MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU………………………………………………………………...1
Chương I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN CẤP
PHÚC THẨM TRONG TTHS………………………………………………5
1.1. Khái niệm thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong TTHS………….5
1.2. Ý nghĩa của việc quy định và thi hành quy định của pháp luật về thẩm
quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong TTHS…………………………………10
1.3. Khái quát pháp luật TTHS Việt Nam về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc
thẩm trước khi ban hành BLTTHS năm 2003………………………………...12
Chương II
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TTHS VIỆT NAM HIỆN HÀNH
VỀ THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN CẤP PHÚC THẨM………………….19
2.1. Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm....19
2.2. Sửa bản án sơ thẩm……………………………………....…………….......20
2.3.
Hủy
bản
án
sơ
thẩm
để
điều
tra
lại
hoặc
xét
xử
lại…………………….......30
2.4. Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án……………………...……………..34
Chương III
THỰC TRẠNG THI HÀNH PHÁP LUẬT TTHS VIỆT NAM VỀ THẨM
QUYỀN CỦA TÒA ÁN CẤP PHÚC THẨM VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ
NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TTHS VIỆT NAM VỀ THẨM
QUYỀN CỦA TÒA ÁN CẤP PHÚC THẨM………………………………..37
3.1. Thực trạng thi hành pháp luật TTHS Việt Nam về thẩm quyền của Tòa án
cấp phúc thẩm………………………………….....…………………………….37
3.2. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật TTHS về thẩm quyền của Tòa
án cấp phúc thẩm………………………………………………..........………..45
KẾT LUẬN………………………………………………………..………….51
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. Bộ luật tố tụng hình sự:
BLTTHS
2. Tố tụng hình sự;
TTHS
3. Tòa án nhân dân:
TAND
4. Tòa án nhân dân tối cao:
TANDTC
5. Viện kiểm sát:
VKS
6. Viện kiểm sát nhân dân tối cao:
VKSNDTC
7. Hội đồng xét xử:
HĐXX
8. Trách nhiệm hình sự:
TNHS
9. Bộ luật hình sự:
BLHS
10. Bộ luật dân sự:
BLDS
11. Tòa án quân sự:
TAQS
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đổi mới bộ máy Nhà nước nói chung và các cơ quan tư pháp nói riêng là
một trong những nội dung quan trọng của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quán triệt Nghị quyết số 48 – TQ/TW ngày
02/06/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 trong đó
nhấn mạnh: “Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử”, đồng thời “coi hoạt động xét
xử là hoạt động trọng tâm của hoạt động tư pháp”, những quy định về xét xử trong
BLTTHS cần được sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện. Ở nước ta, để đảm bảo
việc xét xử được chính xác, khách quan, luật TTHS quy định Tòa án thực hiện
nguyên tắc hai cấp xét xử, là cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm. Để thực hiện nguyên
tắc hai cấp xét xử, luật TTHS quy định trình tự xét xử sơ thẩm và trình tự xét xử
phúc thẩm.
Trong TTHS, thẩm quyền càng được phân định rõ ràng, khoa học, sát với
thực tế bao nhiêu càng bảo đảm cho việc xét xử khách quan, chính xác, đúng
người, đúng tội bấy nhiêu. Thẩm quyền của TAND nói chung và thẩm quyền của
Tòa án cấp phúc thẩm nói riêng là một chế định quan trọng trong pháp luật
TTHS Việt Nam. Những quy định về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm tại
Chương XXIV BLTTHS năm 2003 đã tạo nên khung pháp lý cho Tòa án thực
hiện quyền lực Nhà nước ở giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự với nhiệm
vụ kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm đồng
thời xét xử lại vụ án để sửa chữa những sai lầm, thiếu sót ở cấp sơ thẩm bằng
việc ra một trong những quyết định: không chấp nhận kháng cáo kháng nghị và
giữ nguyên bản án sơ thẩm; sửa bản án sơ thẩm; hủy bản án sơ thẩm để điều tra
lại hoặc xét xử lại, hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
Sự hoàn thiện pháp luật từ BLTTHS năm 1988 đến năm 2003 là một bước
tiến của quá trình lập pháp, góp phần đáp ứng yêu cầu của công tác xét xử hình
sự nói chung và hoạt động xét xử phúc thẩm nói riêng. Tuy vậy, chế định thẩm
quyền của Tòa án cấp phúc thẩm vẫn còn nhiều hạn chế. Trong thực tiễn, hiệu
quả công tác xét xử vẫn chưa thực sự được nâng cao, chưa đáp ứng được yêu
cầu của công cuộc cải cách tư pháp, trong đó, vấn đề thẩm quyền của Tòa án nói
chung và thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm nói riêng cũng gặp nhiều vướng
mắc. Chính vì vậy, vẫn còn tình trạng án để quá hạn xét xử, oan sai, gây bất bình
trong nhân dân, làm giảm uy tín của các cơ quan tư pháp, ảnh hưởng đến hiệu
quả giáo dục ý thức pháp luật và tinh thần đấu tranh phòng chống tội phạm của
nhân dân. Do đó, việc quy định cụ thể, đầy đủ, thống nhất về thẩm quyền của
Tòa án cấp phúc thẩm là một trong những yêu cầu cấp thiết nhằm thực hiện tốt
nhiệm vụ giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân; đảm bảo thực hiện đúng theo tinh thần Nghị
quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020: “Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực
tư pháp phù hợp với mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật. Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư
pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lí người
phạm tội”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học luật TTHS Việt Nam đã có những công trình nghiên cứu
về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm hoặc nghiên cứu toàn bộ chế định
phúc thẩm như: Luận văn thạc sĩ “Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong
TTHS Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Tiến (1998); luận văn thạc sĩ “Phúc
thẩm trong TTHS Việt Nam” của tác giả Phan Thị Thanh Mai (1998); luận án
tiến sĩ “Phúc thẩm trong TTHS Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đức Mai (2004)
… Có công trình nghiên cứu một phương diện của chế định này như luận văn
thạc sĩ “Phạm vi phúc thẩm của Tòa án nhân dân theo BLTTHS 2003” (2007)
của tác giả Ngô Thị Trang; luận án tiến sĩ “Thẩm quyền của Tòa án các cấp
theo luật TTHS Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Huyên” (2002)… Có công
trình nghiên cứu những vấn đề chung có liên quan như sách “Thủ tục phúc thẩm
trong luật TTHS Việt Nam” của tác giả Đinh Văn Quế (1988); luận văn thạc sĩ
“Giới hạn xét xử trong TTHS Việt Nam” của tác giả Ngô Thị Ánh (2007); luận
văn tiến sĩ “Nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTHS Việt Nam” của tác giả Vũ
Gia Lâm (2008)… Ngoài ra, có những bài viết trên các tạp chí nghiên cứu về
pháp luật như: “Về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm quy định tại khoản 3
Điều 249 BLTTHS” của tác giả Vũ Thành Long (Tạp chí kiểm sát số 20 tháng
10/2007); “Về Điều 249 BLTTHS và những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung” của tác
giả Nguyễn Thị Hồng Nhung – Lê Lưu Hằng (Tạp chí TAND số 18 tháng
09/2010); “Quyền hạn của Tòa án khi xét xử phúc thẩm” của tác giả Hoàng Thị
Sơn (Tạp chí Luật học số 6/2007)...
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã trực tiếp hoặc gián tiếp làm
sáng tỏ những vấn đề cơ bản về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm với nhiều
kiến nghị hoàn thiện chế định này. Tuy nhiên, vẫn còn không ít những vấn đề có
nhiều quan điểm khác nhau, nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ cần được nghiên cứu kĩ
hơn nữa. Vì vậy, việc nghiên cứu về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm với
mục đích tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này, đồng thời phát hiện những vướng mắc
trong thực tiễn, từ đó, đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
luật TTHS về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm là hết sức cần thiết. Do đó,
chúng tôi chọn đề tài “Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong TTHS
Việt Nam” để làm khóa luận tốt nghiệp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn
thi hành các quy định của pháp luật về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm
nhằm làm sáng tỏ những nhận thức cơ bản về chế định này để có cách hiểu và áp
dụng thống nhất, khóa luận đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy
định của pháp luật về vấn đề này.
Để thực hiện mục đích trên, tác giả đề ra những nhiệm vụ cụ thể sau:
+ Xây dựng khái niệm khoa học về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc
thẩm, tìm hiểu ý nghĩa của việc quy định thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm
+ Tìm hiểu lịch sử pháp luật TTHS Việt Nam về thẩm quyền của Tòa án
cấp phúc thẩm trước khi ban hành BLTTHS năm 2003
+ Nghiên cứu những quy định của BLTTHS năm 2003 về thẩm quyền của
Tòa án cấp phúc thẩm, xác định và đánh giá những vấn đề còn vướng mắc trong
quy định đó; nghiên cứu về thực tiễn thi hành, tìm hiểu vướng mắc và nguyên
nhân của tình hình đó.
+ Kiến nghị hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam về thẩm quyền của Tòa
án cấp phúc thẩm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những vấn đề lý luận chung về
thẩm quyền của Tòa án, những quy định của pháp luật TTHS Việt Nam.
Theo đó, phạm vi nghiên cứu của khóa luận là những quy định của
BLTTHS năm 2003 về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm khi xét xử lại vụ
án mà bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý truyền
thống như phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống
kê, phương pháp so sánh, lịch sử…
6. Kết cấu của khóa luận
Chương I. Những vấn đề chung về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm
Chương II. Những quy định của pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành về
thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm
Chương III. Thực trạng thi hành pháp luật TTHS Việt Nam về thẩm
quyền của Tòa án cấp phúc thẩm và những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật
TTHS Việt Nam về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm
Chương I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN CẤP
PHÚC THẨM TRONG TTHS
1.1. Khái niệm thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm
Đề cập tới vấn đề thẩm quyền của Tòa án chính là đề cập đến quyền tư
pháp, hoạt động tư pháp hình sự là một dạng hoạt động thực hiện quyền lực đó.
Hoạt động này được thực hiện bởi những cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, bao
gồm Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra và Thi hành án. Theo tinh thần
Nghị quyết số 49/NQ-TW về cải cách tư pháp thì Tòa án là khâu trung tâm của
quá trình cải cách, xét xử là khâu trọng tâm của toàn bộ hoạt động tư pháp bởi vì
thực chất hiệu quả của hoạt động tư pháp thể hiện chủ yếu của hoạt động xét xử
và Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự.
Theo Từ điển Luật học thì thẩm quyền là “quyền chính thức được xem xét
để kết luận và định đoạt, quyết định một vấn đề” còn thẩm quyền của Tòa án là
“quyền xém xét và quyền giải quyết vụ án (bao gồm ra bản án và các quyết định
khác) trong hoạt động xét xử của Tòa án theo quy định của pháp luật” [23, tr.
