Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Thẩm quyền của tòa án cấp phúc thẩm trong tths việt nam...

Tài liệu Thẩm quyền của tòa án cấp phúc thẩm trong tths việt nam

.DOC
55
13
134

Mô tả:

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU………………………………………………………………...1 Chương I NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN CẤP PHÚC THẨM TRONG TTHS………………………………………………5 1.1. Khái niệm thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong TTHS………….5 1.2. Ý nghĩa của việc quy định và thi hành quy định của pháp luật về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong TTHS…………………………………10 1.3. Khái quát pháp luật TTHS Việt Nam về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trước khi ban hành BLTTHS năm 2003………………………………...12 Chương II NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TTHS VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN CẤP PHÚC THẨM………………….19 2.1. Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm....19 2.2. Sửa bản án sơ thẩm……………………………………....…………….......20 2.3. Hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại…………………….......30 2.4. Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án……………………...……………..34 Chương III THỰC TRẠNG THI HÀNH PHÁP LUẬT TTHS VIỆT NAM VỀ THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN CẤP PHÚC THẨM VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TTHS VIỆT NAM VỀ THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN CẤP PHÚC THẨM………………………………..37 3.1. Thực trạng thi hành pháp luật TTHS Việt Nam về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm………………………………….....…………………………….37 3.2. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật TTHS về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm………………………………………………..........………..45 KẾT LUẬN………………………………………………………..………….51 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT 1. Bộ luật tố tụng hình sự: BLTTHS 2. Tố tụng hình sự; TTHS 3. Tòa án nhân dân: TAND 4. Tòa án nhân dân tối cao: TANDTC 5. Viện kiểm sát: VKS 6. Viện kiểm sát nhân dân tối cao: VKSNDTC 7. Hội đồng xét xử: HĐXX 8. Trách nhiệm hình sự: TNHS 9. Bộ luật hình sự: BLHS 10. Bộ luật dân sự: BLDS 11. Tòa án quân sự: TAQS LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đổi mới bộ máy Nhà nước nói chung và các cơ quan tư pháp nói riêng là một trong những nội dung quan trọng của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quán triệt Nghị quyết số 48 – TQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 trong đó nhấn mạnh: “Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử”, đồng thời “coi hoạt động xét xử là hoạt động trọng tâm của hoạt động tư pháp”, những quy định về xét xử trong BLTTHS cần được sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện. Ở nước ta, để đảm bảo việc xét xử được chính xác, khách quan, luật TTHS quy định Tòa án thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử, là cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm. Để thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử, luật TTHS quy định trình tự xét xử sơ thẩm và trình tự xét xử phúc thẩm. Trong TTHS, thẩm quyền càng được phân định rõ ràng, khoa học, sát với thực tế bao nhiêu càng bảo đảm cho việc xét xử khách quan, chính xác, đúng người, đúng tội bấy nhiêu. Thẩm quyền của TAND nói chung và thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm nói riêng là một chế định quan trọng trong pháp luật TTHS Việt Nam. Những quy định về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm tại Chương XXIV BLTTHS năm 2003 đã tạo nên khung pháp lý cho Tòa án thực hiện quyền lực Nhà nước ở giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự với nhiệm vụ kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm đồng thời xét xử lại vụ án để sửa chữa những sai lầm, thiếu sót ở cấp sơ thẩm bằng việc ra một trong những quyết định: không chấp nhận kháng cáo kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm; sửa bản án sơ thẩm; hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại, hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Sự hoàn thiện pháp luật từ BLTTHS năm 1988 đến năm 2003 là một bước tiến của quá trình lập pháp, góp phần đáp ứng yêu cầu của công tác xét xử hình sự nói chung và hoạt động xét xử phúc thẩm nói riêng. Tuy vậy, chế định thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm vẫn còn nhiều hạn chế. Trong thực tiễn, hiệu quả công tác xét xử vẫn chưa thực sự được nâng cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, trong đó, vấn đề thẩm quyền của Tòa án nói chung và thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm nói riêng cũng gặp nhiều vướng mắc. Chính vì vậy, vẫn còn tình trạng án để quá hạn xét xử, oan sai, gây bất bình trong nhân dân, làm giảm uy tín của các cơ quan tư pháp, ảnh hưởng đến hiệu quả giáo dục ý thức pháp luật và tinh thần đấu tranh phòng chống tội phạm của nhân dân. Do đó, việc quy định cụ thể, đầy đủ, thống nhất về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm là một trong những yêu cầu cấp thiết nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; đảm bảo thực hiện đúng theo tinh thần Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020: “Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp với mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lí người phạm tội”. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong khoa học luật TTHS Việt Nam đã có những công trình nghiên cứu về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm hoặc nghiên cứu toàn bộ chế định phúc thẩm như: Luận văn thạc sĩ “Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong TTHS Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Tiến (1998); luận văn thạc sĩ “Phúc thẩm trong TTHS Việt Nam” của tác giả Phan Thị Thanh Mai (1998); luận án tiến sĩ “Phúc thẩm trong TTHS Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đức Mai (2004) … Có công trình nghiên cứu một phương diện của chế định này như luận văn thạc sĩ “Phạm vi phúc thẩm của Tòa án nhân dân theo BLTTHS 2003” (2007) của tác giả Ngô Thị Trang; luận án tiến sĩ “Thẩm quyền của Tòa án các cấp theo luật TTHS Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Huyên” (2002)… Có công trình nghiên cứu những vấn đề chung có liên quan như sách “Thủ tục phúc thẩm trong luật TTHS Việt Nam” của tác giả Đinh Văn Quế (1988); luận văn thạc sĩ “Giới hạn xét xử trong TTHS Việt Nam” của tác giả Ngô Thị Ánh (2007); luận văn tiến sĩ “Nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTHS Việt Nam” của tác giả Vũ Gia Lâm (2008)… Ngoài ra, có những bài viết trên các tạp chí nghiên cứu về pháp luật như: “Về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm quy định tại khoản 3 Điều 249 BLTTHS” của tác giả Vũ Thành Long (Tạp chí kiểm sát số 20 tháng 10/2007); “Về Điều 249 BLTTHS và những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Nhung – Lê Lưu Hằng (Tạp chí TAND số 18 tháng 09/2010); “Quyền hạn của Tòa án khi xét xử phúc thẩm” của tác giả Hoàng Thị Sơn (Tạp chí Luật học số 6/2007)... Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã trực tiếp hoặc gián tiếp làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm với nhiều kiến nghị hoàn thiện chế định này. Tuy nhiên, vẫn còn không ít những vấn đề có nhiều quan điểm khác nhau, nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ cần được nghiên cứu kĩ hơn nữa. Vì vậy, việc nghiên cứu về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm với mục đích tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này, đồng thời phát hiện những vướng mắc trong thực tiễn, từ đó, đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm là hết sức cần thiết. Do đó, chúng tôi chọn đề tài “Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong TTHS Việt Nam” để làm khóa luận tốt nghiệp. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm nhằm làm sáng tỏ những nhận thức cơ bản về chế định này để có cách hiểu và áp dụng thống nhất, khóa luận đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này. Để thực hiện mục đích trên, tác giả đề ra những nhiệm vụ cụ thể sau: + Xây dựng khái niệm khoa học về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm, tìm hiểu ý nghĩa của việc quy định thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm + Tìm hiểu lịch sử pháp luật TTHS Việt Nam về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trước khi ban hành BLTTHS năm 2003 + Nghiên cứu những quy định của BLTTHS năm 2003 về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm, xác định và đánh giá những vấn đề còn vướng mắc trong quy định đó; nghiên cứu về thực tiễn thi hành, tìm hiểu vướng mắc và nguyên nhân của tình hình đó. + Kiến nghị hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những vấn đề lý luận chung về thẩm quyền của Tòa án, những quy định của pháp luật TTHS Việt Nam. Theo đó, phạm vi nghiên cứu của khóa luận là những quy định của BLTTHS năm 2003 về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm khi xét xử lại vụ án mà bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. 