Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Thẩm quyền giải quyết của tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình ...

Tài liệu Thẩm quyền giải quyết của tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình (luận văn thạc sỹ luật)

.DOC
80
1
89

Mô tả:

MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1. THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN THEO VỤ VIỆC VÀ THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN CÁC CẤP ĐỐI VỚI CÁC TRANH CHẤP VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH............................................................................................ 7 1.1. Thẩm quyền của Tòa án theo vụ việc............................................................ 7 1.2. Thẩm quyền của Tòa án các cấp................................................................. 19 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1..................................................................................... 29 CHƢƠNG 2. THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN THEO LÃNH THỔ, THEO SỰ LỰA CHỌN CỦA NGUYÊN ĐƠN ĐỐI VỚI TRANH CHẤP VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH....................................................................................................... 30 2.1. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ....................................................... 30 2.2. Thẩm quyền của Tòa án theo s l a chọn của n n đơn......................39 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2..................................................................................... 48 KẾT LUẬN............................................................................................................ 49 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiện nay, do hội nhập kinh tế thế giới ngày càng diễn ra mạnh mẽ nên các tranh chấp xảy ra trong đời sống xã hội ngày càng gia tăng và phức tạp. Để đảm bảo quyền lợi của cá nhân, cơ quan, tổ chức thì đòi hỏi Nhà nước ta phải xây dựng hệ thống pháp luật vững mạnh, chặt chẽ và được áp dụng có hiệu quả trong đời sống xã hội nhất là phải kể tới vai trò quan trọng của hệ thống Tòa án với thẩm quyền xét xử chuyên biệt. Trên cơ sở thực tiễn áp dụng thì Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016 đã được ban hành và hoàn thiện hơn để thay thế Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011. Trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì ngoài thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự nói chung thì thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về hôn nhân và gia đình nói riêng của Tòa án được quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cũng là một trong những cơ sở pháp lý rất quan trọng để xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân, và là tiền đề để tòa án Việt Nam thực hiện chức năng thụ lý, giải quyết những vụ việc hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về hôn nhân và gia đình vẫn còn bộc lộ một số hạn chế nhất định như: chưa chú ý đến thẩm quyền xét xử đối với vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài cụ thể như trường hợp bị đơn đã đi nước ngoài sinh sống nhưng Tòa án cấp huyện vẫn thụ lý xét xử theo hộ khẩu thường trú của bị đơn là vi phạm nghiêm trọng về thẩm quyền vì đây là vụ án có yếu tố nước ngoài thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp tỉnh; hay trường hợp nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng, không đăng ký kết hôn nhưng đã tồn tại một quan hệ hôn nhân hợp pháp trước đó mà chưa được Tòa án giải quyết ly hôn, sau đó một bên chết dẫn đến người có quan hệ hôn nhân sau đứng ra tranh chấp chia tài sản là bất động sản, địa chỉ của hai bên đương sự và nơi có bất động sản thì khác nhau, có quan điểm cho rằng tranh chấp trên chỉ là tranh chấp dân sự nên thẩm quyền giải quyết của Tòa nơi có bất động sản nhưng có quan điểm cho rằng tranh chấp trên là tranh chấp hôn nhân và gia đình nên thuộc thẩm quyền của Tòa nơi bị đơn cư trú; ngoài ra có trường hợp các bên đương sự thỏa thuận Tòa án không đúng thẩm quyền để giải quyết ly hôn; hay trường hợp xác định cha, mẹ, con thì còn chưa thống nhất về thẩm quyền giữa Tòa án và Ủy ban nhân dân; mặt khác loại án hôn nhân và gia đình thực chất là một loại án dân sự, không có luật tố tụng điều chỉnh riêng mà áp dụng thẩm quyền theo Bộ luật Tố tụng dân sự, loại án hôn 2 nhân và gia đình tuy là một loại án dân sự nhưng nó vẫn có những đặc thù riêng áp dụng cái chung đương nhiên có những hạn chế bất cập nhất định… Từ những thực trạng nêu trên nên việc áp dụng pháp luật về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình dẫn đến tình trạng người dân bức xức khiếu nại nhiều, đương sự kháng cáo kéo dài vụ án. Vì vậy, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình là cần thiết. Xuất phát từ các lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình” để làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Luật dân sự và Tố tụng dân sự của mình với mong muốn được đóng góp xây dựng, hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật tố tụng dân sự nói riêng. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Qua tìm hiểu của tác giả nhận thấy, liên quan đến đề tài “Thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình” đã được nhiều tác giả khác quan tâm nghiên cứu, có thể kể ra một số công trình như sau: - Trường Đại học Luật TPHCM (2018), “Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam”, NXB. Hồng Đức. Trong giáo trình này, các tác giả đã phân tích các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp hôn nhân và gia đinh. Tuy nhiên, vì đây là giáo trình nên phần thực tiễn không được đề cập do tính chất của công trình không nghiên cứu về khía cạnh này. - Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2021), “Sách tình huống Luật Tố tụng dân sự (Bình luận bản án)”, Nhà xuất bản Hồng Đức. Trong công trình này, các tác giả đã phân tích quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình với các bản án, quyết định cụ thể cuả Tòa án nhân dân. Liên quan đến thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đinh, các tác giả nhận thấy các bình luận tại các chủ đề: Chủ đề 8, Chủ đề 9, Chủ đề 10. Với công trình nghiên cứu này, các tác giả đã nghiên cứu những vấn đề cụ thể trong từng bản án, quyết định để so sánh giữa quy định của pháp luật, thực tiễn thực hiện, pháp luật và đề xuất kiến nghị. Tác giả dựa vào các bình luận này để lấy ý tưởng triển khai đề tài của mình; - Đặng Thanh Hoa (Chủ biên), Lưu Tiến Dũng (2020), “Lý giải một số vấn đề của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 từ thực tiễn xét xử”, Nxb. Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Trong công trình này, các nội dung nghiên cứu liên quan đến 3 thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình ở Vấn đề 2. Với cách đặt vấn đề và nội dung lý giải trong công trình, tác giả học tập và định hướng nghiên cứu, triển khai đề tài trong luận văn của mình; - Nguyễn Văn Tiến, Bành Quốc Tuấn chủ biên (2011), “Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài và việc bảo vệ quyền dân sự tại cơ quan tư pháp Việt Nam”, NXB Lao Động. Trong cuốn sách này các tác giả chỉ dừng lại ở việc phân tích, bình luận các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình về quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, thẩm quyền giải quyết các tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài nói riêng mà chưa đi sâu về thầm quyền giải quyết các tranh chấp hôn nhân và gia đình nói chung, nên việc đánh giá, tổng hợp những vướng mắc vào thực tiễn chưa nhiều. - Nguyễn Văn Cường, Trần Anh Tuấn, Đặng Thanh Hoa (chủ biên, 2012), “Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi”, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội. Trong công trình này, các tác giả đã phân tích, so sánh các quy định mới được sửa đổi, bổ sung tại luật sửa đổi, bổ sung năm 2011, đối chiếu với giải quyết các vụ việc dân sự, giải thích một cách khoa học về trình tự thủ tục tố tụng dân sự, trong đó có thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, vì đây là sách bình luận nên các tác giả tập trng bình luận về khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự nên không nghiên cứu về tổng hợp những vướng mắc trên thực tiễn về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình. - Nguyễn Thị Lan (2002), “Xác định cha, mẹ, con theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam – Cơ sở lý luận và thực tiễn”, Luận văn thạc sĩ trường Đại học luật Hà Nội. Trong công trình này, tác giả đã nêu lên và phân tích những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành mà cụ thể là Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về xác định cha, mẹ, con có đề cập vấn đề thẩm quyền của Tòa án trong việc xác định thẩm quyền xác định cha, mẹ, con. Tuy nhiên, công trình này được thực hiện vào năm 2002 vào thời điểm Luật Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực, đến nay những quy định đã được sửa đổi không còn phù hợp với thực tiễn hiện nay. Ngoài ra, công trình chưa nghiên cứu toàn diện về vấn đề thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình. - Võ Văn Tuấn Khanh (2019), “Bàn về thẩm quyền xác định cha, mẹ, con”, Tạp chí kiểm sát số 7 (4.2019). Bài viết này tác giả có nêu lên và phân tích những quy định pháp luật về thẩm quyền xác định cha, mẹ, con và có đưa ra tình huống cụ thể để minh họa cho thực tiễn xét xử. Đồng thời tác giả bài viết cũng đưa ra những 4 kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về xác định thẩm quyền xác định cha, mẹ, con. Tuy nhiên, công trình chỉ mới dừng lại ở vấn đề thẩm quyền xác định cha, mẹ, con chỉ một khía cạnh của đề tài chưa đi sâu phân tích vấn đề thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình. Do đó cần phải tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình. - Đặng Thanh Hoa và Nguyễn Hồ Bích Hằng (2016), “Sửa đổi về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ quy định tại BLTTDS năm 2015”, Tạp chí “Khoa học pháp lý” số 06(100)/2016 - 2016. Trong bài viết này các tác giả tập trung phân tích thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Theo đó, đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ có Tòa án nơi có bất động sản giải quyết quy định này có thể dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Trong công trình này các tác giả đã phân tích những bất cập và đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật về cách xác định Tòa án có thẩm quyền về lãnh thổ giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình hoặc vụ án thừa kế có tranh chấp về bất động sản. Tuy nhiên, đây chỉ mới dừng lại là một bài báo khoa học phân tích chỉ một khía cạnh thẩm quyền theo lãnh thổ, chưa phân tích toàn diện vấn đề thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình. Nhìn chung tất cả những công trình nghiên cứu trên đã tập trung nghiên cứu với nội dung rộng, hầu hết là nghiên cứu Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011. Vì vậy, tác giả nghiên cứu đề tài “Thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình” là cần thiết. Tác giả đi sâu phân tích những quy định về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình, đồng thời chỉ ra những bất cập và đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy định về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình. 3. Mục đíc , nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Mục đích của luận văn là làm rõ những quy định của pháp luật, thực tiễn áp dụng về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình gồm thẩm quyền của Tòa án theo vụ việc, theo cấp, theo lãnh thổ, theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật. Để đạt được mục đích trên, luận văn phải thực hiện những nhiệm vụ sau: - Đánh giá quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình; 5 - Đánh giá thực trạng pháp luật, thực tiễn áp dụng thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình. - Đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình. 4. Đ i ƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về những quy định về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình; thực trạng áp dụng pháp luật và chỉ ra những bất cập đang tồn tại. Trên cơ sở đó, đề xuất kiến nghị hoàn thiện những quy định về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những quy định về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 từ khi Bộ luật này có hiệu lực pháp luật cho đến nay. 5. P ƣơn pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng những phương pháp nghiên cứu như sau: - Phương pháp phân tích: Phương pháp này sử dụng trong chương 1 và chương 2 để làm rõ thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình. Trong đó, chú trọng việc phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình. - Phương pháp so sánh đối chiếu: Phương pháp này sử dụng trong chương 1 và chương 2 so sánh giữa quy định của pháp luật với thực tiễn về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình và thực tiễn áp dụng. - Phương pháp lịch sử: Phương pháp này sử dụng trong chương 1 và chương 2 để so sánh quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình trước đây và hiện nay. - Phương pháp phân tích quy phạm pháp luật: Phương pháp này sử dụng trong chương 1 và chương 2 nhằm phân tích về thẩm quyền giải quyết đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình của Tòa án nhân dân, đồng thời đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và cơ chế áp dụng pháp luật về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình. Mỗi phương pháp nghiên cứu đem lại những hiệu quả nhất định trong việc làm rõ đối tượng nghiên cứu, xác định mục đích của việc triển khai đề tài trong luận văn. 6 6. Ý n ĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài Kết quả nghiên cứu về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình góp phần làm rõ thực trạng áp dụng thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình trong thực tiễn thi hành pháp luật, chỉ ra bất cập và đề xuất hướng hoàn thiện. Kết quả nghiên cứu là tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, học tập về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình. Kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo trong công tác mà tác giả đang công tác. Những kiến nghị là cơ sở để hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình. 7. Kết cấu của lu n ăn Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của luận văn gồm có 02 chương: C ƣơn 1. Thẩm quyền của Tòa án theo vụ việc và thẩm quyền của Tòa án các cấp đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình. C ƣơn 2. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ, theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu đối với các tranh chấp về hôn nhân và gia đình. 7 CHƢƠNG 1 THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN THEO VỤ VIỆC VÀ THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN CÁC CẤP ĐỐI VỚI CÁC TRANH CHẤP VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 1.1. T ẩm q ền của Tòa án theo ụ iệc Xác định cha, mẹ, con là việc xác nhận mối quan hệ huyết thống giữa cha, mẹ và con. Trong tất cả các mối quan hệ gia đình thì có thể nói đây là mối quan hệ cơ bản, quan trọng và thiêng liêng nhất. Theo Từ điển Luật học, xác định cha, mẹ, con là việc xác nhận một người là cha, mẹ hoặc một người là con của người khác trên cơ sở các quy định của pháp luật. Theo khái niệm này, xác định cha, mẹ, con là quyền của công dân theo quy định của pháp luật về công nhận hoặc không công nhận mối quan hệ cha, 1 mẹ, con, làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể trên . Xác định cha, mẹ, con được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau về vấn đề này. Dưới góc độ sinh học - xã hội, xác định cha, mẹ, con là việc nhận diện mối quan hệ huyết thống giữa hai thế hệ kế tiếp nhau thông qua sự kiện sinh đẻ. Gia đình là một thiết chế xã hội cơ sở đóng vai trò quan trọng đối với xã hội. Việc xác định cha, mẹ, con là cơ sở để đảm bảo cho việc nâng cao ý thức trách nhiệm đối với gia đình giữa các thế hệ và tạo điều kiện cho các quyền cơ bản của trẻ em được tôn trọng, thực hiện. Những đứa trẻ sinh ra đương nhiên phải được trở thành thành viên của gia đình, được quan tâm, phát triển về cuộc sống vật chất, tinh thần, đáp ứng được những nguyện vọng chính đáng từ đời sống xã hội. Việc xác định cha, mẹ, con là sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích gia đình và xã hội, bởi không một tổ chức, môi trường nào có thể thay thế được gia đình, là tổ ấm mang lại hạnh phúc cho mỗi cá nhân, từ khi con lọt lòng mẹ cho đến suốt cuộc đời. Mỗi cá nhân sẽ tìm thấy ở gia đình sự đùm bọc về vật chất, tinh thần, tiếp thu sự giáo dưỡng về mọi mặt, gia đình đảm bảo những điều kiện an toàn cho sự phát triển toàn diện của trẻ em. Việc xác định cha, mẹ, con dựa trên những nguyên tắc, tiêu chuẩn không chỉ góp phần ổn định quan hệ xã hội mà còn nâng cao hiệu quả công 2 tác quản lý nhà nước về dân số và hộ tịch . Dưới góc độ pháp lý, xác định cha, mẹ, con là sự nhận diện cha, mẹ, con trên cơ sở các quy phạm pháp luật, theo các thủ tục khác nhau nhằm xác định mối quan hệ cha mẹ con. 1Nguyễn Thị Lan (2002), Luận văn thạc sĩ “Xác định cha, mẹ, con – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, tr.5 2 Nguyễn Thị Lan (2002), tlđd (1), tr.6. 