701]
Chế định thẩm quyền của Tòa án bao gồm các nội dung chính sau: thẩm
quyền xét xử để xác định Tòa án nào có thẩm quyền xét xử một vụ án cụ thể;
giới hạn và phạm vi xét xử để xác định quyền của Tòa án được xem xét những
vấn đề gì khi xét xử; thẩm quyền quyết định để xác định quyền hạn giải quyết
những vấn đề về nội dung vụ án đã được xem xét, những vấn đề đảm bảo cho
việc xét xử hoặc các vấn đề khác của TTHS liên quan đến hoạt động xét xử.
Một cách khái quát hơn, nội hàm của thuật ngữ thẩm quyền này là mối
quan hệ không thể tách rời của hai yếu tố hình thức và nội dung, trong đó: thẩm
quyền về hình thức được thể hiện ở quyền hạn xem xét và phạm vi xem xét, tức
xác định xem những vấn đề gì thuộc thẩm quyền xem xét của Tòa án, Tòa án
được xem xét vấn đề đó trong giới hạn, phạm vi nào; thẩm quyền về nội dung
thể hiện ở quyền hạn giải quyết, ra các quyết định đối với các vấn đề đã xem xét.
Như vậy, thẩm quyền của Tòa án là một khái niệm có nội dung rất rộng
bao gồm nhiều quyền của Tòa án khi giải quyết vụ án. Thẩm quyền quyết định
là một nội dung quan trọng của thẩm quyền. Thẩm quyền xét xử, giới hạn và
phạm vi xét xử là cơ sở đề xác định thẩm quyền quyết định của Tòa án vì Tòa án
chỉ có thể quyết định những vấn đề trong phạm vi cho phép và đã được xem xét.
Mặt khác, những vấn đề thuộc thẩm quyền xem xét của Tòa án cũng chỉ có ý
nghĩa khi được giải quyết bằng những quyết định của HĐXX.
Theo đó khái niệm thẩm quyền của Tòa án được xác định là “tổng hợp
các quyền mà pháp luật quy định cho Tòa án được xét xử những vụ án cụ thể và
quyết định đối với các vấn đề về nội dung vụ án nhằm đảm bảo cho việc xét xử
trong giới hạn hoặc phạm vi nhất định” [7, tr. 6]. Chúng tôi đồng ý với quan
điểm này.
Thẩm quyền của Tòa án nói chung và thẩm quyền của Tòa án cấp phúc
thẩm nói riêng là một thể thống nhất. Thẩm quyền quyết định của Tòa án cấp
phúc thẩm sẽ là vấn đề chính mà khóa luận đi phân tích và làm rõ tại Chương II.
Về khái niệm thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm vẫn còn nhiều quan
điểm nghiên cứu chưa thống nhất.
Theo quan điểm thứ nhất, thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong
TTHS là toàn bộ các quyền hạn mà pháp luật dành cho Tòa án cấp phúc thẩm
trong việc xem xét và quyết định các vấn đề cụ thể về các vụ án hình sự đã được
các Tòa án cấp dưới trực tiếp xét xử sơ thẩm, nhưng bản án (quyết định) chưa có
hiệu lực pháp luật do bị kháng cáo, kháng nghị [18, tr. 10]. Quan điểm này đã
nêu được một cách khá hoàn thiện về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm
trên cơ sở khái niệm chung về thẩm quyền của Tòa án.
Quan điểm khác lại cho rằng quyền hạn của Tòa án cấp phúc thẩm là
quyền mà pháp luật quy định khi xét lại những bản án, quyết định chưa có hiệu
lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị được quyết định về các vấn đề theo quy
định của pháp luật nhằm giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Quan điểm này có
phần nghiêng về khẳng định thẩm quyền xét lại bản án, quyết định sơ thẩm bị
kháng cáo, kháng nghị tức chỉ xem xét về tính hợp pháp, về tính có căn cứ của
bản án, quyết định sơ thẩm mà không nhấn mạnh đến tính chất xét xử lại của
cấp phúc thẩm.
Xét xử phúc thẩm là giai đoạn của TTHS, trong đó Tòa án cấp trên trực
tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ
thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị
nhằm khắc phục sai lầm của Tòa án cấp dưới, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp
luật, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tòa án
cấp phúc thẩm đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ là xét xử lại vụ án về mặt nội
dung (Tòa án cấp phúc thẩm có nhiệm vụ xem xét, đánh giá lại sự thật của vụ án
trên cơ sở tất cả những chứng cứ cũ và chứng cứ mới được bổ sung trong giai
đoạn xét xử phúc thẩm); và thực hiện chức năng giám đốc xét xử của Tòa án cấp
trên với tòa án cấp dưới, kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án,
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.
Khi xem xét thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm cần chú trọng những
vấn đề sau:
- Chủ thể thực hiện thẩm quyền phúc thẩm: là những Tòa án có thẩm
quyền phúc thẩm những vụ án hình sự theo quy định tại Khoản 2 Điều 24 và
Khoản 2 Điều 28 Luật tổ chức TAND năm 2002. Với quyền hạn tổ chức công
tác xét xử, Chánh án TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Chánh án
Tòa phúc thẩm TANDTC sẽ quyết định lựa chọn và phân công nhiệm vụ cho 3
thẩm phán trong những trường hợp thông thường (và thêm 2 Hội thẩm trong
trường hợp đặc biệt) hợp thành HĐXX phúc thẩm để xét xử vụ án hình sự (Điều
38 BLTTHS)
- Cơ sở phát sinh thẩm quyền: thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm
được phát sinh trong nhiệm vụ giải quyết từng vụ án cụ thể, đó là những vụ án
mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật do có
kháng cáo, kháng nghị của những người có quyền kháng cáo, kháng nghị. Chính
những kháng cáo, kháng nghị hợp pháp là căn cứ để bản án, quyết định sơ thẩm
trở thành đối tượng cần xem xét giải quyết ở giai đoạn phúc thẩm.
- Đối tượng của thẩm quyền xét xử phúc thẩm: Tòa án cấp phúc thẩm có
quyền xem xét và quyết định đối với những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật trên cơ sở những kháng cáo, kháng nghị hợp pháp. Bản án,
quyết định sơ thẩm phát sinh hiệu lực pháp luật và được thi hành trên thực tế,
không phải là đối tượng cần phải xem xét theo thủ tục phúc thẩm. Nếu sau đó
phát hiện ra những tình tiết mới làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết
định đó hoặc phát hiện ra những vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử
lý vụ án thì những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật sẽ trở thành đối
tượng xét lại theo thủ tục tái thẩm hoặc giám đốc thẩm. Đây là điểm khác biệt cơ
bản giữa thẩm quyền phúc thẩm với thẩm quyền giám đốc thẩm và tái thẩm.
- Nội dung thẩm quyền xét xử phúc thẩm: Tòa án cấp phúc thẩm tiến
hành xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ
thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị
hợp pháp. Cụ thể, Tòa án cấp phúc thẩm tiến hành xét lại tính hợp pháp (bản án,
quyết định đó phải phù hợp với những quy định của pháp luật cả về nội dung và
hình thức; những quy phạm pháp luật được viện dẫn phải được giải thích và áp
dụng đúng) và tính có căn cứ (những kết luận trong bản án phù hợp với những
sự kiện thực tế của vụ án từ những chứng cứ đã được xem xét, đánh giá công
khai tại phiên tòa). Tòa án cấp phúc thẩm tiến hành xét xử lại vụ án hình sự về
mặt nội dung để giải quyết vụ án một cách chính xác trên cơ sở những chứng cứ
ở cấp sơ thẩm và những chứng cứ mới.
- Phạm vi thực hiện thẩm quyền xét xử phúc thẩm: về cơ bản, kháng cáo,
kháng nghị hợp pháp là cơ sở pháp lý để Tòa án cấp phúc thẩm xác định phạm
vi xét xử của mình. Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét giải quyết phần nội dung
của bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, thẩm
quyền xem xét còn được mở rộng ra những phần khác của bản án không có
kháng cáo, kháng nghị, thậm chí mở rộng xem xét toàn bộ nội dung bản án nếu
Tòa án cấp phúc thẩm nhận thấy đó là những “trường hợp cần thiết” và không
vi phạm nguyên tắc không làm xấu hơn tình trạng của bị cáo. Điều 241
BLTTHS không quy định thế nào là “trường hợp cần thiết”, chỉ có khoản 2 Điều
249 BLTTHS quy định là Tòa án cấp phúc thẩm có thể giảm hình phạt, áp dụng
điều khoản BLHS về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ
hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo đối với cả những bị cáo
không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị.
Vấn đề này có nhiều quan điểm khác nhau, có quan điểm theo hướng dẫn
tại mục 4 phần VI Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 8/12/1988 của
TANDTC và VKSNDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong BLTTHS
trường hợp cần thiết là trường hợp ở phần không bị kháng cáo, kháng nghị có
những phần cần được giảm nhẹ TNHS; quan điểm khác lại cho rằng việc giải
thích “trường hợp cần thiết” trong thông tư 01/1988 là quá hẹp vì không đúng
với tinh thần của Điều 241 BLTTHS, Tòa án cấp phúc thẩm phải được xem xét
cả phần khác của bản án nhằm khắc phục tất cả những vi phạm pháp luật nếu
điều đó không làm xấu hơn tình trạng của bị cáo [11, tr. 56].
Trong những vụ án hình sự mà có nhiều bị cáo hoặc vụ án có bị cáo phạm
nhiều tội khi đó những chuỗi sự kiện, hành vi và chủ thể thực hiện có mối quan
hệ mật thiết, không thể tách rời thì Tòa án cấp phúc thẩm xem xét nội dung bản
án bị kháng cáo, kháng nghị cần đặt trong tổng thể của bản án. Theo đó, dù
không có kháng cáo, kháng nghị về phần cần xem xét, nhưng Tòa án cấp phúc
thẩm vẫn có quyền xem xét để giải quyết và phạm vi xem xét phải tuân theo
nguyên tắc không làm xấu hơn tình trạng của bị cáo. Việc xác định phạm vi xem
xét của Tòa án cấp phúc thẩm đầy đủ, toàn diện như trên sẽ đảm bảo cho việc
Tòa án cấp phúc thẩm kịp thời sửa chữa những sai lầm trong việc xét xử của Tòa
án cấp sơ thẩm, khẳng định phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai để giải quyết vụ án
một cách khách quan, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Tóm lại, có thể hiểu thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm là tổng hợp
các quyền mà pháp luật quy định cho Tòa án cấp phúc thẩm được xem xét và
quyết định trong phạm vi xét xử phúc thẩm đối với nội dung của vụ án hình sự
mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng
nghị, nhằm xét lại tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án, quyết định đó,
đồng thời giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
1.2. Ý nghĩa của việc quy định và thi hành quy định của pháp luật về thẩm
quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong TTHS
1.2.1. Ý nghĩa pháp lý
Những quy định về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm chính là cơ sở
pháp lý để Tòa án cấp phúc thẩm thực hiện nhiệm vụ của cấp xét xử thứ hai là
xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm
đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị hợp
pháp. Một vụ án hình sự có thể được xét xử theo hai cấp là một đảm bảo pháp lý
cần thiết cho việc xét xử của Tòa án được chính xác và đúng đắn, kịp thời sửa
chữa những sai lầm hoặc các vi phạm pháp luật mà Tòa án cấp sơ thẩm đã mắc
phải, góp phần nâng cao trách nhiệm của HĐXX sơ thẩm, giúp họ có thái độ
thận trọng và có trách nhiệm hơn trước khi đưa ra phán quyết của mình, chất
lượng xét xử tại các cấp xét xử ngày càng được nâng cao.