5. Phương pháp nghiên cứu Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý truyền thống như phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, lịch sử… 6. Kết cấu của khóa luận Chương I. Những vấn đề chung về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm Chương II. Những quy định của pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm Chương III. Thực trạng thi hành pháp luật TTHS Việt Nam về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm và những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm Chương I NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN CẤP PHÚC THẨM TRONG TTHS 1.1. Khái niệm thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm Đề cập tới vấn đề thẩm quyền của Tòa án chính là đề cập đến quyền tư pháp, hoạt động tư pháp hình sự là một dạng hoạt động thực hiện quyền lực đó. Hoạt động này được thực hiện bởi những cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, bao gồm Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra và Thi hành án. Theo tinh thần Nghị quyết số 49/NQ-TW về cải cách tư pháp thì Tòa án là khâu trung tâm của quá trình cải cách, xét xử là khâu trọng tâm của toàn bộ hoạt động tư pháp bởi vì thực chất hiệu quả của hoạt động tư pháp thể hiện chủ yếu của hoạt động xét xử và Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự. Theo Từ điển Luật học thì thẩm quyền là “quyền chính thức được xem xét để kết luận và định đoạt, quyết định một vấn đề” còn thẩm quyền của Tòa án là “quyền xém xét và quyền giải quyết vụ án (bao gồm ra bản án và các quyết định khác) trong hoạt động xét xử của Tòa án theo quy định của pháp luật” [23, tr. 701] Chế định thẩm quyền của Tòa án bao gồm các nội dung chính sau: thẩm quyền xét xử để xác định Tòa án nào có thẩm quyền xét xử một vụ án cụ thể; giới hạn và phạm vi xét xử để xác định quyền của Tòa án được xem xét những vấn đề gì khi xét xử; thẩm quyền quyết định để xác định quyền hạn giải quyết những vấn đề về nội dung vụ án đã được xem xét, những vấn đề đảm bảo cho việc xét xử hoặc các vấn đề khác của TTHS liên quan đến hoạt động xét xử. Một cách khái quát hơn, nội hàm của thuật ngữ thẩm quyền này là mối quan hệ không thể tách rời của hai yếu tố hình thức và nội dung, trong đó: thẩm quyền về hình thức được thể hiện ở quyền hạn xem xét và phạm vi xem xét, tức xác định xem những vấn đề gì thuộc thẩm quyền xem xét của Tòa án, Tòa án được xem xét vấn đề đó trong giới hạn, phạm vi nào; thẩm quyền về nội dung thể hiện ở quyền hạn giải quyết, ra các quyết định đối với các vấn đề đã xem xét. Như vậy, thẩm quyền của Tòa án là một khái niệm có nội dung rất rộng bao gồm nhiều quyền của Tòa án khi giải quyết vụ án. Thẩm quyền quyết định là một nội dung quan trọng của thẩm quyền. Thẩm quyền xét xử, giới hạn và phạm vi xét xử là cơ sở đề xác định thẩm quyền quyết định của Tòa án vì Tòa án chỉ có thể quyết định những vấn đề trong phạm vi cho phép và đã được xem xét. Mặt khác, những vấn đề thuộc thẩm quyền xem xét của Tòa án cũng chỉ có ý nghĩa khi được giải quyết bằng những quyết định của HĐXX. Theo đó khái niệm thẩm quyền của Tòa án được xác định là “tổng hợp các quyền mà pháp luật quy định cho Tòa án được xét xử những vụ án cụ thể và quyết định đối với các vấn đề về nội dung vụ án nhằm đảm bảo cho việc xét xử trong giới hạn hoặc phạm vi nhất định” [7, tr. 6]. Chúng tôi đồng ý với quan điểm này. Thẩm quyền của Tòa án nói chung và thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm nói riêng là một thể thống nhất. Thẩm quyền quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm sẽ là vấn đề chính mà khóa luận đi phân tích và làm rõ tại Chương II. Về khái niệm thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm vẫn còn nhiều quan điểm nghiên cứu chưa thống nhất. Theo quan điểm thứ nhất, thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong TTHS là toàn bộ các quyền hạn mà pháp luật dành cho Tòa án cấp phúc thẩm trong việc xem xét và quyết định các vấn đề cụ thể về các vụ án hình sự đã được các Tòa án cấp dưới trực tiếp xét xử sơ thẩm, nhưng bản án (quyết định) chưa có hiệu lực pháp luật do bị kháng cáo, kháng nghị [18, tr. 10]. Quan điểm này đã nêu được một cách khá hoàn thiện về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trên cơ sở khái niệm chung về thẩm quyền của Tòa án. Quan điểm khác lại cho rằng quyền hạn của Tòa án cấp phúc thẩm là quyền mà pháp luật quy định khi xét lại những bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị được quyết định về các vấn đề theo quy định của pháp luật nhằm giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Quan điểm này có phần nghiêng về khẳng định thẩm quyền xét lại bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị tức chỉ xem xét về tính hợp pháp, về tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm mà không nhấn mạnh đến tính chất xét xử lại của cấp phúc thẩm. Xét xử phúc thẩm là giai đoạn của TTHS, trong đó Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị nhằm khắc phục sai lầm của Tòa án cấp dưới, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tòa án cấp phúc thẩm đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ là xét xử lại vụ án về mặt nội dung (Tòa án cấp phúc thẩm có nhiệm vụ xem xét, đánh giá lại sự thật của vụ án trên cơ sở tất cả những