8 Xác định cha, mẹ, con được quy định trong pháp luật Việt Nam phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là phù hợp với Công ước quốc tế về quyền trẻ em. Theo Công ước này, “Trẻ em phải được đăng ký ngay lập tức sau khi được sinh ra và có quyền có họ tên, có quốc tịch ngay từ khi chào đời, và trong chừng mực có thể, 3 quyền được biết cha mẹ mình và được cha mẹ mình chăm sóc” . Xác định cha, mẹ, con được quy định của Luật HN&GĐ, Hiến pháp và Pháp luật dân sự, thể hiện sự 4 quan tâm của Nhà nước, xã hội, tầm quan trọng của hoạt động này trong thực tiễn . Thẩm quyền theo vụ việc của Tòa án đối với các tranh chấp về HNGĐ là giới hạn do pháp luật quy định để Tòa án nhân dân thụ lý và giải quyết các tranh chấp về HNGĐ. Thẩm quyền này được quy định tại Điều 28 BLTTDS. Nội dung thẩm quyền theo vụ việc của Tòa án đối với các tranh chấp về HNGĐ được quy định tại Mục 2 LHNGĐ, Nghị định 126/2014/NĐ-CP ngày 31.12.2014 hướng dẫn LHNGĐ 2014, Luật Hộ tịch năm 2010, Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch và Thông tư 04/2020/TT-BTP ngày 28.5.2020 của Bộ Tư pháp về quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch. Theo Điều 28 BLTTDS, Tòa án có thẩm quyền thụ lý và giải quyết các tranh chấp về hôn nhân và gia đình sau: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; chia tài sản sau khi ly hôn; tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn; tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ; tranh chấp về cấp dưỡng; tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc khi hủy kết hôn trái pháp luật và các tranh chấp khác về hôn nhân và gia đình, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật. Thẩm quyền giải quyết về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ được quy định tại Điều 101 LHNGĐ và khoản 4 Điều 28 BLTTDS. Qua nghiên cứu về thẩm quyền của Tòa án đối với các tranh chấp về xác định cha, mẹ, con, tác giả nhận thấy có những bất cập như sau: 3 Điều 7 Công ước quốc tế về quyền trẻ em. 4 Nguyễn Thị Lan (2002), tlđd (1), tr.7. 9 Thứ nhất, căn cứ xác định thẩm quyền theo vụ việc của Tòa án đối với các tranh chấp về việc xác định cha, mẹ, con là chưa cụ thể, rõ ràng. Theo khoản 4 Điều 28 BLTTDS, Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ. Theo Điều 101 LHNGĐ, cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền xác định cha, mẹ, con theo quy định của pháp luật về hộ tịch trong trường hợp không có tranh chấp. Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp hoặc người được yêu cầu xác định là cha, mẹ, con đã chết và xác định cha, mẹ, con trong trường hợp người có yêu cầu chết. Theo khoản 4 Điều 16 Thông tư 04/2020/TT-BTP, trường hợp con do người vợ sinh ra hoặc có thai trong thời kỳ hôn nhân nhưng vợ hoặc chồng không thừa nhận là con chung hoặc người khác muốn nhận con thì do Tòa án nhân dân xác định theo quy định pháp luật. Trường hợp Tòa án nhân dân từ chối giải quyết thì cơ quan đăng ký hộ tịch tiếp nhận, giải quyết yêu cầu đăng ký khai sinh cho trẻ em chưa xác định được cha hoặc đăng ký nhận cha, con, hồ sơ phải có văn bản từ chối giải quyết của Tòa án và chứng cứ chứng minh quan hệ cha, con theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Thông tư này. Theo các quy định nêu trên, thẩm quyền giải quyết tranh chấp về xác định cha, mẹ, con giữa cơ quan đăng ký hộ tịch và Tòa án là chưa cụ thể, chưa phân biệt một cách rành mạch về thẩm quyền giữa các cơ quan trên. Căn cứ ”không có tranh chấp” theo khoản 1 Điều 101 LHNGĐ là chưa cụ thể. Bởi, nói đến tranh chấp là nói 5 đến sự giành nhau, cãi nhau, đôi co nhau . Bản chất của tranh chấp là sự xung đột về lợi ích mà các bên không tự giải quyết được và yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết. Trong việc xác định cha, mẹ, con, có một số trường hợp, tuy các bên không tranh chấp nhưng vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND. 6 Ví dụ: Thẩm quyền xác định cha, mẹ, con . Theo đơn khởi kiện ngày 10/02/2017, anh Lê trình bày: Anh Lê và chị Bùi có quan hệ tình cảm (chị Bùi là vợ hợp pháp của anh Quảng) và sinh được 01 người con chung tên là Hoàng (sinh ngày 07/10/2011). Tại thời điểm sinh con, vì chị Bùi chưa ly hôn với anh Quảng (là chồng hợp pháp) nên chị Bùi phải làm thủ tục khai sinh cho con theo họ anh Quảng và khai tên bố là anh Quảng. 5 Viện Ngôn ngữ (2007), Từ điển Tiếng Việt, NXB Từ điển Bách khoa, trang 1075. 6 http://vienkiemsatquangbinh.gov.vn/index.php/vi/news/Kiem-sat-vien-viet/Tham-quyen-xac-dinh-cha-me- con -1643/, cập nhật lúc 15h ngày 19.11.2021. 