Trong quá trình trực tiếp thực hiện thẩm quyền của mình khi giải quyết
các vụ án hình sự cụ thể, việc quy định về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc
thẩm sẽ giúp tìm ra nguyên nhân dẫn đến những sai lầm hay những vi phạm
pháp luật trong việc áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng nói
chung và Tòa án nói riêng. Từ đó, đưa ra các giải pháp thích hợp để sửa chữa,
khắc phục về lập pháp cũng như về việc hướng dẫn áp dụng pháp luật, tổ chức
các cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là hoàn thiện tổ chức Tòa án đáp ứng yêu
cầu của nguyên tắc hai cấp xét xử. Những kiến nghị của Tòa án cấp phúc thẩm
sẽ là cơ sở pháp lý để cơ quan lập pháp tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống
pháp luật nói chung và những quy định về thẩm quyền của Tòa án nói riêng. [9,
tr. 39]
1.2.2. Ý nghĩa chính trị
Việc xác định cụ thể và thực hiện đúng đắn thẩm quyền của Tòa án cấp
phúc thẩm để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ của công tác xét xử vụ án hình sự,
chính là góp phần thực hiện yêu cầu của chiến lược cải cách tư pháp, đáp ứng
được yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Đồng thời, thông qua việc kiểm tra, phát hiện và sửa chữa những sai lầm
của Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm đã góp phần đảm bảo cho pháp
luật được thực hiện nghiêm minh, triệt để và thống nhất, nhưng có sự phân công
hợp lý giữa các cơ quan Nhà nước. Vì pháp luật quy định hệ thống các cơ quan
tư pháp gồm: Tòa án, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Cơ quan thi hành án;
đồng thời, quy định về thẩm quyền của từng cơ quan để xác định trách nhiệm
của mỗi cơ quan và mối quan hệ mật thiết giữa các cơ quan đó. Xét trong giai
đoạn xét xử phúc thẩm, đó chính là mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và
Tòa án cấp phúc thẩm được thể hiện thông qua việc Tòa án cấp phúc thẩm thực
hiện thẩm quyền của mình khi xem xét giải quyết những kháng nghị của Viện
Kiểm sát đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị.
Ngoài ra, việc quy định và thực hiện thẩm quyền của Tòa án cấp phúc
thẩm nói riêng và Tòa án nói chung sẽ đảm bảo nguyên tắc dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Do quan hệ pháp luật hình sự là quan hệ giữa Nhà nước và người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến những quan hệ xã hội được
pháp luật bảo vệ. Hơn nữa, đặc thù của hoạt động xét xử là tính công khai, minh
bạch, chịu sự giám sát của nhân dân. Qua việc giải quyết đúng đắn vụ án hình
sự, quyền và lợi ích của công dân được đảm bảo, lợi ích của Nhà nước trong
việc quản lý xã hội bằng pháp luật cũng được củng cố, yếu tố dân chủ được
nâng cao.
1.2.3. Ý nghĩa xã hội
Việc xét xử phải nhằm đến mục đích cao nhất là không bỏ lọt tội phạm,
xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh oan sai, đảm bảo quyền bình
đẳng của mọi công dân trong TTHS. Do đó, việc quy định và thực hiện thẩm
quyền của Tòa án cấp phúc thẩm có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo công
bằng xã hội, nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức pháp luật và phòng ngừa tội
phạm, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt động xét xử của Tòa án,
nâng cao uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và Tòa án nói riêng,
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật và tinh thẩn phòng chống tội phạm, tăng
cường niềm tin của người dân vào Đảng, Nhà nước và pháp luật.
1.3. Khái quát pháp luật TTHS Việt Nam về thẩm quyền của Tòa án cấp
phúc thẩm trước khi ban hành BLTTHS năm 2003
1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành
BLTTHS năm 1988
Sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, để bảo vệ thành quả
của cách mạng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật và
thành lập ngay các TAQS với chức năng, nhiệm vụ “xét xử tất cả những người
nào phạm một việc gì có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa” (Điều 2 Sắc lệnh số 33/SL ngày 13/9/1945). Điều 3 Sắc lệnh số
33/SL quy định việc xét xử của các TAQS là chung thẩm, các bản án được thi
hành ngay, đương sự không có quyền chống án, trừ các bản án tuyên xử tử, đối
với những bản án này pháp luật vẫn cho phép bị cáo có quyền đệ đơn xin Chủ
tịch Chính phủ ân giảm. Ngoài ra, còn ban hành Sắc lệnh số 13/SL, ngày
24/1/1946 về tổ chức các Tòa án và các ngạch bậc Thẩm phán, Sắc lệnh số
51/SL ngày 17/4/1946, Sắc lệnh số 112 ngày 28/6/1946 đều có những quy định
về việc chống án, kháng án khuyết tịch và thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp
phúc thẩm. Đặc biệt, ngày 9/11/1946, Quốc Hội nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa thông qua Hiến pháp năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của dân tộc, Hiến
pháp 1946 quy định cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa gồm
Tòa án tối cao, các tòa phúc thẩm, các Tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp (Điều 63).
Trong thời kì này, Nhà nước ta còn ban hành một số văn bản pháp luật quy định
chi tiết về chế định xét xử phúc thẩm. Sắc lệnh số 85 ngày 22/5/1950 quy định
“Công tố viên có quyền kháng cáo cả việc hình và việc hộ”; “về việc hình người
bị thiệt hại có quyền kháng cáo để xin tăng hình phạt, tiền bồi thường và các
khoản bồi hoàn” [8, tr. 52]; Thông tư 1828 ngày 18/10/1955 của Bộ Tư pháp
[11, tr. 18]. Thực hiện các quy định này, nhiều bản án sơ thẩm bị chống án đều
được Tòa án phúc thẩm xét xử, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của bị cáo và
đương sự.
Ngày 19/8/1955 Bộ Tư pháp ra thông tư 1459/HCTP xác định nguyên tắc
hai cấp xét xử là một trong những nguyên tắc tố tụng quan trọng cần phải được
bảo đảm. Tuy vậy, đối với các vụ phạm pháp về chính trị vẫn được thực hiện
theo Sắc lệnh số 21 ngày 14/2/1946 và Sắc lệnh số 156 ngày 17/11/1950 chỉ xét
xử một lần và bản án là chung thẩm. Ngày 14/8/1959 Thủ tướng Chính phủ ra
Nghị định số 300/TTg sáp nhập các Tòa án phúc thẩm khu thành TAND phúc
thẩm Hà Nội, TAND phúc thẩm Hải phòng, TAND phúc thẩm Vinh và giao cho
các Tòa này thẩm quyền xét xử lại bản án của các TAND tỉnh, thành phố bị
kháng cáo. Ngày 20/10/Thủ tướng Chính phủ đã ra Nghị định số 381/TTg giao
cho TANDTC có thẩm quyền xét xử phúc thẩm những vụ án do Tòa án cấp dưới
xét xử trong các trường hợp có kháng nghị của cơ quan công tố [8, tr. 53]
Ngày 14/7/1960 Quốc Hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã thông qua
Luật tổ chức TAND năm 1960, trong đó xác định “TAND thực hành chế độ hai
cấp xét xử” (Điều 9); quy định cho TANDTC và TAND cấp tỉnh có thẩm quyền
xét xử phúc thẩm những bản án, quyết định của TAND cấp dưới bị chống án
hoặc bị kháng nghị (Điều 19 và Điều 21). Sau đó, pháp lệnh ngày 23/3/1961 về
tổ chức TANDTC và các TAND địa phương cũng quy định thẩm quyền xét xử
phúc thẩm của Tòa phúc thẩm TANDTC và các TAND tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương. TANDTC ban hành Thông tư số 03/NCPL ngày 19/5/1967
đã quy định khá cụ thể trình tự tố tụng phúc thẩm. Về phạm vi xét xử, Thông tư
cho phép Tòa án cấp phúc thẩm có quyền xét lại toàn bộ vụ án, không phụ thuộc
vào nội dung của kháng cáo, kháng nghị. Với quy định này, Tòa án cấp phúc
thẩm có điều kiện chủ động phát hiện và khắc phục những thiếu sót của Tòa án
cấp sơ thẩm về định tội danh, áp dụng điều luật, quyết định hình phạt. Sau 07
năm áp dụng Thông tư số 03 các Tòa án cấp phúc thẩm đã xét xử được nhiều vụ
việc, trên 80% số vụ án bị kháng cáo, kháng nghị đều được giải quyết. Tòa án
cấp phúc thẩm đã sửa chữa nhiều bản án có sai lầm, thiếu sót, hạn chế đến mức
thấp nhất sự oan sai. Tuy vậy, Thông tư số 03 quy định nhiệm vụ của Tòa án cấp
phúc thẩm là xét xử lại toàn bộ vụ án, kể cả đối với những người không kháng
cáo, cũng không bị kháng cáo, kháng nghị, là chưa thật sự hợp lý làm cho công
tác xét xử phúc thẩm trở nên nặng nề một cách không cần thiết, làm chậm cả
việc thi hành những phần của bản án sơ thẩm lẽ ra phải có hiệu lực pháp luật và
đã có thể phát huy kịp thời tác dụng thiết thực TANDTC (1976). [17, tr. 206].
Nhìn chung, văn bản này đã đáp ứng đòi hỏi cấp thiết trong hoàn cảnh pháp luật
về trình tự TTHS của ta còn thiếu nhiều quy định, tuy nhiên nó vẫn tồn tại nhiều
hạn chế nhất định. Vì vậy, để khắc phục nhược điểm của Thông tư 03, ngày
2/10/1974, TANDTC ban hành Bản hướng dẫn về trình tự tố tụng phúc thẩm về
hình sự (kèm theo thông tư số 19/TATC) thay thế cho Thông tư 03. Thông tư số
19/TATC ngày 2/10/1974 quy định đầy đủ trình tự, thủ tục xét xử phúc thẩm,
trong đó xác định rõ phạm vi xét xử cho phép Tòa án cấp phúc thẩm được xét xử
lại toàn bộ khi kháng cáo hoặc kháng nghị đề cập đến toàn bộ bản án. Nếu
kháng cáo, kháng nghị một phần bản án thì Tòa án cấp phúc thẩm chỉ được xét
xử với những người có kháng cáo, kháng nghị nhưng khi xem xét nội dung của
kháng cáo, kháng nghị, Tòa án cấp phúc thẩm phải đạt nó trong toàn bộ vụ án.
Đối với những bị cáo không kháng cáo cũng không bị kháng cáo, kháng nghị
nếu xét thấy mức án sơ thẩm là quá nhẹ thì Tòa án cấp phúc thẩm cần đề nghị
VKS kháng nghị. Nếu VKS không nhất trí hoặc thời hạn kháng nghị đã hết thì
chỉ giải quyết theo trình tự giám đốc thẩm, còn Tòa án cấp phúc thẩm không tự
mình tăng án và cũng không hủy bản án sơ thẩm để tự xét xử lại hay giao cho
Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại.
Theo quy định của Thông tư 19/TATC ngày 2/10/1974, Tòa án cấp phúc
thẩm không có quyền xét xử toàn bộ vụ án nếu kháng cáo, kháng nghị không đề
cập đến toàn bộ vụ án. Phạm vi xét xử của Tòa án cấp phúc thẩm bị thu hẹp
trong nội dung của kháng cáo, kháng nghị; quyền hạn sửa bản án, hủy bản án
theo hướng làm xấu tình trạng của bị cáo bị hạn chế; cho phép Tòa án cấp phúc
thẩm được sửa bản án theo hướng nhẹ hơn trong những trường hợp có kháng
cáo, kháng nghị theo hướng đó và cả trường hợp kháng cáo của người bị hại,
kháng nghị của VKS theo hướng nặng hơn. Khi xem xét nội dung kháng cáo,
kháng nghị Tòa án cấp phúc thẩm có quyền hạn sau đây: bác kháng cáo, kháng
nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm; sửa bản án sơ thẩm theo hướng nhẹ hơn
hoặc tuyên bố bị cáo vô tội kể cả trong trường hợp có kháng cáo hoặc kháng
nghị của VKS theo hướng tăng nặng. Tòa án cấp phúc thẩm chỉ có quyền sửa
bản án sơ thẩm theo hướng tăng nặng khi có kháng cáo của người bị hại hoặc
kháng nghị của VKS theo hướng đó; hủy toàn bộ hoặc một phần bản án sơ thẩm
để điều tra lại hoặc xét xử lại vụ án; đình chỉ vụ án; sửa lại quyết định của Tòa
án cấp sơ thẩm về phần bồi thường thiệt hại; xử lý vật chứng. [18, tr. 20]
Sau năm 1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, ngày 2/7/1976, Quốc hội
khóa VI ra Nghị quyết quy định ở miền Nam chưa có sẽ áp dụng những văn bản
miền Bắc đã có, như vậy, việc xét xử phúc thẩm vụ án hình sự được áp dụng
thống nhất trong cả nước. Sau khi Hiến pháp năm1980 ra đời, ngày 13/7/1981
Quốc Hội khóa VII kỳ họp thứ nhất đã thông qua Luật tổ chức TAND năm
1981, về cơ bản, chức năng, nhiệm vụ của phúc thẩm vẫn được duy trì như trước
đây. Như vậy, mặc dù chưa đề cập đầy đủ mọi vấn đề về trình tự, thủ tục và
thẩm quyền phúc thẩm nhưng các văn bản pháp luật này đã góp phần to lớn, cho
phép Tòa án cấp phúc thẩm vận dụng xét xử để kịp thời phát hiện, khắc phục
các sai sót của Tòa án cấp dưới, bảo đảm cho việc xét xử đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, góp phần từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật TTHS của
nước ta.
1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành BLTTHS năm 1988 đến trước khi ban hành
BLTTHS năm 2003
Năm 1985, BLHS ra đời đánh dấu bước phát triển quan trọng trong lịch
sử lập pháp của Nhà nước ta. Sau đó, ngày 25/6/1988 tại kì họp thứ ba khóa VIII
Quốc hội đã thông qua BLTTHS. Đây là BLTTHS đầu tiên của nước ta, Bộ luật
này đã giành toàn bộ Chương XXII và Chương XXIII quy định về thủ tục phúc
thẩm. Đây là những quy định hoàn thiện, đầy đủ nhất của nước ta kể từ ngày
thành lập nước và có nhiều thay đổi tiến bộ hơn so với các quy định trước đây.
Trước đây, Tòa án cấp phúc thẩm, ngoài việc giải quyết nội dung kháng cáo,
kháng nghị còn có quyền xem xét sang cả những vấn đề nằm ngoài nội dung
kháng cáo, kháng nghị. Đồng thời, Tòa án cấp phúc thẩm còn có quyền ra quyết
định hủy bản án, quyết định sơ thẩm để trả về Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại theo
hướng nặng hơn mặc dù không có kháng cáo, kháng nghị theo hướng đó. Quy
định như vậy đã giảm bớt giá trị pháp lý của chế định kháng cáo, kháng nghị, vì
xét xử phúc thẩm chỉ được thực hiện khi có kháng cáo, kháng nghị cho nên nếu
xem xét cả phần bản án, quyết định không có kháng cáo, kháng nghị trong mọi
trường hợp sẽ làm mất tính ổn định của phần bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật do không có kháng cáo, kháng nghị, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
của người kháng cáo, người không kháng cáo hay người không bị kháng cáo,
kháng nghị. Khi BLTTHS năm 1988 được ban hành thì những hạn chế này đã
được khắc phục, việc xác định phạm vi xét xử phúc thẩm phù hợp với yêu cầu
của nguyên tắc hai cấp xét xử cũng như ý nghĩa của chế định kháng cáo, kháng
nghị; Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án theo phạm vi kháng cáo, kháng
nghị, chỉ xem xét sang các phần khác của bản án không có kháng cáo, kháng
nghị trong trường hợp cần thiết. Điều 220 BLTTHS năm 1988 quy định Tòa án
cấp phúc thẩm có quyền quyết định: bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên
bản án sơ thẩm; sửa bản án sơ thẩm; hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án
để điều tra lại hoặc xét xử lại; hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Những
quyền hạn này được quy định cụ thể tại Điều 221, Điều 222, Điều 223 BLTTHS
năm 1988, theo đó, Tòa án cấp phúc thẩm có thể bác kháng cáo, kháng nghị, giữ
nguyên bản án sơ thẩm, khi có căn cứ có thể sửa một phần hoặc sửa toàn bộ bản
án sơ thẩm theo hướng có lợi (miễn trách nhiệm hình phạt cho bị cáo; áp dụng
điều khoản BLHS về tội nhẹ hơn; giảm hình phạt cho bị cáo; giảm mức bồi
thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý vật chứng) hoặc theo hướng bất lợi cho
bị cáo (tăng hình phạt; áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn; tăng mức bồi
thường thiệt hại) nếu có kháng cáo, kháng nghị theo hướng đó. Nếu không có
kháng cáo, kháng nghị theo hướng bất lợi cho bị cáo thì HĐXX phúc thẩm
không có quyền làm xấu đi tình trạng của bị cáo hoặc ra quyết định hủy bản án,
quyết định sơ thẩm để trả về xét xử lại theo hướng không có lợi cho bị cáo.
HĐXX phúc thẩm còn có quyền hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để
điều tra lại hoặc xét xử lại; hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án, Tòa án cấp
phúc thẩm cũng có thể hủy án sơ thẩm và đình chỉ vụ án cho cả những người
không kháng cáo hoặc liên quan đến kháng cáo, kháng nghị nếu như việc hủy và
đình chỉ vụ án là có lợi cho họ. Nhìn chung, thẩm quyền của Tòa án cấp phúc
thẩm được quy định trong BLTTHS năm 1988 là phù hợp với giai đoạn phát
triển tương ứng với tình hình phát triển kinh tế xã hội nước ta, với tổ chức và
năng lực của các cơ quan tiến hành tố tụng, đã đáp ứng được những vấn đề cần
phải giải quyết của vụ án theo trình tự phúc thẩm. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử
phúc thẩm trong giai đoạn này đã phát sinh một số vướng mắc về mặt tố tụng,
trong đó chủ yếu do sự giới hạn về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm dẫn
đến việc Tòa án cấp phúc thẩm không thể giải quyết được về nội dung vụ án.
Đối với các trường hợp sửa bản án sơ thẩm theo quy định tại khoản 3 điều 221
BLTTHS năm 1988 về lý luận cũng như thực tiễn xét xử có nhiều ý kiến khác
nhau, và nó cũng chưa đầy đủ, vì trong thực tiễn, Tòa án cấp phúc thẩm không
chỉ miễn TNHS hoặc miễn hình phạt cho bị cáo; áp dụng điều khoản BLHS về
tội nhẹ hơn, giảm hình phạt đối với bị cáo, giảm mức BTTH và sửa quyết định
xử lý vật chứng, mà còn sửa những quyết định khác của bản án sơ thẩm: sửa
quyết định về áp dụng các biện pháp tư pháp được quy định tại Chương V từ
Điều 33 đến Điều 36 BLHS, sửa án phí. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 204
BLTTHS năm 1988 thì Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại những bản án hoặc quyết
định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị chứ
không phải việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định
sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Quy định như vậy
đã dẫn đến việc hiểu sai về tính chất của xét xử phúc thẩm, dường như coi thủ
tục phúc thẩm, thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm có cùng tính chất, chúng chỉ
khác nhau về đặc điểm của đối tượng bị đưa ra xét lại mà thôi.
Quán triệt những tư tưởng, quan điểm, định hướng về cải cách tư pháp đề
ra trong Nghị quyết số 08/NQ - TW ngày 02/01/2002 và tinh thần Điều 2 Hiến
pháp 1992 sửa đổi; ngày 02/04/2002 Quốc Hội đã thông qua Luật tổ chức
TAND năm 2002; ngày 26/11/2003 Quốc Hội đã thông qua BLTTHS năm 2003,
có hiệu lực ngày 01/07/2004.
Tóm lại, trải qua từng giai đoạn chế định thẩm quyền của Tòa án cấp phúc
thẩm ngày càng được hoàn thiện phù hợp với thực tiễn xét xử, góp phần nâng
cao chất lượng xét xử của Tòa án, kịp thời khắc phục những sai lầm của Tòa án
cấp dưới, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng,
đồng thời góp phần bảo đảm lợi ích của Nhà nước và xã hội.
- Xem thêm -