chứng cứ cũ và chứng cứ mới được bổ sung trong giai đoạn xét xử phúc thẩm); và thực hiện chức năng giám đốc xét xử của Tòa án cấp trên với tòa án cấp dưới, kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Khi xem xét thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm cần chú trọng những vấn đề sau: - Chủ thể thực hiện thẩm quyền phúc thẩm: là những Tòa án có thẩm quyền phúc thẩm những vụ án hình sự theo quy định tại Khoản 2 Điều 24 và Khoản 2 Điều 28 Luật tổ chức TAND năm 2002. Với quyền hạn tổ chức công tác xét xử, Chánh án TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Chánh án Tòa phúc thẩm TANDTC sẽ quyết định lựa chọn và phân công nhiệm vụ cho 3 thẩm phán trong những trường hợp thông thường (và thêm 2 Hội thẩm trong trường hợp đặc biệt) hợp thành HĐXX phúc thẩm để xét xử vụ án hình sự (Điều 38 BLTTHS) - Cơ sở phát sinh thẩm quyền: thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm được phát sinh trong nhiệm vụ giải quyết từng vụ án cụ thể, đó là những vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật do có kháng cáo, kháng nghị của những người có quyền kháng cáo, kháng nghị. Chính những kháng cáo, kháng nghị hợp pháp là căn cứ để bản án, quyết định sơ thẩm trở thành đối tượng cần xem xét giải quyết ở giai đoạn phúc thẩm. - Đối tượng của thẩm quyền xét xử phúc thẩm: Tòa án cấp phúc thẩm có quyền xem xét và quyết định đối với những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật trên cơ sở những kháng cáo, kháng nghị hợp pháp. Bản án, quyết định sơ thẩm phát sinh hiệu lực pháp luật và được thi hành trên thực tế, không phải là đối tượng cần phải xem xét theo thủ tục phúc thẩm. Nếu sau đó phát hiện ra những tình tiết mới làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định đó hoặc phát hiện ra những vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án thì những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật sẽ trở thành đối tượng xét lại theo thủ tục tái thẩm hoặc giám đốc thẩm. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa thẩm quyền phúc thẩm với thẩm quyền giám đốc thẩm và tái thẩm. - Nội dung thẩm quyền xét xử phúc thẩm: Tòa án cấp phúc thẩm tiến hành xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị hợp pháp. Cụ thể, Tòa án cấp phúc thẩm tiến hành xét lại tính hợp pháp (bản án, quyết định đó phải phù hợp với những quy định của pháp luật cả về nội dung và hình thức; những quy phạm pháp luật được viện dẫn phải được giải thích và áp dụng đúng) và tính có căn cứ (những kết luận trong bản án phù hợp với những sự kiện thực tế của vụ án từ những chứng cứ đã được xem xét, đánh giá công khai tại phiên tòa). Tòa án cấp phúc thẩm tiến hành xét xử lại vụ án hình sự về mặt nội dung để giải quyết vụ án một cách chính xác trên cơ sở những chứng cứ ở cấp sơ thẩm và những chứng cứ mới. - Phạm vi thực hiện thẩm quyền xét xử phúc thẩm: về cơ bản, kháng cáo, kháng nghị hợp pháp là cơ sở pháp lý để Tòa án cấp phúc thẩm xác định phạm vi xét xử của mình. Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét giải quyết phần nội dung của bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, thẩm quyền xem xét còn được mở rộng ra những phần khác của bản án không có kháng cáo, kháng nghị, thậm chí mở rộng xem xét toàn bộ nội dung bản án nếu Tòa án cấp phúc thẩm nhận thấy đó là những “trường hợp cần thiết” và không vi phạm nguyên tắc không làm xấu hơn tình trạng của bị cáo. Điều 241 BLTTHS không quy định thế nào là “trường hợp cần thiết”, chỉ có khoản 2 Điều 249 BLTTHS quy định là Tòa án cấp phúc thẩm có thể giảm hình phạt, áp dụng điều khoản BLHS về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo đối với cả những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị. Vấn đề này có nhiều quan điểm khác nhau, có quan điểm theo hướng dẫn tại mục 4 phần VI Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 8/12/1988 của TANDTC và VKSNDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong BLTTHS trường hợp cần thiết là trường hợp ở phần không bị kháng cáo, kháng nghị có những phần cần được giảm nhẹ TNHS; quan điểm khác lại cho rằng việc giải thích “trường hợp cần thiết” trong thông tư 01/1988 là quá hẹp vì không đúng với tinh thần của Điều 241 BLTTHS, Tòa án cấp phúc thẩm phải được xem xét cả phần khác của bản án nhằm khắc phục tất cả những vi phạm pháp luật nếu điều đó không làm xấu hơn tình trạng của bị cáo [11, tr. 56]. Trong những vụ án hình sự mà có nhiều bị cáo hoặc vụ án có bị cáo phạm nhiều tội khi đó những chuỗi sự kiện, hành vi và chủ thể thực hiện có mối quan hệ mật thiết, không thể tách rời thì Tòa án cấp phúc thẩm xem xét nội dung bản án bị kháng cáo, kháng nghị cần đặt trong tổng thể của bản án. Theo đó, dù không có kháng cáo, kháng nghị về phần cần xem