10 Tại Bản án số 09 ngày 23/9/2017 Tòa án nhân dân tỉnh Q đã xử cho chị Bùi và anh Quảng ly hôn, về quan hệ con chung chỉ xác định 01 người con chung là cháu An, không đưa cháu Hoàng vào để giải quyết về con chung. Tại kết quả giám định ADN của Công ty trách nhiệm hữu hạn kỹ thuật BIMECO Việt Nam kết luận: Anh Lê và cháu Hoàng có quan hệ huyết thống cha con. Tại bản tự khai ngày 06/3/2017, chị Bùi thừa nhận cháu Hoàng là con chung giữa chị Bùi và anh Lê. Cháu Hoàng do chị sinh ra khi anh Quảng đang ở nước ngoài. Chị Bùi đề nghị Tòa án công nhận cháu Hoàng là con của anh Lê như đơn khởi kiện và yêu cầu của anh Lê. Anh Quảng đã được triệu tập và tống đạt các văn bản tố tụng nhưng không nhận và không có ý kiến về việc thụ lý vụ án. Tại Bản án số 05 ngày 20/6/2017, Tòa án nhân dân huyện H xác định đây là vụ án tranh chấp xác định con cho cha. Bản án quyết định chấp nhận yêu cầu của 7 nguyên đơn, xác nhận cháu Hoàng là con đẻ của anh Lê . Đối với vụ án nêu trên, có nhiều quan điểm khác nhau về thẩm quyền và thủ tục giải quyết. Quan điểm thứ nhất, đây là vụ việc không có tranh chấp. Trong vụ án này, nguyên đơn, bị đơn, người liên quan không ai có ý kiến phản đối yêu cầu xác định con của nguyên đơn và chính mẹ cháu bé cũng thừa nhận cháu là con của anh Lê. Việc Tòa án thụ lý và chấp nhận yêu cầu của anh Lê, xác định chị Bùi mẹ cháu bé là bị đơn trong vụ án là hoàn toàn không đúng quy định pháp luật. Trong vụ án này, chị Bùi không hề ngăn cản việc anh Lê yêu cầu xác nhận con mà lại rất đồng tình với yêu cầu của anh Lê. Quan điểm thứ hai, đây là vụ việc có tranh chấp. Theo khoản 2 Điều 101 LHNGĐ, Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp. Yếu tố tranh chấp ở đây là anh Lê đã làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định cháu Hoàng là con đẻ nhưng khai sinh tên cha lại là anh Quảng (là chồng hợp pháp của chị Bùi tại thời điểm chị Bùi sinh cháu Hoàng). Tranh chấp không có nghĩa là phải có sự không đồng ý giữa anh Lê, chị Bùi và anh Quảng. Quan điểm thứ ba, đây là việc dân sự vì không có tranh chấp. Điều 101 LHNGĐ cần bổ sung thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục việc dân sự đối với trường hợp xác định con không có tranh chấp để đương sự có sự lựa chọn cơ quan giải quyết phù hợp (theo BLTTDS hoặc Luật Hộ tịch 2014), đồng thời có sự thống nhất giữa Luật hôn nhân gia đình với Bộ luật Tố tụng dân sự. 7 http://vienkiemsatquangbinh.gov.vn/index.php/vi/news/Kiem-sat-vien-viet/Tham-quyen-xac-dinh-cha-mecon - 1643/, cập nhật lúc 20h ngày 5.10.2021. 11 Quan điểm của tác giả: Trong vụ án này, tuy anh Lê, chị Bùi và anh Quảng không có sự phản đối, xung đột với nhau nhưng đây là vụ việc có tranh chấp. Yếu tố tranh chấp xác định ở chỗ là anh Lê đã khởi kiện vụ án, yêu cầu Tòa án xác định con cho mình. Yếu tố thứ hai, đó là khai sinh của cháu Hoàng, tên người cha trong giấy khai sinh là anh Quảng. Nếu anh Lê yêu cầu cơ quan hộ tịch thay đổi tên cha (từ anh Quảng sang anh Lê) theo sự thừa nhận của anh Lê và chị Bùi thì cơ quan hộ tịch không thể thụ lý giải quyết. Bởi, cơ quan hộ tịch cấp giấy khai sinh cho cháu Hoàng là đúng quy định của luật (con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng, Điều 88 LHNGĐ). Vấn đề còn lại là hiểu như thế nào là tranh chấp trong việc xác định con cần được xác định và thống nhất. Hay một ví dụ khác cũng tương tự như trường hợp nêu trên được Tòa án xét xử nhưng các bên cũng không có tranh chấp theo Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2017/HNGĐ-ST ngày 02/8/2017 của Tòa án nhân dân quận Kiến An, thành phố 8 Hải Phòng . Theo bản án này thì vào năm 2012 anh Trần Văn P và chị Trần Thị Thanh H chung sống với nhau như vợ chồng trong khi chị H chưa ly hôn với anh Vũ Huy C (anh C đang chấp hành án), năm 2013 chị H sinh cháu K nhưng do chị H và anh C chưa ly hôn nên không làm giấy khai sinh cho cháu K được. Năm 2016 chị H và anh C ly hôn theo quyết định của Tòa án. Năm 2017 anh P yêu cầu Tòa án xác định anh P là cha đẻ của cháu K, chị H cũng thống nhất và anh C cũng không có ý kiến gì và xác nhận anh C và chị H không có con chung nào khác trong thời gian anh chấp hành án. TAND quận Kiến An xử chấp nhận yêu cầu của anh P và xác định anh P là cha đẻ cháu K theo kết quả giám định ADN. Quan điểm của tác giả: Trong vụ án này, anh P, chị H và anh C không có sự phản đối, xung đột với nhau, giữa chị H và anh C cũng đã được Tòa án giải quyết ly hôn xong, nhưng đây vẫn là vụ việc có tranh chấp. Yếu tố tranh chấp là cháu K được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân giữa anh P và chị H đang tồn tại theo Điều 88 LHNGĐ nên nếu anh C yêu cầu cơ quan hộ tịch làm khai sinh cho cháu K theo sự thừa nhận của anh P và chị H thì cơ quan hộ tịch không thể thụ lý giải quyết. Từ thực tiễn trên, theo tác giả, tranh chấp trong xác định con theo khoản 4 Điều 28 BLTTDS và Điều 101 LHNGĐ, cần được hướng dẫn như sau về thẩm quyền và chủ thể khởi kiện: Một, Điều 101 LHNGĐ sửa đổi theo hướng: 8 Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2017/HNGĐ-ST ngày 02/8/2017 của Tòa án nhân dân quận Kiến An, thành phố Hải Phòng (Phụ lục 1) 12 Nam, nữ chung sống với nhau hoặc sinh con khi chưa kết hôn, sau đó mới kết hôn mà có yêu cầu nhận con thì thủ tục đăng ký nhận con theo quy định của pháp luật hộ tịch. Người yêu cầu đăng ký nhận cha, mẹ, con nộp tờ khai theo mẫu quy định và chứng cứ chứng minh quan hệ cha con hoặc mẹ con cho cơ quan đăng ký hộ tịch. Khi đăng ký nhận cha, mẹ, con các bên phải có mặt. Nếu thấy việc nhận cha, mẹ, con là đúng và không có tranh chấp, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cấp trích lục cho người yêu cầu. Nam, nữ chung sống với nhau mà có con hoặc nam, nữ có con với người đang có vợ, chồng và con đã đăng ký khai sinh với tên cha, mẹ là người khác, nếu có yêu cầu nhận con thì phải do Tòa án giải quyết. Người có yêu cầu xác định con phải có chứng cứ chứng minh. Trong trường hợp này, áp dụng khoản 4 Điều 28 BLTTDS và khoản 2 Điều 102 LHNGĐ để giải quyết. Hai, Nghị quyết hướng dẫn thi hành về thẩm quyền của TAND mà cụ thể là chủ thể khởi kiện đối với vụ án xác định cha, mẹ, con, cần được sửa đổi, bổ sung và hướng dẫn theo hướng như sau: Nam, nữ chung sống với nhau mà có con hoặc nam, nữ có con với người đang có vợ, chồng và con đã đăng ký khai sinh với tên cha, mẹ là người khác thì Tòa án giải quyết. Căn cứ áp dụng để giải quyết là quy định tại khoản 4 Điều 28 BLTTDS và khoản 2 Điều 102 LHNGĐ. Thứ hai, quy định về thẩm quyền xác định cha, mẹ, con giữa pháp luật về hộ tịch và TTDS chưa dứt khoát, triệt để. Theo khoản 4 Điều 16 Thông tư 04/2020/TT-BTP: Trường hợp con do người vợ sinh ra hoặc có thai trong thời kỳ hôn nhân nhưng vợ hoặc chồng không thừa nhận là con chung hoặc người khác muốn nhận con thì do Tòa án nhân dân xác định theo quy định pháp luật. Trường hợp Tòa án nhân dân từ chối giải quyết thì cơ quan đăng ký hộ tịch tiếp nhận, giải quyết yêu cầu đăng ký khai sinh cho trẻ em chưa xác định được cha hoặc đăng ký nhận cha, con, hồ sơ phải có văn bản từ chối giải quyết của Tòa án và chứng cứ chứng minh quan hệ cha, con theo quy định. Cách quy định này là gây khó khăn cho đương sự trong việc yêu cầu xác định cha, mẹ cho con. Thay vì quy định thẩm quyền rõ ràng thì Thông tư lại quy định thêm điều kiện là “Tòa án nhân dân từ chối giải quyết”. Quy định trên buộc đương sự phải yêu cầu Tòa án giải quyết trước, nếu Tòa án từ chối thì thuộc thẩm quyền của cơ quan hộ tịch. Lẽ ra, đối với trường hợp này nên quy định thẩm quyền là Tòa án thì phù hợp và cụ thể hơn. 13 9 Ví dụ: Đẻ con lúc ở với chồng cũ, chồng mới nhận cha . Vợ chồng ông Trần Văn A (Bến Tre) đăng ký kết hôn năm 2000, đến năm 2012 thì sinh bé Y (tên dự định đặt). Đến năm 2014, vợ chồng ông A ly hôn theo bản án Tòa. Từ khi sinh ra đến nay bé Y chưa được đăng ký khai sinh mà chỉ có giấy chứng sinh do bệnh viện cấp. Năm 2018, mẹ bé Y kết hôn với ông Võ Văn B và được UBND phường 2, quận 10, TP.HCM cấp giấy chứng nhận kết hôn. Sau đó, ông B yêu cầu UBND phường đăng ký khai sinh cho bé Y. Hồ sơ mà ông B cung cấp cho UBND phường gồm có phiếu kết quả phân tích ADN thể hiện ông là cha ruột bé Y (có cùng huyết thống cha con), giấy chứng nhận kết hôn của ông và mẹ bé Y. Mẹ bé Y cũng có văn bản thỏa thuận thừa nhận bé Y là con của bà và ông B. Do bé Y được sinh ra năm 2012 (trong thời kỳ hôn nhân giữa mẹ bé Y và chồng trước) nên UBND phường 2, quận 10, TP.HCM không giải quyết đăng ký khai sinh cho bé và hướng dẫn ông B (chồng sau của mẹ bé Y) khởi kiện ra Tòa án để xác định cha cho con. Vì bé Y sinh ra trong thời kỳ hôn nhân của ông A và mẹ bé nên ông A và mẹ bé là cha mẹ. Tuy nhiên, ông A và người mẹ không đăng ký khai sinh nên họ không phải là cha mẹ về mặt pháp lý dù có giấy chứng sinh. Về phía ông B, tuy chứng cứ xác định ADN là cha ruột bé Y nhưng vì bé không sinh ra theo quy định tại Điều 88 LHNGĐ nên ông B cũng không phải cha bé Y. Về nguyên tắc, Điều 88 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng. Trường hợp bé Y phải là con của ông A và mẹ bé Y. Tuy nhiên, vì chưa đăng ký khai sinh và vì cha đích thực của bé Y là ông B nên mẹ bé Y không làm khai sinh cho bé. Bộ Tư pháp có tập huấn nghiệp vụ công tác hộ tịch là trong trường hợp người cha không thừa nhận con hoặc người mẹ khẳng định không phải là con của người chồng thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định. Trường hợp Tòa án không thụ lý, giải quyết hoặc đình chỉ việc giải quyết do không có tranh chấp thì để bảo đảm quyền lợi của trẻ em, tránh tình trạng trẻ không được đăng ký khai sinh, đề nghị UBND cấp xã có thẩm quyền đăng ký khai sinh cho trẻ theo diện con chưa xác định được cha. Hồ sơ phải có văn bản thể hiện việc từ chối giải quyết của Tòa án có thẩm quyền; kết quả giám định ADN xác định người 9 https://plo.vn/phap-luat/de-con-luc-o-voi-chong-cu-chong-moi-nhan-cha-tinh-sao-810194.html, cập nhật lúc 22h ngày 12.11.2021. 14 chồng không phải là cha ruột. Nếu người cha thực tế có yêu cầu nhận con thì kết hợp giải quyết đăng ký khai sinh và nhận con theo quy định tại Điều 12 Thông tư số 15/2015/TT-BTP ngày 16/11/2015 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ. Tuy nhiên, Điều 12 Thông tư số 15/2015/TT-BTP ngày 16/11/2015 chưa quy định rõ về trường hợp này. Theo Điều 12 của Thông tư này, khi đăng ký khai sinh cho trẻ em mà có người yêu cầu đăng ký nhận cha, mẹ, con thì cơ quan đăng ký hộ tịch kết hợp giải quyết thủ tục đăng ký khai sinh và thủ tục đăng ký nhận cha, mẹ, con 10 và phải có chứng cứ chứng minh quan hệ cha, mẹ, con . Từ thực tiễn trên, theo tác giả, TANDTC, Bộ Tư pháp, VKSNDTC cần có văn bản liên tịch (Thông tư) hướng dẫn khoản 4 Điều 28 BLTTDS, khoản 4 Điều 16 Thông tư 04/2020/TT-BTP ngày 28.5.2020 của Bộ Tư pháp về quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch theo hướng như sau: Khi đăng ký khai sinh cho trẻ em mà thời điểm trẻ em sinh ra đang có cha mẹ thì giải quyết theo Điều 88 LHNGĐ. Nếu trẻ em chưa đăng ký khai sinh mà cha, mẹ đã ly hôn, kết hôn với người khác và có nhu cầu xác định cha, mẹ, con thì thẩm quyền thuộc về TAND. Thứ ba, một số căn cứ xác định thẩm quyền theo vụ việc của Tòa án đối với các tranh chấp về việc xác định cha, mẹ, con chưa được luật nội dung quy định. Theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 102 LHNGĐ, cha, mẹ, con, có quyền yêu cầu Tòa án xác định con, cha, mẹ cho mình. Cha, mẹ, con, người giám hộ; cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ có quyền yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự; xác định con cho cha, mẹ chưa thành niên hoặc mất năng lực hành vi dân sự. Theo khoản 2 Điều 89 LHNGĐ, người được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó không phải là con mình. Theo quy định trên, Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con khi việc xác định này không tự nguyện và có tranh chấp. Thẩm 10 Nay là khoản 4 Điều 16 Thông tư 04/2020/TT-BTP ngày 28.5.2020 của bộ Tư pháp về quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch. 15 quyền này được quy định tại Khoản 4 Điều 28 BLTTDS. Theo quy định trên, khi đương sự hoặc đại diện của họ yêu cầu Tòa án giải quyết thì Tòa án phải thụ lý giải quyết. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng pháp luật để xác định thẩm quyền của Tòa án đối với việc xác định cha, mẹ, con vẫn còn bất cập. Đó là việc pháp luật chưa ghi nhận quyền của đương sự trong việc yêu cầu Tòa án giải quyết quyền lợi của họ và cần bổ sung. Ví dụ: Việc xác định cha, mẹ, con có quan điểm khác nhau giữa các cơ quan 11 tư pháp . Năm 2000, chị HTN (18 tuổi) từ Huế vào TP.HCM để làm việc, sinh sống. Sau đó, chị quen và sống chung như vợ chồng với một người đàn ông. Năm 2002, khi biết chị mang thai, người đàn ông này đã bỏ rơi chị. Trong lúc tuyệt vọng, chị N. đã tìm đến cái chết nhưng được gia đình anh LĐT (ngụ huyện Củ Chi, TP.HCM) cứu giúp. Anh T. đã có vợ nhưng thương hoàn cảnh tội nghiệp của chị N. nên đưa chị về Huế làm đám cưới giả (không đăng ký kết hôn) để chị N không bị họ hàng, làng xóm đàm tiếu. Tháng 9-2003, khi chị N sinh em bé, anh T ra Huế, đến ủy ban phường nơi chị N sống làm thủ tục nhận con và khai sinh cho cháu bé. Nay cháu bé con chị N là Đ4 (14 tuổi), vì sợ sẽ ảnh hưởng đến gia đình anh T. Và muốn xóa tên cha trong giấy khai sinh, chị N đã bàn bạc với anh T, nhờ anh đi xét nghiệm ADN để có chứng cứ nộp cho Tòa án yêu cầu xác nhận anh T không phải là cha ruột của cháu bé. Anh T đồng ý. Ngày 17-11-2015, chị N đã nộp đơn yêu cầu TAND huyện Củ Chi xác nhận anh T không phải là “cha sinh học” của con gái mình. TAND huyện Củ Chi thụ lý, xác định đây là “tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con”. Tháng 12-2015, TAND huyện Củ Chi đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án với lý do chị N không có quyền yêu cầu. Theo Tòa án, Khoản 2 Điều 89 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định “Người được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó không phải là con mình”. Theo Điều luật này, chị N không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết thay cho anh T. VKSND huyện Củ Chi đã kháng nghị phúc thẩm, khẳng định chị N có quyền yêu cầu Tòa giải quyết. Theo VKS huyện Củ Chi, quy định này được ghi nhận tại Khoản 3 Điều 102 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định: “Cá nhân, cơ quan, 11 http://plo.vn/phap-luat/me-xin-xac-nhan-khong-phai-cha-cua-con-toa-phai-xu-609891.html, cập nhật lúc 22h ngày 2.10.2021. 16 tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự; xác định con cho cha, mẹ chưa thành niên hoặc mất năng lực hành vi dân sự trong các trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 101 của Luật này: a) Cha, mẹ, con, người giám hộ; b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; d) Hội liên hiệp phụ nữ”. Trong vụ án này, TAND huyện Củ Chi đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự với căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 89 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 là có căn cứ. Bởi khoản 2 Điều 89 quy định chỉ có người được nhận là cha của một người mới có quyền yêu cầu Tòa án xác định người đó không phải là con mình. Việc người mẹ khởi kiện là không đúng với quy định trên. Theo điểm a khoản 1 Điều 192 BLTTDS, thì người mẹ là người không có quyền khởi kiện. Từ bất cập trên, theo tác giả, khoản 2 Điều 89 LHNGĐ, Nghị quyết hướng dẫn Bộ luật Tố tụng dân sự về thẩm quyền của Tòa án cần được sửa đổi, bổ sung và hướng dẫn theo hướng như sau: Một, khoản 2 Điều 89 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 bổ sung, sửa đổi như sau: Điều 89. Xác định con 1. Người không được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó là con mình. 2. Người được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó không phải là con mình. Cha, mẹ của con có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó không phải là con mình. Hai, Điều 102 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, bổ sung, sửa đổi như sau: Cha, mẹ, con, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án xác định con, cha, mẹ cho mình trong trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 101 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014. 1. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây có quyền yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự; xác định con cho cha, mẹ chưa thành niên hoặc mất năng lực hành vi dân sự trong các trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 101, Khoản 2 Điều 89 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014: 17 a) Cha, mẹ, con, người giám hộ; b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; d) Hội liên hiệp phụ nữ. Ba, Nghị quyết hướng dẫn thi hành về thẩm quyền của Tòa án đối với quy định tại khoản 2 Điều 89, Điều 102 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, khoản 4 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về chủ thể khởi kiện đối với vụ án xác định cha, mẹ, con, cần được hướng dẫn theo hướng như sau: Người được nhận là cha, mẹ của một người có quyền yêu cầu Tòa án xác định người đó không phải là con mình. Cha, mẹ, con, người giám hộ; Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ có quyền yêu cầu Tòa án xác định một người không phải là con của người khác. Quy định này đảm bảo việc thực hiện thẩm quyền của Tòa án đối với các tranh chấp về xác định cha, mẹ, con thuận lợi và dễ dàng hơn. Thứ tư, thẩm quyền xác định cha, mẹ, con theo Điều 101 LHNGĐ và khoản 4 Điều 28 BLTTDS, chưa phân định rõ trong LHNGĐ và BLTTDS. Đối với một số trường hợp, các quy định về thẩm quyền này có sự tùy nghi áp dụng và hậu quả có thể là bản án, quyết định của Tòa án có thể bị hủy do có sự không thống nhất về xác định thẩm quyền. 12 Ví dụ: Bàn về thẩm quyền xác định cha, mẹ, con . Anh A và chị B cư trú tại xã ĐT, thị xã NB, tỉnh H, chung sống năm 2008, không đăng ký kết hôn. Năm 2009, chị B sinh cháu C và do anh A, chị B không đăng ký kết hôn nên nhờ D (em trai anh A) E (vợ D) đứng tên cha mẹ trong giấy khai sinh của cháu C. Năm 2015, C đến tuổi đi học nên anh A, chị B muốn thay đổi phần tên cha, mẹ trong giấy khai sinh của C. Tuy nhiên, tại thời điểm này, D, E bỏ đi đâu không rõ. Anh A và chị B yêu cầu UBND xã ĐT, thị xã NB, tỉnh H cho thay đổi phần ghi cha, mẹ` của cháu C trong giấy khai sinh nhưng bị từ chối và được hướng dẫn khởi kiện tại Tòa án thị xã NB, tỉnh H. Tòa án thị xã NB, tỉnh H sau khi nhận đơn đã trả lại đơn khởi kiện với lý do sự việc không thuộc thẩm quyền. Từ vụ việc này, vấn đề đặt ra là nếu trẻ em đã có giấy khai sinh nhưng cha, mẹ ruột muốn xác định lại con cho mình thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án 12 Võ Văn Tuấn Khanh (2019), “Bàn về thẩm quyền xác định cha, mẹ, con”, Tạp chí kiểm sát, số 7 (4.), tr.55 – 58. 18 hay Ủy ban nhân dân? Theo khoản 1 Điều 89 LHNGĐ, người không được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó là con mình. Nhưng vấn đề đặt ra là theo Điều 101 LHNGĐ thì đối với việc xác định cha, mẹ, con mà không có tranh chấp thì thuộc thẩm quyền của cơ quan hộ tịch. Vậy trong trường hợp này, có hay không có sự tranh chấp? Nếu không có sự tranh chấp về xác định cha, mẹ, con thì do Ủy ban nhân dân giải quyết. Tuy nhiên, vì đứa trẻ đã có cha, mẹ (anh D, chị E) trong giấy khai sinh nên không thuộc trường hợp nhận cha, mẹ, con theo Điều 25 Luật Hộ tịch năm 2014. Ngược lại, Tòa án từ chối giải quyết vì cho rằng trong vụ việc này không có tranh chấp do không xác định ý chí của anh D, chị E nên từ chối thụ lý. Theo tác giả, trong trường hợp này, khoản 1 Điều 89 LHNGĐ, Điều 101 LHNGĐ và khoản 4 Điều 28 BLTTDS cần thống nhất những nội dung sau: Một, quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xác định một người là con mình là quyền của cha, mẹ và phải được giải quyết. Trong trường hợp này, không thể vì chưa có sự hướng dẫn thống nhất trong áp dụng pháp luật mà từ chối yêu cầu của anh A, chị B là không thỏa đáng. Hai, việc xác định cha, mẹ, con phải có quy định thống nhất đồng bộ giữa LHNGĐ, Luật Hộ tịch và BLTTDS. Ba, đối với trẻ đã có giấy khai sinh thì thẩm quyền thuộc về UBND và Tòa án. Nếu trẻ em có nhiều giấy khai sinh do nhiều cơ quan hộ tịch cấp thì việc xác 13 định giấy khai sinh nào là đúng sẽ do Ủy ban nhân dân giải quyết . Trường hợp trẻ sinh ra đã được cấp giấy khai sinh nhưng họ tên cha, mẹ không đúng và có yêu cầu thì thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân. Đối với vụ việc nêu trên, để đảm bảo đúng thủ tục tố tụng thì Tòa án phải tuyên bố anh D, chị E mất tích theo Điều 68 BLDS và tiến hành giải quyết theo yêu cầu của anh A, chị B. Từ thực tiễn trên, tác giả kiến nghị TANDTC, Bộ Tư pháp, VKSNDTC ban hành văn bản liên tịch hướng dẫn về thẩm quyền xác định cha, mẹ, con theo Điều 101 LHNGĐ và khoản 4 Điều 28 BLTTDS theo hướng như sau: Việc nhận cha, mẹ, con mà con chưa có giấy khai sinh và việc nhận cha, mẹ, con tự nguyện, không có tranh chấp thì thuộc thẩm quyền của UBND có thẩm quyền theo quy định. 13 Cù Hiền, “Hy hữu: 1 bé gái được cấp 2 giấy khai sinh” https://plo.vn/phap-luat/hy-huu-1-begai-duoc-cap-2-giay-khai-sinh-902152.html, truy cập lúc 21h ngày 3.10.2021. 19 Việc nhận cha, mẹ, con mà con có nhiều giấy khai sinh do nhiều cơ quan hộ tịch cấp và có tranh chấp thì thuộc thẩm quyền của UBND có thẩm quyền giải quyết. Việc nhận cha, mẹ, con mà con đã có giấy khai sinh nhưng tên cha, mẹ trong giấy khai sinh không phải là cha, mẹ đích thực thì dù tự nguyện hay có tranh chấp, thẩm quyền thuộc về Tòa án nhân dân. 1.2. T ẩm q ền của Tòa án các cấp Thẩm quyền của Tòa án các cấp là bộ phận của thẩm quyền xét xử, xác định cấp Tòa án được tiến hành thụ lý giải quyết các vụ việc dân sự theo thủ tục sơ thẩm. Thẩm quyền của Tòa án các cấp là giới hạn do pháp luật quy định để Tòa án các cấp thực hiện chức năng giải quyết các vụ việc dân sự. Thẩm quyền của Tòa án các cấp có thể được phân chia theo các tiêu chí: Giá trị tranh chấp, tính chất của vụ việc hoặc bản chất của tài sản. Theo BLTTDS 2015, thẩm quyền của Tòa án các cấp được phân chia căn cứ vào tính chất của vụ việc. Thẩm quyền của Tòa án các cấp bao gồm thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao, 14 thẩm quyền của TAND cấp tỉnh và cấp huyện . Mỗi cấp Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng có thẩm quyền giải quyết trong phạm vi những vụ việc dân sự nhất định. Cơ sở để cơ quan ban hành pháp luật quy định thẩm quyền cho từng cấp Tòa án là dựa vào năng lực thực sự của các cấp Tòa án và hiệu quả của việc áp dụng pháp luật. Sự phù hợp giữa quy định của pháp luật thẩm quyền xét xử và năng lực của cấp Tòa án là điều kiện quan trọng thúc đẩy hoạt động thực thi pháp luật ngày càng tốt hơn, giúp cho Tòa án giải quyết các vụ 15 việc dân sự đúng đắn, chính xác . Thẩm quyền của Tòa án cấp huyện và Tòa án cấp tỉnh được quy định tại Điều 35 và Điều 37 BLTTDS. Theo Điều 35 BLTTDS, Tòa án cấp huyện không được thụ lý giải quyết các tranh chấp về hôn nhân và gia đình mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài trừ việc ly hôn, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam và các quy định khác của pháp luật Việt Nam. 14 Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, NXB. Hồng Đức, tr.143. 15 Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2018), tlđd (14), tr.144.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan