có lời mời chào, tiếp món ăn
chu đáo, ý vị càng làm cho món ăn ngon thêm bội phần. Có lẽ, xuất phát từ
quan niệm ứng xử đẹp như vậy mà cha ông ta vẫn thường nhắc nhở con cháu
rằng: “ăn có mời làm có khiến”, “lời chào cao hơn mâm cỗ”… và khi cuộc
sống con người được nâng lên thì ẩm thực cũng là một tiêu chí để đánh giá
chất lượng cuộc sống.
2.2.2. Đặc trưng
Việt Nam là một nước nông nghiệp thuộc về xứ nóng, vùng nhiệt đới
gió mùa. Chính các đặc điểm văn hoá, dân tộc, khí hậu đã quy định những đặc
điểm riêng của ẩm thực Việt Nam. Đây là một nền ẩm thực với nét đặc trưng
về nguồn nguyên liệu vô cùng đa dạng và phong phú, là cơ sở tạo nên chủng
loại món ăn có sự biến hoá cho phù hợp với khẩu vị của từng địa phương.
Nguồn nguyên liệu dồi dào, phong phú góp phần hình thành nền một văn hoá
ăn uống sử dụng rất nhiều loại rau (có thể chế biến thành các món luộc, xào,
làm dưa, ăn sống); nhiều loại nước canh đặc biệt là canh chua, trong khi đó số
lượng các món ăn có dinh dưỡng từ động vật thường ít hơn. Những loại thịt
được dùng phổ biến là thịt lợn, bò, ngan, gà, vịt, các loại tôm, cua, cá, ốc, hến,
trai, sò… Những món ăn chế biến từ những loại thịt ít thông dụng hơn như
chó, dê, rùa, thịt rắn, ba ba, lươn… thường không phải là nguồn thịt chính,
nhiều khi được coi là đặc sản và chỉ sử dụng trong một dịp liên hoan nào đó
với rượu uống cùng. Người Việt cũng có nhiều món ăn chế biến từ các loại
củ, quả, hạt in đậm dấu ấn của nền văn minh lúa nước.
Ẩm thực Việt Nam còn đặc trưng bởi cách chế biến tinh xảo, phối trộn
nguyên liệu không quá cay, quá ngọt hay quá béo. Các nguyên liệu phụ (gia
vị) để chế biến món ăn Việt Nam rất phong phú, bao gồm nhiều loại rau thơm
như húng thơm, tía tô, kinh giới, hành, thì là, mùi tàu…; gia vị thực vật như
Sv: Tr¬ng ThÞ Léng Ngäc
Footer Page 19 of 95.
Líp K32 B – Ng÷ v¨n
Header Page 20 of 95.
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Khãa luËn tèt nghiÖp
ớt, sả, hạt tiêu, gừng, nghệ, tỏi, chanh quả hoặc lá non; các gia vị hữu cơ len
men như mẻ, mắm tôm, dấm, thính gạo, bỗng rượu, kẹo đắng, nước cốt
dừa…; các gia vị có nguồn gốc hữu cơ hoặc vô cơ như đường, muối, bột ngọt,
các loại dầu ăn, mỡ nước… Gia vị đặc trưng của các dân tộc Đông Nam Á
nhiệt đới nói trên được sử dụng một cách hài hoà với nhau và thường thuận
theo nguyên lý “âm dương phối triển”, như món ăn dễ gây lạnh bụng buộc
phải có gia vị cay nóng đi kèm. Các món ăn kị nhau không thể kết hợp trong
một món hay không được ăn cùng lúc vì không ngon hoặc có khả năng gây
hại cho sức khoẻ cũng được dân gian đúc kết thành nhiều kinh nghiệm lưu
truyền qua nhiều thế hệ. Khi thưởng thức món ăn, đặc trưng phối trộn nguyên
liệu một cách tổng hợp, hài hoà nói trên càng trở nên rõ nét hơn: Người Việt ít
khi ăn món nào riêng biệt, hay thưởng thức từng món, mà một bữa ăn thường
là sự tổng hoà các món ăn từ đầu đến cuối bữa ăn. Sự đa dạng về nguyên liệu
nấu ăn cũng chính là điều thách thức những người nội trợ đảm đang phải là
người khéo léo trong lựa chọn nguyên liệu. Đó là nguyên nhân vì sao trong
kho tàng thành ngữ, tục ngữ của nhân dân ta lại có khá nhiều thành ngữ chỉ
trường nghĩa “ăn” phản ánh cách lựa chọn thực phẩm và cách chế biến thực
phẩm vừa dễ nhớ, dễ thuộc lại vô cùng có lý.
Ẩm thực Việt Nam ít nhiều cũng phân biệt với ẩm thực của một số
nước khác, nó chú trọng ăn ngon tuy đôi khi không đặt mục tiêu hàng đầu là
ăn bổ. Bởi thế, trong hệ thống ẩm thực người Việt ít có những món chế biến
quá cầu kỳ, hầm nhừ ninh kĩ như ẩm thực Trung Hoa, cũng không thiên về
bày biện có tính thẩm mỹ cao độ như ẩm thực Nhật Bản, mà thiên về phối
trộn gia vị một cách tinh tế để món ăn được ngon, hoặc sử dụng những
nguyên liệu dai, giòn, thưởng thức rất thú vị dù không thực sự bổ béo (ví dụ
như các món chân gà, cánh gà, măng, phủ tạng động vật…). Món ăn Việt
Nam được biết đến bởi các đặc trưng về tính chất như : Thanh đạm; đậm đà;
Sv: Tr¬ng ThÞ Léng Ngäc
Footer Page 20 of 95.
Líp K32 B – Ng÷ v¨n
- Xem thêm -