xét, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm vẫn có quyền xem xét để giải quyết và phạm vi xem xét phải tuân theo nguyên tắc không làm xấu hơn tình trạng của bị cáo. Việc xác định phạm vi xem xét của Tòa án cấp phúc thẩm đầy đủ, toàn diện như trên sẽ đảm bảo cho việc Tòa án cấp phúc thẩm kịp thời sửa chữa những sai lầm trong việc xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm, khẳng định phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai để giải quyết vụ án một cách khách quan, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tóm lại, có thể hiểu thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm là tổng hợp các quyền mà pháp luật quy định cho Tòa án cấp phúc thẩm được xem xét và quyết định trong phạm vi xét xử phúc thẩm đối với nội dung của vụ án hình sự mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị, nhằm xét lại tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án, quyết định đó, đồng thời giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. 1.2. Ý nghĩa của việc quy định và thi hành quy định của pháp luật về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong TTHS 1.2.1. Ý nghĩa pháp lý Những quy định về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm chính là cơ sở pháp lý để Tòa án cấp phúc thẩm thực hiện nhiệm vụ của cấp xét xử thứ hai là xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị hợp pháp. Một vụ án hình sự có thể được xét xử theo hai cấp là một đảm bảo pháp lý cần thiết cho việc xét xử của Tòa án được chính xác và đúng đắn, kịp thời sửa chữa những sai lầm hoặc các vi phạm pháp luật mà Tòa án cấp sơ thẩm đã mắc phải, góp phần nâng cao trách nhiệm của HĐXX sơ thẩm, giúp họ có thái độ thận trọng và có trách nhiệm hơn trước khi đưa ra phán quyết của mình, chất lượng xét xử tại các cấp xét xử ngày càng được nâng cao. Trong quá trình trực tiếp thực hiện thẩm quyền của mình khi giải quyết các vụ án hình sự cụ thể, việc quy định về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm sẽ giúp tìm ra nguyên nhân dẫn đến những sai lầm hay những vi phạm pháp luật trong việc áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và Tòa án nói riêng. Từ đó, đưa ra các giải pháp thích hợp để sửa chữa, khắc phục về lập pháp cũng như về việc hướng dẫn áp dụng pháp luật, tổ chức các cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là hoàn thiện tổ chức Tòa án đáp ứng yêu cầu của nguyên tắc hai cấp xét xử. Những kiến nghị của Tòa án cấp phúc thẩm sẽ là cơ sở pháp lý để cơ quan lập pháp tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và những quy định về thẩm quyền của Tòa án nói riêng. [9, tr. 39] 1.2.2. Ý nghĩa chính trị Việc xác định cụ thể và thực hiện đúng đắn thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ của công tác xét xử vụ án hình sự, chính là góp phần thực hiện yêu cầu của chiến lược cải cách tư pháp, đáp ứng được yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đồng thời, thông qua việc kiểm tra, phát hiện và sửa chữa những sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm đã góp phần đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh, triệt để và thống nhất, nhưng có sự phân công hợp lý giữa các cơ quan Nhà nước. Vì pháp luật quy định hệ thống các cơ quan tư pháp gồm: Tòa án, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Cơ quan thi hành án; đồng thời, quy định về thẩm quyền của từng cơ quan để xác định trách nhiệm của mỗi cơ quan và mối quan hệ mật thiết giữa các cơ quan đó. Xét trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, đó chính là mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và Tòa án cấp phúc thẩm được thể hiện thông qua việc Tòa án cấp phúc thẩm thực hiện thẩm quyền của mình khi xem xét giải quyết những kháng nghị của Viện Kiểm sát đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Ngoài ra, việc quy định và thực hiện thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm nói riêng và Tòa án nói chung sẽ đảm bảo nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa. Do quan hệ pháp luật hình sự là quan hệ giữa Nhà nước và người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Hơn nữa, đặc thù của hoạt động xét xử là tính công khai, minh bạch, chịu sự giám sát của nhân dân. Qua việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, quyền và lợi ích của công dân được đảm bảo, lợi ích của Nhà nước trong việc quản lý xã hội bằng pháp luật cũng được củng cố, yếu tố dân chủ được nâng cao. 1.2.3. Ý nghĩa xã hội Việc xét xử phải nhằm đến mục đích cao nhất là không bỏ lọt tội phạm, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh oan sai, đảm bảo quyền bình đẳng của mọi công dân trong TTHS. Do đó, việc quy định và thực hiện thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo công bằng xã hội, nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức pháp luật và phòng ngừa tội phạm, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt động xét xử của Tòa án, nâng cao uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và Tòa án nói riêng, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật và tinh thẩn phòng chống tội phạm, tăng cường niềm tin của người dân vào Đảng, Nhà nước và pháp luật. 1.3. Khái quát pháp luật TTHS Việt Nam về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trước khi ban hành BLTTHS năm 2003 1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành BLTTHS năm 1988 Sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, để bảo vệ thành quả của cách mạng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật và thành lập ngay các TAQS với chức năng, nhiệm vụ “xét xử tất cả những người nào phạm một việc gì có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” (Điều 2 Sắc lệnh số 33/SL ngày 13/9/1945). Điều 3 Sắc lệnh số 33/SL quy định việc xét xử của các TAQS là chung thẩm, các bản án được thi hành ngay, đương sự không có quyền chống án, trừ các bản án tuyên xử tử, đối với những bản án này pháp luật vẫn cho phép bị cáo có quyền đệ đơn xin Chủ tịch Chính phủ ân giảm. Ngoài ra, còn ban hành Sắc lệnh số 13/SL, ngày 24/1/1946 về tổ chức các Tòa án và các ngạch bậc Thẩm phán, Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946, Sắc lệnh số 112 ngày 28/6/1946 đều có những quy định về việc chống án, kháng án khuyết tịch và thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp phúc thẩm. Đặc biệt, ngày 9/11/1946, Quốc Hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thông qua Hiến pháp năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của dân tộc, Hiến pháp 1946 quy định cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa gồm Tòa án tối cao, các tòa phúc thẩm, các Tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp (Điều 63). Trong thời kì này, Nhà nước ta còn ban hành một số văn bản pháp luật quy định chi tiết về chế định xét xử phúc thẩm. Sắc lệnh số 85 ngày 22/5/1950 quy định “Công tố viên có quyền kháng cáo cả việc hình và việc hộ”; “về việc hình người bị thiệt hại có quyền kháng cáo để xin tăng hình phạt, tiền bồi thường và các khoản bồi hoàn” [8, tr. 52]; Thông tư 1828 ngày 18/10/1955 của Bộ Tư pháp [11, tr. 18]. Thực hiện các quy định này, nhiều bản án sơ thẩm bị chống án đều được Tòa án phúc thẩm xét xử, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của bị cáo và đương sự. Ngày 19/8/1955 Bộ Tư pháp ra thông tư 1459/HCTP xác định nguyên tắc hai cấp xét xử là một trong những nguyên tắc tố tụng quan trọng cần phải được bảo đảm. Tuy vậy, đối với các vụ phạm pháp về chính trị vẫn được thực hiện theo Sắc lệnh số 21 ngày 14/2/1946 và Sắc lệnh số 156 ngày 17/11/1950 chỉ xét xử một lần và bản án là chung thẩm. Ngày 14/8/1959 Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 300/TTg sáp nhập các Tòa án phúc thẩm khu thành TAND phúc thẩm Hà Nội, TAND phúc thẩm Hải phòng, TAND phúc thẩm Vinh và giao cho các Tòa này thẩm quyền xét xử lại bản án của các TAND tỉnh, thành phố bị kháng cáo. Ngày 20/10/Thủ tướng Chính phủ đã ra Nghị định số 381/TTg giao cho TANDTC có thẩm quyền xét xử phúc thẩm những vụ án do Tòa án cấp dưới xét xử trong các trường hợp có kháng nghị của cơ quan công tố [8, tr. 53] Ngày 14/7/1960 Quốc Hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã thông qua Luật tổ chức TAND năm 1960, trong đó xác định “TAND thực hành chế độ hai cấp xét xử” (Điều 9); quy định cho TANDTC và TAND cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử phúc thẩm những bản án, quyết định của TAND cấp dưới bị chống án hoặc bị kháng nghị (Điều 19 và Điều 21). Sau đó, pháp lệnh ngày 23/3/1961 về tổ chức TANDTC và các TAND địa phương cũng quy định thẩm quyền xét xử phúc thẩm của Tòa phúc thẩm TANDTC và các TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. TANDTC ban hành Thông tư số 03/NCPL ngày 19/5/1967 đã quy định khá cụ thể trình tự tố tụng phúc thẩm. Về phạm vi xét xử, Thông tư cho phép Tòa án cấp phúc thẩm có quyền xét lại toàn bộ vụ án, không phụ thuộc vào nội dung của kháng cáo, kháng nghị. Với quy định này, Tòa án cấp phúc thẩm có điều kiện chủ động phát hiện và khắc phục những thiếu sót của Tòa án cấp sơ thẩm về định tội danh, áp dụng điều luật, quyết định hình phạt. Sau 07 năm áp dụng Thông tư số 03 các Tòa án cấp phúc thẩm đã xét xử được nhiều vụ việc, trên 80% số vụ án bị kháng cáo, kháng nghị đều được giải quyết. Tòa án cấp phúc thẩm đã sửa chữa nhiều bản án có sai lầm, thiếu sót, hạn chế đến mức thấp nhất sự oan sai. Tuy vậy, Thông tư số 03 quy định nhiệm vụ của Tòa án cấp phúc thẩm là xét xử lại toàn bộ vụ án, kể cả đối với những người không kháng cáo, cũng không bị kháng cáo, kháng nghị, là chưa thật sự hợp lý làm cho công tác xét xử phúc thẩm trở nên nặng nề một cách không cần thiết, làm chậm cả việc thi hành những phần của bản án sơ thẩm lẽ ra phải có hiệu lực pháp luật và đã có thể phát huy kịp thời tác dụng thiết thực TANDTC (1976). [17, tr. 206]. Nhìn chung, văn bản này đã đáp ứng đòi hỏi cấp thiết trong hoàn cảnh pháp luật về trình tự TTHS của ta còn thiếu nhiều quy định, tuy nhiên nó vẫn tồn tại nhiều hạn chế nhất định. Vì vậy, để khắc phục nhược điểm của Thông tư 03, ngày 2/10/1974, TANDTC ban hành Bản hướng dẫn về trình tự tố tụng phúc thẩm về hình sự (kèm theo thông tư số 19/TATC) thay thế cho Thông tư 03. Thông tư số 19/TATC ngày 2/10/1974 quy định đầy đủ trình tự, thủ tục xét xử phúc thẩm, trong đó xác định rõ phạm vi xét xử cho phép Tòa án cấp phúc thẩm được xét xử lại toàn bộ khi kháng cáo hoặc kháng nghị đề cập đến toàn bộ bản án. Nếu kháng cáo, kháng nghị một phần bản án thì Tòa án cấp phúc thẩm chỉ được xét xử với những người có kháng cáo, kháng nghị nhưng khi xem xét nội dung của kháng cáo, kháng nghị, Tòa án cấp phúc thẩm phải đạt nó trong toàn bộ vụ án. Đối với những bị cáo không kháng cáo cũng không bị kháng cáo, kháng nghị nếu xét thấy mức án sơ thẩm là quá nhẹ thì Tòa án cấp phúc thẩm cần đề nghị VKS kháng nghị. Nếu VKS không nhất trí hoặc thời hạn kháng nghị đã hết thì chỉ giải quyết theo trình tự giám đốc thẩm, còn Tòa án cấp phúc thẩm không tự mình tăng án và cũng không hủy bản án sơ thẩm để tự xét xử lại hay giao cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại. Theo quy định của Thông tư 19/TATC ngày 2/10/1974, Tòa án cấp phúc thẩm không có quyền xét xử toàn bộ vụ án nếu kháng cáo, kháng nghị không đề cập đến toàn bộ vụ án. Phạm vi xét xử của Tòa án cấp phúc thẩm bị thu hẹp trong nội dung của kháng cáo, kháng nghị; quyền hạn sửa bản án, hủy bản án theo hướng làm xấu tình trạng của bị cáo bị hạn chế; cho phép Tòa án cấp phúc thẩm được sửa bản án theo hướng nhẹ hơn trong những trường hợp có kháng cáo, kháng nghị theo hướng đó và cả trường hợp kháng cáo của người bị hại, kháng nghị của VKS theo hướng nặng hơn. Khi xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị Tòa án cấp phúc thẩm có quyền hạn sau đây: bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm; sửa bản án sơ thẩm theo hướng nhẹ hơn hoặc tuyên bố bị cáo vô tội kể cả trong trường hợp có kháng cáo hoặc kháng nghị của VKS theo hướng tăng nặng. Tòa án cấp phúc thẩm chỉ có quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng tăng nặng khi có kháng cáo của người bị hại hoặc kháng nghị của VKS theo hướng đó; hủy toàn bộ hoặc một phần bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại vụ án; đình chỉ vụ án; sửa lại quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm về phần bồi thường thiệt hại; xử lý vật chứng. [18, tr. 20] Sau năm 1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, ngày 2/7/1976, Quốc hội khóa VI ra Nghị quyết quy định ở miền Nam chưa có sẽ áp dụng những văn bản miền Bắc đã có, như vậy, việc xét xử phúc thẩm vụ án hình sự được áp dụng thống nhất trong cả nước. Sau khi Hiến pháp năm1980 ra đời, ngày 13/7/1981 Quốc Hội khóa VII kỳ họp thứ nhất đã thông qua Luật tổ chức TAND năm 1981, về cơ bản, chức năng, nhiệm vụ của phúc thẩm vẫn được duy trì như trước đây. Như vậy, mặc dù chưa đề cập đầy đủ mọi vấn đề về trình tự, thủ tục và thẩm quyền phúc thẩm nhưng các văn bản pháp luật này đã góp phần to lớn, cho phép Tòa án cấp phúc thẩm vận dụng xét xử để kịp thời phát hiện, khắc phục các sai sót của Tòa án cấp dưới, bảo đảm cho việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, góp phần từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật TTHS của nước ta. 1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành BLTTHS năm 1988 đến trước khi ban hành BLTTHS năm 2003 Năm 1985, BLHS ra đời đánh dấu bước phát triển quan trọng trong lịch sử lập pháp của Nhà nước ta. Sau đó, ngày 25/6/1988 tại kì họp thứ ba khóa VIII Quốc hội đã thông qua BLTTHS. Đây là BLTTHS đầu tiên của nước ta, Bộ luật này đã giành toàn bộ Chương XXII và Chương XXIII quy định về thủ tục phúc thẩm. Đây là những quy định hoàn thiện, đầy đủ nhất của nước ta kể từ ngày thành lập nước và có nhiều thay đổi tiến bộ hơn so với các quy định trước đây. Trước đây, Tòa án cấp phúc thẩm, ngoài việc giải quyết nội dung kháng cáo, kháng nghị còn có quyền xem xét sang cả những vấn đề nằm ngoài nội dung kháng cáo, kháng nghị. Đồng thời, Tòa án cấp phúc thẩm còn có quyền ra quyết định hủy bản án, quyết định sơ thẩm để trả về Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại theo hướng nặng hơn mặc dù không có kháng cáo, kháng nghị theo hướng đó. Quy định như vậy đã giảm bớt giá trị pháp lý của chế định kháng cáo, kháng nghị, vì xét xử phúc thẩm chỉ được thực hiện khi có kháng cáo, kháng nghị cho nên nếu xem xét cả phần bản án, quyết định không có kháng cáo, kháng nghị trong mọi trường hợp sẽ làm mất tính ổn định của phần bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật do không có kháng cáo, kháng nghị, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người kháng cáo, người không kháng cáo hay người không bị kháng cáo, kháng nghị. Khi BLTTHS năm 1988 được ban hành thì những hạn chế này đã được khắc phục, việc xác định phạm vi xét xử phúc thẩm phù hợp với yêu cầu của nguyên tắc hai cấp xét xử cũng như ý nghĩa của chế định kháng cáo, kháng nghị; Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án theo phạm vi kháng cáo, kháng nghị, chỉ xem xét sang các phần khác của bản án không có kháng cáo, kháng nghị trong trường hợp cần thiết. Điều 220 BLTTHS năm 1988 quy định Tòa án cấp phúc thẩm có quyền quyết định: bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm; sửa bản án sơ thẩm; hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại; hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Những quyền hạn này được quy định cụ thể tại Điều 221, Điều 222, Điều 223 BLTTHS năm 1988, theo đó, Tòa án cấp phúc thẩm có thể bác kháng cáo, kháng nghị, giữ nguyên bản án sơ thẩm, khi có căn cứ có thể sửa một phần hoặc sửa toàn bộ bản án sơ thẩm theo hướng có lợi (miễn trách nhiệm hình phạt cho bị cáo; áp dụng điều khoản BLHS về tội nhẹ hơn; giảm hình phạt cho bị cáo; giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý vật chứng) hoặc theo hướng bất lợi cho bị cáo (tăng hình phạt; áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn; tăng mức bồi thường thiệt hại) nếu có kháng cáo, kháng nghị theo hướng đó. Nếu không có kháng cáo, kháng nghị theo hướng bất lợi cho bị cáo thì HĐXX phúc thẩm không có quyền làm xấu đi tình trạng của bị cáo hoặc ra quyết định hủy bản án, quyết định sơ thẩm để trả về xét xử lại theo hướng không có lợi cho bị cáo. HĐXX phúc thẩm còn có quyền hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại; hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm cũng có thể hủy án sơ thẩm và đình chỉ vụ án cho cả những người không kháng cáo hoặc liên quan đến kháng cáo, kháng nghị nếu như việc hủy và đình chỉ vụ án là có lợi cho họ. Nhìn chung, thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm được quy định trong BLTTHS năm 1988 là phù hợp với giai đoạn phát triển tương ứng với tình hình phát triển kinh tế xã hội nước ta, với tổ chức và năng lực của các cơ quan tiến hành tố tụng, đã đáp ứng được những vấn đề cần phải giải quyết của vụ án theo trình tự phúc thẩm. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử phúc thẩm trong giai đoạn này đã phát sinh một số vướng mắc về mặt tố tụng, trong đó chủ yếu do sự giới hạn về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm dẫn đến việc Tòa án cấp phúc thẩm không thể giải quyết được về nội dung vụ án. Đối với các trường hợp sửa bản án sơ thẩm theo quy định tại khoản 3 điều 221 BLTTHS năm 1988 về lý luận cũng như thực tiễn xét xử có nhiều ý kiến khác nhau, và nó cũng chưa đầy đủ, vì trong thực tiễn, Tòa án cấp phúc thẩm không chỉ miễn TNHS hoặc miễn hình phạt cho bị cáo; áp dụng điều khoản BLHS về tội nhẹ hơn, giảm hình phạt đối với bị cáo, giảm mức BTTH và sửa quyết định xử lý vật chứng, mà còn sửa những quyết định khác của bản án sơ thẩm: sửa quyết định về áp dụng các biện pháp tư pháp được quy định tại Chương V từ Điều 33 đến Điều 36 BLHS, sửa án phí. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 204 BLTTHS năm 1988 thì Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại những bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị chứ không phải việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Quy định như vậy đã dẫn đến việc hiểu sai về tính chất của xét xử phúc thẩm, dường như coi thủ tục phúc thẩm, thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm có cùng tính chất, chúng chỉ khác nhau về đặc điểm của đối tượng bị đưa ra xét lại mà thôi. Quán triệt những tư tưởng, quan điểm, định hướng về cải cách tư pháp đề ra trong Nghị quyết số 08/NQ - TW ngày 02/01/2002 và tinh thần Điều 2 Hiến pháp 1992 sửa đổi; ngày 02/04/2002 Quốc Hội đã thông qua Luật tổ chức TAND năm 2002; ngày 26/11/2003 Quốc Hội đã thông qua BLTTHS năm 2003, có hiệu lực ngày 01/07/2004. Tóm lại, trải qua từng giai đoạn chế định thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm ngày càng được hoàn thiện phù hợp với thực tiễn xét xử, góp phần nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án, kịp thời khắc phục những sai lầm của Tòa án cấp dưới, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng, đồng thời góp phần bảo đảm lợi ích của Nhà nước và xã hội.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan