Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thần thoại, truyền thuyết về hình thành dân tộc quốc gia việt nam...

Tài liệu Thần thoại, truyền thuyết về hình thành dân tộc quốc gia việt nam

.PDF
60
90
100

Mô tả:

Header Page 1 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ********** TRẦN THỊ THÙY THẦN THOẠI, TRUYỀN THUYẾT VỀ SỰ HÌNH THÀNH DÂN TỘC - QUỐC GIA VIỆT NAM KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Việt Nam học HÀ NỘI - 2010 1 Footer Page 1 of 95. TrÇn ThÞ Thïy Header Page 2 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ********** TRẦN THỊ THÙY THẦN THOẠI, TRUYỀN THUYẾT VỀ SỰ HÌNH THÀNH DÂN TỘC - QUỐC GIA VIỆT NAM KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Việt Nam học Người hướng dẫn khoa học GS. TS NGUYỄN ĐỨC NINH HÀ NỘI – 2010 2 Footer Page 2 of 95. TrÇn ThÞ Thïy Header Page 3 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận “Thần thoại, truyền thuyết về sự hình thành dân tộc - quốc gia Việt Nam”, ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản thân, tôi xin gửi lời cám ơn chân thành tới ban lãnh đạo khoa Ngữ văn cùng tập thể các cán bộ giảng viên trong khoa Ngữ văn trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 đã trực tiếp giảng dạy tôi trong quá trình học tập tại trường. Đặc biệt tôi gửi lời cảm ơn sâu sắc tới GS.TS Nguyễn Đức Ninh đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo tôi về mặt chuyên môn để tôi hoàn thành khóa luận. Hà Nội, ngày tháng năm 2010 Tác giả khóa luận Trần Thị Thùy 3 Footer Page 3 of 95. TrÇn ThÞ Thïy Header Page 4 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp LỜI CAM ĐOAN Khóa luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của GS.TS Nguyễn Đức Ninh. Tôi xin cam đoan rằng: Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những tư liệu được trích dẫn trong khóa luận là trung thực. Khóa luận không sao chép từ một tài liệu, công trình nào có sẵn, chưa từng được công bố. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày tháng năm 2010 Tác giả khóa luận Trần Thị Thùy 4 Footer Page 4 of 95. TrÇn ThÞ Thïy Header Page 5 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề .................................................. ...................................... 1 3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................... 1 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................ 2 5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 2 6. Đóng góp của khóa luận .......................................................................... 2 7. Cấu trúc của khóa luận ............................................................................ 2 NỘI DUNG ................................................................................................. 3 CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VĂN HÓA VIỆT NAM THỜI TIỀN SỬ VÀ SƠ SỬ TRONG KHUNG CẢNH VĂN HÓA KHU VỰC ĐÔNG NAM Á ........................................................................................... 3 1.1. Môi trường địa lí Việt Nam - Đông Nam Á ........................................... 3 1.1.1. Vị trí địa lí, địa hình ........................................................................... 3 1.1.2. Khí hậu ............................................................................................... 4 1.1.3. Sông ngòi ........................................................................................... 4 1.1.4. Sinh vật .............................................................................................. 4 1.2. Không gian văn hóa Đông Nam Á qua các tài liệu khảo cổ học............. 5 1.2.1.Con người, chủ thể của nền văn hóa Việt Nam - Đông Nam Á ............ 5 1.2.2. Một số thành tựu văn hóa thời tiền sử và sơ sử ................................... 7 1.2.2.1. Văn hóa vật chất .............................................................................. 8 1.2.2.2. Văn hóa tinh thần ............................................................................ 11 5 Footer Page 5 of 95. TrÇn ThÞ Thïy Header Page 6 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp CHƯƠNG 2. THẦN THOẠI, TRUYỀN THUYẾT VỀ SỰ HÌNH THÀNH DÂN TỘC - QUỐC GIA TỪ THỜI ĐẠI HÙNG VƯƠNG ĐẾN THỜI ĐẠI AN DUƠNG VƯƠNG ................................................................................. 17 2.1. Thời đại lịch sử...................................................................................... 17 2.1.1. Thời kì Văn Lang ............................................................................... 17 2.1.2. Thời kì Âu Lạc ................................................................................... 18 2.2. Thần thoại, truyền thuyết về sự hình thành dân tộc - quốc gia thời đại Hùng Vương ................................................................................................ 19 2.3. Thần thoại, truyền thuyết về sự hình thành quốc gia - dân tộc thời đại An Dương Vương......................................................................................... 34 KẾT LUẬN.................................................................................................. 39 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 43 PHỤ LỤC: MỘT SỐ THẦN THOẠI, TRUYỀN THUYẾT TIÊU BIỂU THỜI ĐẠI HÙNG VƯƠNG VÀ AN DƯƠNG VƯƠNG. 6 Footer Page 6 of 95. TrÇn ThÞ Thïy Header Page 7 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Dân tộc Việt Nam có một truyền thống dựng nước và giữ nước trong suốt bốn ngàn năm lịch sử. Tìm hiểu quá trình hình thành dân tộc và quốc gia Việt Nam có ý nghĩa khoa học thiết thực và cần thiết. Để dựng lại quá trình dựng nước của Việt Nam từ những buổi đầu cần có sự nghiên cứu tổng hợp của nhiều ngành khoa học khác nhau. Nghiên cứu sự hình thành dân tộc quốc gia Việt Nam qua dẫn liệu thần thoại, truyền thuyết góp phần làm sáng tỏ thêm văn hóa Việt Nam trong quá trình dựng nước của dân tộc, để bồi đắp cao hơn lòng tự hào dân tộc trong lịch sử Việt Nam. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, tôi chọn đề tài “Thần thoại, truyền thuyết về sự hình thành dân tộc - quốc gia Việt Nam” làm khóa luận tốt nghiệp cho mình. 2. Lịch sử vấn đề Các văn bản thần thoại và truyền thuyết là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, đã có rất nhiều công trình khoa học đề cập đến vấn đề này như: Nguyễn Đổng Chi - Lược khảo thần thoại Việt Nam, Cao Huy Đỉnh - Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, Mai Ngọc Chừ - Văn hóa Đông Nam Á..v..v...Tiếp thu những thành quả của các tác giả đi trước, với đề tài này, người viết muốn đóng góp một phần công sức nhỏ bé đi vào phân tích các dẫn liệu văn học dân gian cụ thể là thể loại thần thoại và truyền thuyết để thấy lịch sử hình thành dân tộc - quốc gia cổ đại Việt Nam. 3. Mục đích nghiên cứu Phân tích các văn bản thần thoại và truyền thuyết Việt Nam phản ánh quá trình ra đời, hình thành dân tộc - quốc gia cổ đại Việt Nam nhằm tìm hiểu lịch sử, văn hóa Việt Nam, củng cố lòng tự hào, tự tôn dân tộc trong kỉ nguyên hội nhập quốc tế. 7 Footer Page 7 of 95. TrÇn ThÞ Thïy Header Page 8 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là các văn bản thần thoại và truyền thuyết trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Nghiên cứu sự hình thành dân tộc - quốc gia được giới hạn trong những văn bản thần thoại, truyền thuyết đã xuất bản ở Việt Nam. 5. Phương pháp nghiên cứu Khóa luận sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp liên ngành. Phương pháp so sánh đối chiếu. 6. Đóng góp của khóa luận Khóa luận góp phần tìm hiểu một cách khái quát về lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc - quốc gia Việt Nam và xem xét, đánh giá lịch sử đó duới góc nhìn văn hóa. Khóa luận góp phần giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào tự tôn dân tộc. Khóa luận có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy và nghiên cứu văn học ở các trường học. 7. Cấu trúc của khóa luận Khóa luận được cấu trúc thành hai chương ngoài phần Mở đầu, Kết luận Tài liệu tham khảo và Phụ lục: Chương 1: Khái quát văn hóa Việt Nam thời tiền sử và sơ sử trong khung cảnh văn hóa Đông Nam Á. Chương 2: Thần thoại, truyền thuyết về sự hình thành dân tộc - quốc gia Việt Nam từ thời đại Hùng Vương đến thời đại An Dương Vương. NỘI DUNG CHƯƠNG 1 8 Footer Page 8 of 95. TrÇn ThÞ Thïy Header Page 9 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp KHÁI QUÁT VĂN HÓA VIỆT NAM THỜI TIỀN SỬ VÀ SƠ SỬ TRONG KHUNG CẢNH VĂN HÓA KHU VỰC ĐÔNG NAM Á 1.1. Môi trường địa lí Việt Nam - Đông Nam Á Cội nguồn văn hóa Việt Nam gắn bó chặt chẽ với Đông Nam Á tiền sử và sơ sử, vì thế chiều thời gian và chiều không gian của tọa độ văn hóa Việt Nam cần phải được mở rộng tương ứng với Đông Nam Á tiền sử và sơ sử để qua đó có thể thấy được tầm vóc lớn lao và vị thế quan trọng của những thành quả văn hóa mà cư dân Việt cổ đã tạo dựng nên ở khu vực này trong buổi bình minh của lịch sử. So với Đông Nam Á hiện đại thì Đông Nam Á tiền sử rộng lớn hơn nhiều. Ở giai đoạn khởi đầu, với không gian rộng lớn ấy, cư dân Việt cổ cùng các cộng đồng sắc tộc khác đã ra sức phát huy nội lực để cải biến hoàn cảnh tự nhiên và hoàn thiện hoàn cảnh xã hội nhằm xây dựng một cuộc sống phong phú, đa dạng, mang đậm màu sắc bản địa khu vực. 1.1.1. Vị trí địa lí, địa hình Đông Nam Á cổ đại bao gồm các vùng đất liền trên bán đảo Trung Ấn và quần đảo lớn Malaya, xen kẽ hoặc liền kề là Biển Đông, Biển Giava, Biển Anđaman. Eo Malắcca nối Biển Đông với Biển Anđaman thuộc Ấn Độ Dương với Tây Âu và Châu Phi. Nếu như ở Đông Nam Á có sự khu biệt giữa lục địa và hải đảo thì ở Việt Nam, do vị thế trải dài trên bán đảo Đông Dương men theo bờ biển Đông, một bên là biển (phía Đông), một bên là núi (phía Tây), giữa là đồng bằng, đã trở thành cây cầu nối giữa lục địa và hải đảo, đồng thời cũng là cầu nối giữa cao nguyên Vân Quý, Biển Đông và các quần đảo. 9 Footer Page 9 of 95. TrÇn ThÞ Thïy Header Page 10 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp Xét về mặt địa hình, Việt Nam có đủ 5 cảnh quan: núi, cao nguyên, thung lũng, đồng bằng châu thổ và vùng duyên hải kéo dài từ vịnh Bắc Bộ đến vịnh Thái Lan với cùng với một hệ thống đảo. 1.1.2. Khí hậu Khu vực Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng có khí hậu cận xích đạo là chủ yếu, miền đất này về mùa hè có gió từ biển thổi vào tạo nên mưa nhiều và thường có bão; mùa đông có gió Đông Bắc từ lục địa thổi ra, thời tiết khô ráo. Điều kiện nóng ẩm mưa nhiều và có gió mùa là hằng số tự nhiên văn hóa Đông Nam Á, và chính nó đã góp phần tạo nên đặc trưng của văn hóa Đông Nam Á - nền văn hóa thực vật hay nền văn minh nông nghiệp lúa nước. 1.1.3. Sông ngòi Sự cấu tạo đặc biệt của địa hình Đông Nam Á đã tạo thành một hệ thống sông ngòi đặc biệt với một mạng lưới thủy đồ dày đặc cũng như sự xuất hiện những nguồn nước ngầm dồi dào trên toàn lãnh thổ của vùng. Lượng nước sông ngòi là một bộ phận quan trọng trong tài nguyên nước của lãnh thổ. Đối với một lãnh thổ rộng lớn như Đông Nam Á trong vùng nhiệt đới gió mùa thì lượng nước sông ngòi được coi là một nguồn tài nguyên vô giá. Vì vậy hệ thống sông ngòi của Đông Nam Á có một vị trí quan trọng đặc biệt, bên cạnh các dòng sông, nền văn minh lúa nước ra đời, phát triển và đạt được những thành tựu rực rỡ. 1.1.4. Sinh vật Đông Nam Á tiền sử có hệ sinh thái đặc biệt phong phú đa dạng với những quần thể thực vật và động vật vô cùng quý hiếm với các loài cây cho gỗ đẹp, rắn như sắt: lim, táu, lát, chò nâu, sao đen; các loài cây hương liệu, gia vị đặc sản như: trầm hương, hồ tiêu; các loài động vật hoang dã và thủy hải sản có giá trị về nhiều mặt như: voi, tê giác, hổ, báo… 10 Footer Page 10 of 95. TrÇn ThÞ Thïy Header Page 11 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp Bên cạnh hệ sinh thái đặc trưng cho nhiệt đới và cận nhiệt, bằng sức lao động cần cù và tài trí sáng tạo, cư dân Đông Nam Á tiền sử đã sớm kiến tạo được hệ sinh thái đặc biệt phong phú, trong đó nổi bật nhất là các giống lúa nước và một phức hệ cây ăn quả thơm ngon, giàu dinh dưỡng, các loại cây cung ứng nguyên liệu cho sản xuất thủ công nghiệp như cây dó (khai thác trầm, làm giấy), cây sơn (cho nhựa để gắn kết làm đồ sơn)… Tựu chung lại, môi trường tự nhiên Đông Nam Á tiền sử và sơ sử trong đó bao gồm cả Việt Nam, một mặt nhìn chung có nhiều thuận lợi cho sự sinh tồn và phát triển của cư dân bản địa, mặt khác có thể thấy thiên nhiên ở đây tuy hào phóng nhưng cũng khá dữ dằn. Bão tố, lụt lội, nắng lửa, mưa dầu… là những thử thách mà cư dân bản địa thường xuyên phải đối mặt, phải tìm cách vượt qua để trụ lại và tiếp tục tiến lên. 1.2. Không gian văn hóa Đông Nam Á qua các tài liệu khảo cổ học 1.2.1. Con người, chủ thể của nền văn hóa Việt Nam - Đông Nam Á Những kết quả nghiên cứu gần đây của nhân chủng học và khảo cổ học trong cũng như ngoài nước cho thấy Đông Nam Á tiền sử là một trong những cái nôi sinh tụ sớm nhất của loài người, nơi chuyển biến từ vượn thành người. Ở Pondaung (Mianma) đã phát hiện dấu vết hóa thạch vượn bậc cao có niên đại cách đây 40 triệu năm, dấu vết hóa thạch vượn khổng lồ cũng đã được tìm thấy ở Giava (Inđônêxia) sống cách ngày nay khoảng 5 triệu năm. Vào khoảng năm 1891 - 1893 Engène Dubois, bác sĩ quân y người Hà Lan đã phát hiện di cốt hóa thạch của dạng người Pithecanthrope ở làng Trinil thuộc miền trung đảo Giava; sau đó nhiều di cốt hóa thạch của Pithecanthrope đã tiếp tục được phát hiện với niên đại từ 2 triệu năm cách ngày nay. Dấu vết của người tối cổ kèm theo công cụ đá thô sơ cũng đã được tìm thấy ở hang Thẩm Khuyên, Thẩm Khai - hai hang động trong dãy núi đá vôi thuộc huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn có niên đại 400.000 đến 300.000 năm 11 Footer Page 11 of 95. TrÇn ThÞ Thïy Header Page 12 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp trước đây, và ở nhiều nơi khác như Patdtan (Inđônêxia), Tampan (Malayxia), Kabaloan (Philippin), Anyatha (Mianma), Pingnoi (Thái Lan). Theo một số nhà nghiên cứu, những chiếc răng hóa thạch tìm được ở hang Thẩm Ồm - một hang động trong dãy núi đá vôi thuộc xã Thuận Châu, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An, cùng công cụ hóa thạch bên sông Sôlô (Giava - Inđônêxia) và một số địa điểm nữa tại Đông Nam Á đã cho thấy bước tiến hóa từ người tối cổ sang “người tinh khôn” (Hômôsapiens) trên miền đất cổ xưa này. Đồng thời với các mảnh di cốt này là nền văn hóa Sơn Vi thuộc hậu kì đồ đá cũ, được phân bố suốt từ Lào Cai đến Bình Trị Thiên. Người Sơn Vi sống chủ yếu trên các đồi, gò vùng trung du Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và các hang động núi đá vôi. Cùng với sự có mặt của người tinh khôn là sự xuất hiện của các tộc người Đông Nam Á. Vào thời đồ đá mới (khoảng 10.000 năm về trước) có một dòng người thuộc chủng Mogoloid từ vùng lục địa Châu Á (Tây Tạng) di cư về hướng Đông Nam và dừng lại ở khu vực mà nay gọi là bán đảo Trung Ấn. Tại đây diễn ra sự hợp chủng giữa họ với cư dân Melanesien bản địa (thuộc đại chủng Austroloid), tạo thành chủng Indonesien (còn gọi là Mã Lai cổ) với nước da ngăm đen, tóc quăn dợn sóng, tầm vóc thấp. Từ đây lan tỏa ra, người Indonesien cư trú trên toàn bộ địa bàn Đông Nam Á cổ đại. Đó là một vùng rộng lớn, phía Bắc tới sông Dương Tử, phía Tây tới bang Assam của Ấn Độ, phía Đông tới quần đảo Philippines và phía Nam tới các đảo Indonexia. Từ chủng Indonesien trải qua hàng nghìn năm lịch sử lại được phân chia thành hai chủng tộc mới là Austroasiatique và Austronesien. Chủng Austroasiatique là kết quả hợp chủng giữa Indonesien (tiền Đông Nam Á) với Mongoloid vào cuối thời đại đồ đá mới, đầu thời đại đồ đồng. Khu vực cư trú của họ là vùng Nam Trung Hoa và Bắc bán đảo Trung 12 Footer Page 12 of 95. TrÇn ThÞ Thïy Header Page 13 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp Ấn (từ Nam sông Dương Tử đến lưu vực sông Hồng Hà). Với chủng Austroasiatique các nét đặc trưng Đông Nam Á lại càng nổi trội, vì vậy nó được coi là chủng Mongoloid phương Nam. Về sau Bách Việt được sinh ra từ chủng này. Chủng Austronesien được hình thành ở phía Nam, dọc theo dải Trường Sơn và tiếp về phía hải đảo. Đó là những tộc người nói tiếng Nam Đảo hiện nay. Đây cũng chính là “tổ tiên” của các dân tộc: Chăm (Chàm), Raglai, Êđê, Churu… ở Việt Nam. Bức tranh về các dân tộc ở Đông Nam Á ngày nay cực kì đa dạng song xét về nguồn gốc, hầu hết các dân tộc ấy đều bắt nguồn từ một nguồn gốc chung, đó là chủng Indonesien. Chính điều đó đã tạo nên tính thống nhất - một tính thống nhất trong đa dạng của con người và văn hóa Đông Nam Á. 1.2.2. Một số thành tựu văn hóa thời tiền sử và sơ sử Từ xa xưa, Đông Nam Á đã được coi như một khu vực địa lí quan trọng. Tuy nhiên mãi đến những năm đầu thế kỉ XX, người ta vẫn chưa nhận thức được là có một khu vực văn hóa Đông Nam Á thống nhất. Vì bị thu hút quá nhiều bởi sự phong phú và độc đáo của hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ mà trong một thời gian dài, các nhà khoa học không chú ý đúng mức tới các nền văn minh ở các quốc gia Đông Nam Á. Có lẽ người đầu tiên chứng minh được rằng có một cơ tầng văn hóa bản địa Đông Nam Á là học giả người Pháp G.Coedes. Quan điểm của ông có cơ sở từ các thành tựu khảo cổ học, ngôn ngữ học, dân tộc học, sử học, văn học nghệ thuật…mang đầy tính thuyết phục. Có thể nói sau hai công trình nổi tiếng “Lịch sử các quốc gia Ấn Độ hóa vùng Viễn Đông” (1944) và “Các cư dân của bán đảo Trung Ấn” (1962), việc coi Đông Nam Á là khu vực văn hóa riêng biệt khác với Trung Hoa và Ấn Độ coi như đã được chấp nhận. Cũng từ 13 Footer Page 13 of 95. TrÇn ThÞ Thïy Header Page 14 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp đó, nhiều nhà nghiên cứu thuộc các quốc gia khác cũng đã đưa ra nhiều bằng chứng khoa học khẳng định tính đúng đắn của quan điểm trên. Khác với các học giả phương Tây, các nhà khoa học Việt Nam trong những năm gần đây, bằng cứ liệu khoa học đã chứng minh được rằng trong quá trình giao lưu với khu vực, văn hóa Việt Nam đã trở nên gắn bó mật thiết với văn hóa Trung Hoa, tiếp thu khá nhiều thành tựu từ văn hóa Trung Hoa (cũng như từ Ấn Độ và các nước phương Tây). Mặc dù vậy, từ trong cội nguồn, văn hóa Việt Nam được định hình trên nền của không gian văn hóa Đông Nam Á. Cùng sinh ra và phát triển trên cùng một khu vực địa lí, cư dân Đông Nam Á đã sáng tạo ra một nền văn hóa bản địa riêng biệt, độc đáo có cội nguồn chung từ thời tiền sử, trước khi tiếp xúc với văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ. Nền văn hóa mang tính khu vực thống nhất đó được phát triển liên tục trong suốt chiều dài lịch sử cho đến tận ngày nay và đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ ở cả hai mảng văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. 1.2.2.1. Văn hóa vật chất Như trên đã nói, tại khu vực Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng, các nhà khoa học đã tìm thấy nhiều chứng tích khảo cổ học, thông qua kết quả nghiên cứu các chứng tích ấy, chúng ta có ta có thể đi đến một nhận định rằng: cư dân trên địa bàn Đông Nam Á cổ đại đã trải qua một tiến trình lịch sử bao gồm các giai đoạn: đá cũ - đá mới - đồng - sắt. Họ đã đạt được những thành quả vô cùng to lớn, vững chắc mà trong đó các cộng đồng người sinh sống trên địa bàn nay thuộc lãnh thổ Việt Nam đã có những đóng góp tiêu biểu xuất sắc cho tiến trình này. Ở Đông Nam Á, con người và các nền văn hóa đã được bụi đời hòa lẫn với đất đai, gió biển và nắng nhiệt đới. Đó là một nền văn hóa bản địa mang tính thống nhất, một nền văn hóa văn minh đặc sắc với nghề nông nghiệp lúa 14 Footer Page 14 of 95. TrÇn ThÞ Thïy Header Page 15 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp nước là chủ đạo. Nền văn hóa văn minh đó phát triển liên tục trong lịch sử và là một phức thể văn hóa lúa nước với ba yếu tố: văn hóa núi, văn hóa châu thổ và văn hóa biển trong đó văn hóa châu thổ giữ vị trí chủ đạo. Các nhà khoa học đã khẳng định Đông Nam Á là một trong năm trung tâm xuất hiện cây trồng - một trong những trung tâm phát sinh nông nghiệp lớn nhất của nhân loại. Trải qua hai thời kì là thời kì đá cũ (cách ngày nay 400.000 năm 500.000) và đầu thời kì đá mới (cách ngày nay 10.000 năm) tương ứng với nó ở Việt Nam xuất hiện nền văn hóa Sơn Vi và văn hóa Hòa Bình, cư dân Đông Nam Á sống chủ yếu bằng săn bắt, hái lượm, bên cạnh đó, họ biết thuần dưỡng một số loài động thực vật và biết trồng một số loại cây. Họ biết sử dụng công cụ lao động bằng đá cuội, biết sử dụng lửa để nấu chín thức ăn. Thức ăn của họ chủ yếu là cây, quả, hạt, một số loài động vật vừa và nhỏ. Họ thường sống ở các cửa hang động, các thung lũng đá vôi thoáng mát. Thời kì này, một nền nông nghiệp sơ khai cũng đã xuất hiện. Như Wilhelm G Solheim II nhận xét: “Sắc dân Hòa Bình ở một vùng nào đó trong khu vực Đông Nam Á là giống người biết trồng cây đầu tiên trên thế giới”. “Như vậy có thể coi Đông Nam Á là nơi có cuộc cách mạng nông nghiệp sớm nhất trên thế giới” [4, tr,32]. Cuối thời kì đồ Đá mới (cách ngày nay 5.000 năm) tương ứng với Việt Nam là nền văn hóa Bắc Sơn, các bộ tộc Đông Nam Á đã có một bước tiến vượt bậc. Họ biết làm đồ gốm, các kĩ thuật mài, khoan, cưa đá đã được phổ biến khắp Đông Nam Á. Với việc làm đồ gốm, cư dân Đông Nam Á đã chuyển sang nền kinh tế sản xuất chứ không đơn thuần chỉ là nền kinh tế khai thác thiên nhiên như trước đây. Họ cũng đã biết tìm đến những nơi thuận lợi cho cuộc sống của 15 Footer Page 15 of 95. TrÇn ThÞ Thïy Header Page 16 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp mình. Không chỉ sống ở các hang động như trước mà còn lấn dần ra các vùng biển. Nghề đánh cá từ đó mà phát triển. Cách đây khoảng 4.000 năm, cư dân Đông Nam Á bước vào một thời kì mới mà các nhà khoa học thường gọi là thời đại kim khí, đồng thời ở Việt Nam lúc này cũng xuất hiện nền văn hóa Đông Sơn. Sống trong vùng khí hậu nhiệt đới, cư dân Đông Nam Á đã chuyển sang trồng lúa cạn ở nương rẫy và lúa nước ở vùng thung lũng. Rồi từ việc thuần dưỡng lúa ở thung lũng, cây lúa được chuyển dần xuống vùng châu thổ thích nghi với vùng ngập nước. Ở thời đại Đồ Đồng, gắn liền với sự trồng cấy là sự phát triển của các loại công cụ lao động bằng kim loại và công việc chăn nuôi gia súc, năng suất lao động ngày càng được nâng cao. Hàng loạt trống đồng, thạp đồng đủ các loại kích cỡ với một nghệ thuật trang trí tuyệt tác được tìm thấy ở Việt Nam và nhiều vùng khác trong khu vực Đông Nam Á. Do yêu cầu của việc chế tạo công cụ lao động sản xuất, kĩ thuật rèn và luyện sắt cũng được phát triển mà quan trọng nhất là đồ sắt Sa Huỳnh. Ở thời đại Đồ Đồng, cư dân Đông Nam Á sống thành làng ở những vùng đất cao và gần sông ngòi. Điều này chứng tỏ họ đã biết thích ứng với môi trường tự nhiên. Nhà cửa của cư dân vùng này là nhà sàn, cách ăn mặc gọn gàng, phù hợp với công việc lao động: nam cởi trần, đóng khố còn nữ giới thì mặc yếm và váy. Việc đi lại chủ yếu được tiến hành bằng thuyền. Sông và biển là những con đường giao thông huyết mạch cho sự giao lưu đó. Tựu chung lại, ngay từ buổi bình minh của lịch sử, Đông Nam Á đã trở thành một khu vực đáng chú ý với nền văn minh nông nghiệp lúa nước và nghề luyện kim đồng nổi tiếng thế giới. 1.2.2.2. Văn hóa tinh thần 16 Footer Page 16 of 95. TrÇn ThÞ Thïy Header Page 17 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp Bên cạnh các thành tựu văn hóa vật chất không thể không kể đến các thành tựu văn hóa tinh thần của các cư dân Đông Nam Á cổ đại. Thông thường, đời sống vật chất của con người ngày càng phát triển thì đời sống tinh thần ngày càng phong phú. Theo các kết quả nghiên cứu khảo cổ, ngay từ thời tiền sử, ở khu vực phía đông nam Châu Á này đã có dấu hiệu của nền hội họa. Đó là những hiện vật xương có vết khắc hình cá, hình thú, những kí hiệu hoa văn biểu thị mặt trời được vẽ trên đồ gốm… Một số tín ngưỡng nguyên thủy cũng đã manh nha xuất hiện ở thời tiền sử Đông Nam Á. Bước vào thời kì sơ sử, văn hóa tinh thần của người Đông Nam Á đã có một bước phát triển vượt bậc, nhiều nghi lễ tín ngưỡng ra đời gắn liền với công việc trồng lúa nước nói riêng và sản xuất nông nghiệp nói chung như tục thờ thần mặt trời, thờ lửa, tục thờ thần núi và thờ đá, tục thờ thần sông, thần biển, thần nước, thần cây, thần lúa, nghi lễ phồn thực và tục thờ sinh thực khí. a. Tín ngưỡng *Tục thờ thần mặt trời và thờ lửa Đối với cư dân nông nghiệp lúa nước Đông Nam Á, mặt trời tượng trưng cho sinh khí của vũ trụ, tạo nên sự sống của muôn loài và lửa được xem là ánh sáng, sức nóng của mặt trời. Vì vậy ban đêm người ta phải đốt lửa để có mặt trời. Ở Việt Nam, tục thờ mặt trời được ghi lại trên trống đồng Đông Sơn. Trên mặt trống đồng, giữa trung tâm là hình mặt trời với 14 tia, và cuộc sống xoay quanh mặt trời ngược theo chiều kim đồng hồ. Để cầu mong sự sống và sinh sôi nảy nở (nghi lễ nông nghiệp) các dân tộc Đông Nam Á có nhiều lễ hội liên quan đến mặt trời và lửa: thả cầu lửa lên không trung, giăng đèn lồng, kết pháo hoa, đèn kéo quân, hội hoa đăng thả đèn trên mặt nước… tục thờ thần núi và thờ đá. 17 Footer Page 17 of 95. TrÇn ThÞ Thïy Header Page 18 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp Núi là nơi con người sinh ra, con người từ trên núi xuống đồng bằng rồi ra biển. Núi nối với trời cao là biểu thị của sự thiêng liêng, nơi có nhiều kì quan nhất là các hang động với những hình thù kì lạ của thạch nhũ, thường là nơi trú ngụ của thần linh. Núi cũng là biểu tượng cho sự vững chắc, trường tồn. Người ta thờ thần núi ở khắp nơi, hầu như các công trình thờ phụng đều đặt trên núi. Ngày nay, hàng năm các dân tộc Đông Nam Á đều có những cuộc hành hương lên núi (trẩy hội chùa Hương, chùa Thầy của người Việt, “đơn đông” - đi rừng của người Lào). Cùng với núi, người Đông Nam Á còn thờ đá vì đá là phần cứng rắn nhất của núi, là hình núi thu nhỏ. Đá cũng là nơi trú ngụ của thần linh, là bùa hộ mệnh của cả cộng đồng. *Tục thờ thần sông, biển, thần nước Văn hóa Đông Nam Á gắn liền với văn hóa sông nước (lục địa) và biển cả (hải đảo). Sông biển hùng vĩ với con người có quyền năng vô hạn. Ngày nay, người Mã Lai, người Việt…khi đi vào rừng rú, sông biển để khai thác, hoặc qua sông, qua đò, người ta phải khấn vái để mong các thần phù hộ. Từ thần sông, thần biển, con người thờ nước để cầu mong mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt, con người được rửa mát và hưởng phúc. *Tục thờ thần cây và thần lúa Trong huyền thoại của nhiều dân tộc Đông Nam Á có kể lại rằng con người được sinh ra từ cây. Có hai loại cây con người thờ đó là cây tự nhiên và những cây cổ thụ tượng trưng cho sự trường tồn như cây si, cây đa, cây đề. Chúng được trồng ở những nơi thừa tự của cộng đồng. Người Việt thường để bát hương, bình vôi ở gốc cây. Cũng có dân tộc coi đó là cây vũ trụ và sau này được biểu hiện bằng cây “nêu” trong ngày tết của người Việt, cây “gâng” trong lễ đâm trâu của người Tây Nguyên. 18 Footer Page 18 of 95. TrÇn ThÞ Thïy Header Page 19 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp Loại cây trồng để thừa tự là những cây lương thực chủ yếu là do con người sáng tạo, thần hóa. Người ta thần thánh hóa những thành quả sản xuất của con người, tục thờ thần lúa ở Đông Nam Á do đó nổi trội hơn cả, nó là biểu tượng chính của những ngày lễ hội. Hồn lúa được người Đông Nam Á thờ cúng rất cẩn thận vì họ rất sợ hồn lúa bỏ đi mất làm cho mùa màng thất bát, người ta gọi đó là mẹ lúa và đảm nhận phần lễ này là do các bà phụ nữ. *Nghi lễ phồn thực và tục thờ sinh thực khí. Tín ngưỡng phồn thực là chung của cư dân nông nghiệp nhưng ở Đông Nam Á nó được thể hiện sinh động và phong phú trong các lễ hội và trong đời sống hàng ngày. Tư duy âm - dương tổng hợp được hình thành trước sự nảy nở của muôn loài thông qua sự giao phối giữa đực - cái, đàn ông - đàn bà… đặc biệt là ma lực kích động hấp dẫn của tình dục. Con người đã thần thánh hóa ma lực này và thờ phụng để cầu xin sự sinh sôi nảy nở và họ liên tưởng tới sức mạnh sinh sản của đất đai. Sự giao hòa giữa trời (dương) và đất (âm) sẽ mang lại sự sống, sự sinh sôi nảy nở. Người ta thờ sinh thực khí (Yoni Linga), tổ chức các trò diễn trong các lễ hội dân gian dưới hình thức ma thuật thiêng nhằm kích động tính dục của thần thánh, trời đất, ruộng đồng, cây cối…để cho cây trồng đơm hoa kết trái, vật nuôi sinh đẻ nhiều, con người sinh con đẻ cái… b. Văn hóa dân gian Đối với khu vực Đông Nam Á, để hiểu biết hiện thực xa xưa cũng như sinh hoạt văn hóa của con người ở những thời kì đầu tiên của tiến trình lịch sử thì văn hóa dân gian là nguồn khai thác có giá trị và hiệu quả nhất. Các thể loại văn hóa dân gian lần lượt ra đời tương ứng với từng thời kì của lịch sử loài người. Từ những hình thức đầu tiên của văn hóa dân gian như thần thoại, truyền thuyết đến các truyện cổ tích và các thể loại trữ tình khác, cộng đồng 19 Footer Page 19 of 95. TrÇn ThÞ Thïy Header Page 20 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp người xưa đều phô diễn những quan niệm, tình cảm, những quan hệ của mình bằng diễn xướng dân gian. Ở Anh và một số quốc gia khác, người ta sử dụng thuật ngữ folklore để chỉ tất cả các loại hình của nghệ thuật dân gian và cả tín ngưỡng, tập tục dân gian (trong trường hợp này, thuật ngữ folklore sát nghĩa với thuật ngữ văn hóa dân gian của ta). Thuật ngữ foklore do hai từ tiếng Anh ghép lại: “folk” nghĩa là nhân dân, “klore” có nghĩa là kiến thức, trí khôn, như vậy “folklore” có nghĩa là “kiến thức của nhân dân”, “trí khôn của nhân dân”. Thuật ngữ này do nhà sử học người Anh Uyliam Tomx đưa ra vào năm 1846 và đã sớm trở thành một thuật ngữ quốc tế. Ở một số nước khác (trong đó có Liên Xô), từ folklore có hàm nghĩa hẹp hơn nhiều: nó được dùng để chỉ riêng hình thức ngôn từ nhạc - vũ - kịch của sáng tác dân gian tập thể (trong trường hợp này, thuật ngữ folklore tương đương với thuật ngữ “văn học dân gian” của ta)… Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau, song cách hiểu “folkore là văn hóa dân gian” là không thể bác bỏ được. Tìm về cội nguồn lịch sử mỗi dân tộc - quốc gia không còn cách nào khác là phải bắt tay vào nghiên cứu văn hóa dân gian hay hẹp hơn nữa là văn học dân gian bởi vì “từ thời viễn cổ, văn học dân gian luôn là người đồng hành khăng khít và đặc thù của lịch sử” (M.Gorki). Văn học dân gian là lịch sử không thành văn của nhân dân, là tiếng nói của nhân dân, nó có ý kiến riêng của nó đối với các vấn đề nảy sinh trong đời sống sinh hoạt, trong quá trình con người tương tác với giới tự nhiên, nó khác hẳn với các pho sử do các nhà chuyên môn viết ra. Phục diện quá trình sinh thành của văn học dân gian trong thời tối cổ là một việc đầy khó khăn bởi vì nói về nguồn gốc của mình vốn là điểm yếu chung của các dân tộc. Chắc không phải không có lí do mà lịch sử của hầu hết các quốc gia đều bắt nguồn bằng thần thoại, truyền thuyết. 20 Footer Page 20 of 95. TrÇn ThÞ Thïy
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất