Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Tạm ngừng phiên tòa theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)...

Tài liệu Tạm ngừng phiên tòa theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

.DOC
77
1
56

Mô tả:

MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................1 CHƢƠNG 1. CÁC TRƢỜNG HỢP TẠM NGỪNG PHIÊN TÒA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ.....................................................................................................6 1.1. Nhận thức khái quát và quy định của pháp luật tố tụng hình sự về các trƣờng hợp tạm ngừng phiên tòa....................................................................... 6 1.1.1. Nhận thức khái quát về các trường hợp tạm ngừng phiên tòa trong tố tụng hình sự....................................................................................................... 6 1.1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về các trường hợp tạm ngừng phiên tòa............................................................................................................ 7 1.2. Thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về các trƣờng hợp tạm ngừng phiên tòa..................................................................... 15 1.3. Kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về các trƣờng hợp tạm ngừng phiên tòa........................23 Kết luận Chƣơng 1................................................................................................ 27 CHƢƠNG 2. THỦ TỤC, THỜI HẠN TẠM NGỪNG PHIÊN TÒA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ............................................................................................. 28 2.1. Nhận thức khái quát và quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục, thời hạn tạm ngừng phiên tòa.................................................................... 28 2.1.1. Nhận thức khái quát về thủ tục, thời hạn tạm ngừng phiên tòa trong tố tụng hình sự..................................................................................................... 28 2.1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục, thời hạn tạm ngừng phiên tòa.......................................................................................................... 29 2.2. Thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục, thời hạn tạm ngừng phiên tòa........................................................................... 33 2.3. Kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục, thời hạn tạm ngừng phiên tòa......................38 Kết luận Chƣơng 2................................................................................................ 40 KẾT LUẬN............................................................................................................ 41 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tạm ngừng phiên tòa là một trong những nội dung quan trọng của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Trên thực tế, tạm ngừng phiên tòa liên quan đến nhiều vấn đề về thủ tục tố tụng hình sự mà Hội đồng xét xử áp dụng tại phiên tòa. Tạm ngừng phiên tòa là thủ tục tố tụng hình sự mới được Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định lần đầu tiên. Thực tiễn cho thấy mặc dù Bộ Luật tố tụng hình sự 2015 có quy định cụ thể tại Điều 251, nhưng việc áp dụng còn nhiều hạn chế, chủ yếu liên quan đến thủ tục và thời hạn tạm ngừng phiên tòa. Cụ thể như: Thủ tục tạm ngừng phiên tòa phải lập biên bản gì; ai là chủ thể tiến hành các bước tiếp theo sau khi tạm ngừng phiên tòa; tiến hành thu thập chứng cứ như thế nào; ai có thể tiến hành thu thập chứng cứ; thế nào là “có thể thực hiện được trong thời hạn 05 ngày”; trong thời gian tạm ngừng Hội đồng xét xử có được quyền xét xử phiên tòa khác hay không; sau khi mở lại phiên tòa thì Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa có thể được thay thế bởi người khác hay không; hết thời hạn 05 ngày tạm ngừng phiên tòa mà không thực hiện được có phải mở phiên tòa để ban hành quyết định hoãn phiên tòa hay không; Thư ký phiên tòa vắng mặt ngay từ đầu thì ai lập biên bản phiên tòa ghi nhận việc tạm ngừng nếu không có Thư ký dự khuyết; các biểu mẫu liên quan như Quyết định tạm ngừng phiên tòa; biên bản tạm ngừng phiên tòa, biên bản ghi nhận việc vắng mặt Thư ký, sự kiện bất khả kháng, sức khỏe người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng. Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về tạm ngừng phiên tòa là sự tiến bộ trong quá trình lập pháp, đáp ứng yêu cầu thực tiễn xét xử các vụ án hình sự một cách nhanh chóng. Tuy nhiên việc quy định thời gian tạm ngừng 05 ngày là quá ngắn không đảm bảo việc thực hiện các thủ tục cần thiết như thu thập chứng cứ và cho việc mở lại phiên tòa, trong khi quy định hoãn phiên tòa đến 30 ngày thì việc 05 ngày để thu thập chứng cứ mang tính chủ quan của Hội đồng xét xử, nếu thấy cần thu thập chứng cứ thì hoãn phiên tòa sẽ có nhiều thời gian hơn. Để giải quyết tất cả những vấn đề nêu trên, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu thấu đáo, sâu sắc cả trên phương diện lập pháp lẫn thực tiễn thực hiện nhằm kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật, tháo gỡ những hạn chế cho việc tạm ngừng phiên tòa, nâng cao hiệu quả xét xử các vụ án hình sự. Vì những lý do trên, 2 tác giả đã chọn đề tài “Tạm ngừng phiên tòa theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Qua khảo sát tác giả nhận thấy vấn đề tạm ngừng phiên tòa xét xử vụ án hình sự đã được đề cập đến trong một số giáo trình, sách tham khảo với nội dung cơ bản, ngắn gọn như: Về giáo trình: Giáo trình luật Tố tụng hình sự Việt Nam (2018), Trường đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân; Giáo trình đào tạo nghiệp vụ kiểm sát (tập 4) (2016), Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội; Giáo trình kỹ năng giải quyết án hình sự, Học viện Tòa án (do tập thể tác giả đồng chủ biên); Về tài liệu, sách chuyên khảo: Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự 2015, TS. Trần Văn Biên và Th.S Đinh Thế Hưng chủ biên, Nhà xuất bản Hồng Đức; Tài liệu tập huấn Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 do Viện kiểm sát tối cao ban hành năm 2016. Bên cạnh đó, có một luận văn thạc sĩ và một số bài viết công bố trên Tạp chí Tòa án nhân dân và Tạp chí Kiểm sát điện tử về tạm ngừng phiên tòa mà tác giả tiếp cận được đó là: - Biện Việt Hùng (2019), Tạm ngừng phiên tòa theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh - Nguyễn Phong Phi (2020), “Những hạn chế trong quy định tạm ngừng 1 phiên tòa hình sự trong BLTTHS 2015” ; - Nguyễn Anh Chung (2020), “Bất cập trong quy định về sự vắng mặt của 2 Thư ký tại phiên tòa hình sự” ; - Nguyễn Xuân Bình (2019), “Thu thập chứng cứ của Luật sư và Tòa án – 3 Quy định và vướng mắc” ; 1Nguyễn Phong Phi, “Những hạn chế trong quy định tạm ngừng phiên tòa hình sự trong BLTTHS 2015”, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử (01/10/2020) https://tapchitoaan.vn/bai-viet/trao-doi-y-kien/nhung-han-chetrong-quy-dinh-tam-ngung-phien-toa-hinh-su-trong-bltths-2015, truy cập ngày 28/11/2021. 2 Nguyễn Anh Chung (2020), “Bất cập trong quy định về sự vắng mặt của Thư ký tại phiên tòa hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử (03/7/2020) https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/bat-cap-trong-quy-dinh-vesu-vang-mat-cua-thu-ky-tai-phien-toa-hinh-su, truy cập ngày 07/12/2021. 3 Nguyễn Xuân Bình (2019), “Thu thập chứng cứ của Luật sư và Tòa án – Quy định và vướng mắc”, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử (28/8/2019): https://tapchitoaan.vn/bai-viet/nghien-cuu/phan-tich-noi-dung-quydinh-viec-thu-thap-chung-cu-cua-02-chu-the-mot-la-nguoi-tham-gia-to-tung-la-luat-su-va-chu-the-co-quantien-hanh-to-tung-la-toa-an-theo-quy-dinh-cua-bltths-2015-bat-ca, truy cập ngày 07/12/2021. 3 - Minh Trang, “Dấu hiệu để phân biệt giữa “Hoãn phiên tòa” và “Tạm ngừng 4 phiên tòa” theo quy định của BLTTHS năm 2015” . Những công trình nghiên cứu trên đã đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp về vấn đề tạm ngừng phiên tòa xét xử vụ án hình sự. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu toàn diện, chuyên sâu và hệ thống về tạm ngừng phiên tòa theo định hướng ứng dụng. Chính vì vậy đề tài luận văn của tác giả có tính cấp thiết và tính mới trong nghiên cứu khoa học pháp lý. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu chính của luận văn là trên cơ sở đánh giá quy định của pháp luật và thực tiễn tạm ngừng phiên tòa xét xử vụ án hình sự, tìm ra những giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tạm ngừng phiên tòa trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, đòi hỏi phải giải quyết các vấn đề sau: - Làm rõ một vài vấn đề lý luận về tạm ngừng phiên tòa xét xử vụ án hình sự; - Phân tích và đánh giá quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về tạm ngừng phiên tòa; - Phân tích và đánh giá thực tiễn tạm ngừng phiên tòa hình sự, phát hiện những hạn chế và xác định nguyên nhân; - Xây dựng một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của luật tố tụng hình sự về tạm ngừng phiên tòa. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lý luận, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về tạm ngừng phiên tòa hình sự sơ thẩm và thực tiễn áp 4 Minh Trang, “Dấu hiệu để phân biệt giữa “Hoãn phiên tòa” và “Tạm ngừng phiên tòa” theo quy định của BLTTHS năm 2015”, Tạp chí Kiểm sát online (18/7/2016) http://www.kiemsat.vn/dau-hieu-de-phan-biet-giuahoan-phien-toa-va-tam-ngung-phien-toa-theo-quy-dinh-cua-bltths-nam-2015.html, truy cập ngày 22/6/2019. 4 dụng. Luận văn chỉ nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, không nghiên cứu pháp luật nước ngoài. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về tạm ngừng phiên tòa, tập trung vào hai nhóm nội dung: Các trường hợp tạm ngừng phiên tòa; thủ tục và thời hạn tạm ngừng phiên tòa. - Về không gian và thời gian: Tác giả nghiên cứu, khảo sát thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tạm ngừng phiên tòa trên phạm vi cả nước trong khoảng thời gian từ khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực pháp luật đến khi hoàn thành luận văn. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện luận văn, tác giả đã sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Về phương pháp nghiên cứu, tác giả đã sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp phân tích được sử dụng nhằm đánh giá, làm rõ những vấn đề lý luận và pháp lý, đặc biệt là những vướng mắc, bất cập để từ đó đề xuất những kiến nghị hoàn thiện. - Phương pháp so sánh được sử dụng nhằm làm sáng tỏ sự giống và khác nhau giữa tạm ngừng phiên tòa và hoãn phiên tòa. - Phương pháp nghiên cứu án điển hình được sử dụng để nghiên cứu các vụ án cụ thể từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá về thực tiễn tạm ngừng phiên tòa. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn, tạo một cái nhìn sâu hơn, rộng hơn về vị trí, vai trò của việc áp dụng quy định về tạm ngừng xét xử phiên tòa hình sự của Tòa án trong hoạt động giải quyết các vụ án hình sự trên phương diện lý luận và thực tiễn. Đối với các nhà hoạch định chính sách, các nhà ban hành pháp luật, các cơ quan thực thi pháp luật, phát hiện của đề tài là những tồn tại của pháp luật hiện hành về việc không quy định tạm ngừng phiên tòa hình sự, những vướng mắc trong quá trình thực thi cũng như các kiến nghị nêu ra có thể được xem là sự đánh giá, là ý 5 kiến đóng góp được cân nhắc kỹ lưỡng, góp phần không nhỏ tạo điều kiện cho họ trong công tác chuyên môn trong công tác xét xử án hình sự ở nước ta nói chung trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt, đối với sinh viên, kết quả của đề tài là nguồn tài liệu có giá trị tham khảo khi học tập, nghiên cứu môn Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Ngoài ra, đề tài còn có ý nghĩa thiết thực đối với cán bộ Tòa án, Viện kiểm sát trong thực tiễn xét xử và kiểm sát xét xử. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận văn được kết cấu như sau: Chƣơng 1. Các trường hợp tạm ngừng phiên tòa trong tố tụng hình sự Chƣơng 2. Thủ tục, thời hạn tạm ngừng phiên tòa trong tố tụng hình sự 6 CHƢƠNG 1 CÁC TRƢỜNG HỢP TẠM NGỪNG PHIÊN TÒA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Nhận thức khái quát và quy định của pháp luật tố tụng hình sự về các trƣờng hợp tạm ngừng phiên tòa 1.1.1. Nhận thức khái quát về các trường hợp tạm ngừng phiên tòa trong tố tụng hình sự Trước khi tìm hiểu về các trường hợp tạm ngừng phiên tòa, chúng ta cần có những nhận thức cơ bản về tạm ngừng phiên tòa nói chung trong tố tụng hình sự. Quy định việc tạm ngừng phiên tòa trong tố tụng hình sự được xem là một trong những điểm mới của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Một trong những mục đích của việc bổ sung quy định về tạm ngừng phiên tòa là nhằm góp phần hạn chế các trường hợp hoãn phiên tòa không cần thiết dẫn đến việc kéo dài quá trình xét xử; qua đó góp phần bảo đảm thực hiện nguyên tắc “Tòa án xét xử kịp thời” – một trong 5 những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự Việt Nam. Trên cơ sở những quy định có liên quan của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, có thể hiểu tạm ngừng phiên tòa trong tố tụng hình sự là việc Tòa án có thẩm quyền quyết định tạm thời dừng lại phiên tòa trong một thời gian ngắn khi có các căn cứ luật định nhằm đảm bảo chất lượng của hoạt động xét xử, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia tố tụng. Khi nói đến tạm ngừng phiên tòa thì một trong những vấn đề cốt lõi cần phải nghiên cứu đó là các trường hợp/căn cứ tạm ngừng phiên tòa. Đây là các trường hợp được luật hóa dựa trên thực tiễn xét xử các vụ án hình sự. Những trường hợp này rất đa dạng và khi xuất hiện đã làm cho việc xét xử không thể tiếp tục. Ví dụ khi cần phải xác minh, bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa hoặc do tình trạng sức khỏe, sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa nhưng họ có thể tham gia lại trong thời gian ngắn. Việc quy định rõ ràng, cụ thể các trường hợp tạm ngừng phiên tòa có các ý nghĩa sau: 5Điều 25 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. 7 Thứ nhất, giúp cho việc tạm ngừng phiên tòa được áp dụng thống nhất trong thực tiễn. Như đã đề cập, các trường hợp/căn cứ tạm ngừng phiên tòa là một nội dung rất quan trọng. Việc Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định chi tiết, cụ thể về những trường hợp này giúp Tòa án tại các địa phương trong cả nước có cơ sở pháp lý vững chắc để quyết định tạm ngừng việc xét xử một cách thống nhất, hạn chế sự tùy tiện trong việc áp dụng. Qua đó góp phần tạo nên sự công bằng, hợp lý trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Thứ hai, giúp phân biệt với các trường hợp hoãn phiên tòa. Tạm ngừng phiên tòa với hoãn phiên tòa giống nhau ở đặc điểm là khi tiến hành hoạt động xét xử tại phiên tòa phát sinh các sự kiện pháp lý gây ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án đòi hỏi phải giải quyết xong các sự kiện pháp lý gây ảnh hưởng đó mới có thể xét xử vụ án được. Trước đây khi chưa ghi nhận việc tạm ngừng phiên tòa thì theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Hội đồng xét xử sẽ xem xét quyết định hoãn phiên tòa và khi xét xử lại vụ án thì phải thực hiện lại từ đầu. Điều này gây mất thời gian, trong khi đó chỉ cần tạm ngừng để đợi giải quyết xong các tình huống gây ảnh hưởng tới phiên tòa và sau đó phiên tòa sẽ được tiếp tục mà không phải làm lại các thủ tục tố tụng đã tiến hành. Vì vậy, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã quy định các trường hợp này làm căn cứ tạm ngừng phiên tòa để tránh việc kéo dài phiên tòa không cần thiết. Do tính chất, hệ quả pháp lý của tạm ngừng phiên tòa và hoãn phiên tòa có một số điểm giống nhau nên các trường hợp áp dụng hai chế định này cũng có những điểm tương đồng nhất định. Điều khác biệt thể hiện ở chỗ thời gian cần thiết để xóa bỏ các căn cứ tạm ngừng phiên tòa ngắn hơn hoãn phiên tòa. Nhận thức được điều này và pháp điển hóa thông qua các quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 giúp Tòa án dễ dàng hơn khi đưa ra lựa chọn hợp lý giữa tạm ngừng phiên tòa và hoãn phiên tòa trong từng trường hợp thực tiễn cụ thể. 1.1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về các trường hợp tạm ngừng phiên tòa Theo quy định tại Điều 251 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì việc tạm ngừng phiên tòa có thể được áp dụng khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: 8 - Trường hợp thứ nhất: Cần phải xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa và có thể thực hiện được trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày tạm ngừng phiên tòa. Chứng cứ là phương tiện dùng để làm sáng tỏ các vấn đề cần phải chứng minh nhằm xác định sự thật của vụ án. Trong quá trình giải quyết vụ án chứng cứ phải được thu thập đầy đủ để giải quyết đúng đắn, khách quan, toàn diện vụ án. Thu thập chứng cứ là giai đoạn quan trọng của quá trình chứng minh. Đây là tiền đề của quá trình chứng minh, bởi vì quá trình chứng minh trải qua ba giai đoạn thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ. Kết quả của hoạt động thu thập chứng cứ sẽ quyết định sự thành bại của toàn bộ quá trình chứng minh. Nếu cơ quan, người có thẩm quyền thu thập đầy đủ chứng cứ thì sẽ đảm bảo việc giải quyết vụ án đúng đắn, nếu việc thu thập chứng cứ không đầy đủ thì sẽ không đủ cơ sở để xác định các vấn đề cần phải chứng minh, dẫn đến cơ quan có thẩm quyền không thể ra các quyết định, bản án để giải quyết vụ án. Hoạt động thu thập chứng cứ được thực hiện trong các giai đoạn của quá trình tố tụng. Trong giai đoạn khởi tố vụ án các cơ quan có thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm đã tiến hành các hoạt động tố tụng hợp pháp để thu thập chứng cứ nhằm xác định nguồn tin về tội phạm có hay không có dấu hiệu tội phạm. Sau khi khởi tố vụ án, Cơ quan điều tra giữ vai trò quan trọng trong việc thu thập chứng cứ để làm sáng tỏ các vấn đề cần phải chứng minh được quy định tại Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Trong giai đoạn truy tố Viện kiểm sát chủ yếu kiểm tra, đánh giá chứng cứ mà Cơ quan điều tra đã thu thập trước đó, trong trường hợp xét thấy còn thiếu chứng cứ để xác định một hoặc số vấn đề cần phải chứng minh tại Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì Viện kiểm sát sẽ trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong phạm vi thẩm quyền để bổ sung chứng cứ còn thiếu, nếu không bổ sung được thì Viện kiểm sát sẽ trả hồ sơ để Cơ quan điều tra tiến hành điều tra bổ sung chứng cứ còn thiếu. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa cũng tiến hành nghiên cứu hồ sơ vụ án nếu phát hiện còn thiếu chứng cứ để xác định một hoặc số vấn đề cần phải chứng minh tại Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì Tòa án sẽ tiến hành một số hoạt động tố tụng được quy định tại Điều 252 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để bổ sung chứng cứ còn thiếu, nếu không bổ sung được thì Tòa án sẽ trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung chứng cứ còn thiếu. 9 Như vậy, việc thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật để làm sáng tỏ các vấn đề cần phải chứng minh được thực hiện trong các giai đoạn tiền xét xử. Thông thường để hạn chế việc phải tạm ngừng hoặc hoãn phiên tòa vì lý do cần xác minh, bổ sung, thu thập chứng cứ thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải làm tốt nhiệm vụ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Tuy nhiên, vì nhiều nguyên nhân khác nhau việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, đặc biệt là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có thể chưa đầy đủ dẫn đến khi mở phiên tòa mới phát hiện một hoặc một số vấn đề cần phải chứng minh chưa được làm sáng tỏ vì thiếu chứng cứ. Để đảm bảo việc giải quyết đúng đắn, khách quan, toàn diện vụ án, hạn chế oan sai trong tố tụng hình sự việc quy định cho phép Tòa án xác minh, bổ sung chứng cứ tài liệu, đồ vật trong giai đoạn xét xử tại phiên tòa là cần thiết. Căn cứ tạm ngừng phiên tòa với lý do cần phải xác minh, thu thập bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa cũng giống căn cứ hoãn phiên tòa được quy định tại Điểm b khoản 2 Điều 297 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nhưng khác nhau ở chỗ thời hạn tạm ngừng phiên tòa là 05 ngày và đối với hoãn phiên tòa là 30 ngày. Vậy khi nào cần phải xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa thì Tòa án hoãn phiên tòa, khi nào thì tạm ngừng phiên tòa? Bộ luật Tố tụng hình sự không quy định cụ thể về căn cứ này. Tuy nhiên có thể hiểu việc quyết định hoãn phiên tòa hay tạm ngừng phiên tòa đối với căn cứ này tùy thuộc vào quan điểm đánh giá của Hội đồng xét xử. Trong trường hợp Hội đồng xét xử cho rằng việc xác minh, bổ sung chứng cứ có thể thực hiện được trong thời hạn 05 ngày thì sẽ quyết định tạm ngừng phiên tòa, còn nếu cho rằng không thể xác minh, bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật trong thời hạn 05 ngày thì sẽ quyết định hoãn phiên tòa. Theo quy định tại Điều 252 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 Tòa án có thể xác minh, bổ sung, thu thập chứng cứ bằng các hoạt động: Tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp; Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án; Xem xét tại chỗ vật chứng không thể đưa đến phiên tòa; Xem xét tại chỗ nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác có liên quan đến vụ án; Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản ngoài các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định, cần định giá tài sản quy định tại Điều 206 và Điều 215 của Bộ luật này; trưng cầu giám định bổ sung, giám định lại; yêu cầu định giá lại tài sản. Trong trường hợp xét thấy cần xác minh, 10 bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật thì Tòa án cần đánh giá vị trí, tầm quan trọng và tính phức tạp của vấn đề cần phải chứng minh và những chứng cứ, tài liệu, đồ vật cần bổ sung, xác minh để làm rõ có thể được thu thập bằng biện pháp nào và thời gian để tiến hành có kết quả hoạt động đó để quyết định chính xác. Thông thường những hoạt động tố tụng mà Tòa án có thể tiến hành để xác minh, 6 bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật trong thời gian ngắn (05 ngày) là : Tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án; xem xét tại chỗ vật chứng không thể đưa đến phiên tòa; xem xét tại chỗ nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác có liên quan đến vụ án. Với quy định này, đòi hỏi Hội đồng xét xử phải xem xét, đánh giá chính xác về khả năng có thể xác minh, bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật trong thời hạn 05 ngày hay không để quyết định tạm ngừng phiên tòa hay hoãn phiên tòa. Nếu quyết định tạm ngừng phiên tòa chính xác thì tiết kiệm được thời gian, công sức, tiền bạc, đảm bảo giải quyết nhanh chóng vụ án. Nhưng nếu quyết định tạm ngừng phiên tòa không chính xác, tức không thể xác minh, bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật trong vòng 05 ngày thì Tòa án sẽ phải mất thêm một lần mở lại phiên tòa và ra quyết định hoãn phiên tòa như vậy sẽ tốn kém công sức, chi phí tố tụng và kéo dài thời gian giải quyết vụ án hơn so với quyết định hoãn phiên tòa, ảnh hưởng đến quyền lợi của những người tham gia tố tụng khi vụ án phải kéo dài và phải thu xếp thời gian tham gia phiên tòa nhiều lần. - Trường hợp thứ hai: Do tình trạng sức khỏe, sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa nhưng họ có thể tham gia lại phiên tòa trong thời gian 05 ngày, kể từ ngày tạm ngừng phiên tòa. Theo quy định này để tạm ngừng phiên tòa thì cần phải thỏa mãn các điều kiện sau đây: Một là, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng do tình trạng sức khỏe, sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan không thể tiếp tục tham gia phiên tòa. Đây là điều kiện cần để Tòa án quyết định tạm ngừng phiên tòa. 6Công ty Luật TNHH Hiệp Thành, “Phân biệt Tạm ngừng phiên tòa - Hoãn phiên tòa hình sự sơ thẩm”. Nguồn: https://luatinterco.com/vi/news/to-tung-tai-toa/phan-biet-tam-ngung-phien-toa-hoan-phien-toa-hinhsu-so-tham-770.html, truy cập ngày 22/6/2019. 11 Đối với người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 sự có mặt của những người tiến hành tố tụng tại phiên tòa bao 7 gồm thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên là bắt buộc . Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm bao gồm Thẩm phán và Hội thẩm, thành phần Hội đồng xét xử phúc bao gồm 03 Thẩm phán. Tại phiên Tòa xét xử Hội đồng xét xử giữ vai trò quan trọng trong việc tiến hành các hoạt động tố tụng và đưa ra phán quyết cuối cùng về việc giải quyết vụ án. Thành phần, cơ cấu của Hội đồng xét xử sơ thẩm và phúc thẩm được Bộ luật Tố tụng quy định chặt chẽ. Những thành viên Hội đồng xét xử phải tham gia phiên tòa từ lúc bắt đầu đến khi kết thúc. Trong trường hợp, một thành viên của Hội đồng xét xử không có mặt tại phiên tòa mà không có thành viên dự khuyết để thay thế thì phải hoãn phiên tòa. Trong trường hợp có bất kỳ thành viên nào của Hội đồng xét xử không thể tiếp tục tham gia phiên tòa mà không có người dự khuyết thay thế thì phiên tòa hình sự sẽ phải tạm ngừng hoặc hoãn. Tùy thuộc vào việc Tòa án đánh giá thời gian họ có thể tham gia lại phiên tòa để quyết định. Tại phiên tòa theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Thư ký Tòa án có vai trò trong việc phổ biến nội quy phiên tòa để những người tham gia tố tụng nắm bắt và thực hiện đầy đủ các yêu cầu của nội quy phiên tòa, đảm bảo cho phiên tòa tiến hành trôi chảy và đạt hiệu quả; đồng thời Thư ký Tòa án phải kiểm tra sự vắng mặt, có mặt của những người được triệu tập tham gia phiên tòa và báo cáo Hội đồng 8 xét xử; và cuối cùng là ghi biên bản phiên tòa . Với những nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm đã được Bộ luật Tố tụng hình sự phân định rõ ràng Thư ký Tòa án phải có mặt tại phiên tòa. Phiên tòa chỉ có thể bắt đầu nếu có mặt đầy đủ những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, trong đó có Thư ký Tòa án. Trong trường hợp Thư ký Tòa án không thể tiếp tục tham gia phiên tòa mà không có người dự khuyết thay thế thì phiên tòa hình sự cũng không thể tiếp tục. Vì vậy, Tòa án cũng phải quyết định tạm ngừng hoặc hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các chủ thể tiến hành và chủ thể tham gia tố tụng tại phiên tòa. Vì vậy, sự có mặt của Kiểm sát viên tại phiên tòa từ đầu đến cuối là bắt buộc. Trường hợp Kiểm sát viên không thể tiếp tục tham gia phiên tòa thì 7Điều 288, Điều 289 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. 8 Điều 47 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. 12 phiên tòa cũng không thể tiếp tục. Tòa án cũng phải quyết định tạm ngừng hoặc hoãn phiên tòa. Đối với người tham gia tố tụng: Việc tham gia phiên tòa có nhiều mục đích và vai trò khác nhau. Ví dụ: Bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người đại diện của họ tham gia phiên tòa nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong vụ án, đồng thời giúp Hội đồng xét xử làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự tham gia phiên tòa nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, bị hại và đương sự. Đồng thời, góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Người làm chứng, người định giá, người giám định, người phiên dịch, dịch thuật tham gia phiên tòa nhằm góp phần làm sáng tỏ sự thật của vụ án. Như vậy, mặc dù mục đích tham gia phiên tòa của những người tham gia tố tụng có thể khác nhau, nhưng sự có mặt của họ tại phiên tòa đều có mục đích chung là góp phần làm sáng tỏ sự thật của vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy, trong trường hợp những người tham gia tố tụng được triệu tập tham gia phiên tòa nhưng họ không thể tiếp tục tham gia phiên tòa thì để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của họ, cũng như đảm bảo việc xác định sự thật khách quan của vụ án thì Tòa án phải tạm ngừng phiên tòa hoặc hoãn phiên tòa tùy thuộc vào thời gian họ có thể tham gia lại phiên tòa để Tòa án quyết định. Lý do những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa là do tình trạng sức khỏe, sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không có quy định khái niệm và căn cứ đánh giá tình trạng sức khỏe của người có thẩm quyền hoặc người tham gia tố tụng để xác định họ có thể tiếp tục tham gia phiên tòa hay không. Việc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng tham gia phiên tòa trong tình trạng sức khỏe thể chất và tinh thần không đảm bảo sẽ ảnh hưởng đến chất lượng xét xử, ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền và lợi ích của những người tham gia tố tụng trong vụ án. Hiện nay việc đánh giá tình trạng sức khỏe của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng có cần căn cứ vào giấy khám sức khỏe của cơ quan chuyên môn hay Tòa án căn cứ vào tình hình sức khỏe của người có thẩm quyền hoặc người tham gia tố tụng để quyết định chưa được quy định rõ. 13 9 Trong văn bản giải đáp của Tòa án nhân dân tối cao tại khoản 16 Phần IV về tố tụng dân sự và thi hành án dân sự có hướng dẫn nội dung tương tự về tạm ngừng phiên tòa dân sự với căn cứ tạm ngừng phiên tòa vì người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa vì lý do sức khỏe. Theo đó, việc tạm ngừng phiên tòa do Tòa án quyết định trong quá trình xét xử. Vì vậy, tùy từng trường hợp cụ thể mà việc đánh giá tình trạng sức khỏe của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng có đủ để tiếp tục tham gia phiên tòa hay không do Hội đồng xét xử căn cứ vào tình trạng sức khỏe thực tế của người đó. Khi xét thấy cần thiết thì phải có xác nhận của cơ quan chuyên môn về tình trạng sức khỏe của người đó 10 để Tòa án quyết định tạm ngừng phiên tòa . Như vậy, cơ sở để đánh giá tình trạng sức khỏe của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng có tiếp tục tham gia phiên tòa được hay không phụ thuộc chủ yếu vào quan điểm đánh giá của Tòa án. Điều này có thể dẫn đến việc quyết định tạm ngừng phiên tòa với căn cứ này không được áp dụng thống nhất và chặt chẽ trên thực tế. Đối với vụ án hình sự vấn đề này chưa có văn bản hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền. Bên cạnh tình trạng sức khỏe không đảm bảo dẫn đến người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa còn lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Khái niệm về “Lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan” xuất hiện rất nhiều lần trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Tuy nhiên, hiện nay Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chưa có quy định giải thích về các khái niệm này. Trong một số số văn bản hướng dẫn thi 11 hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 khái niệm này được hướng dẫn như sau : “Lý do bất khả kháng là những việc, tình huống, sự kiện xảy ra một cách khách quan, không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép. Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ của mình”. Đây là những hướng dẫn mang tính định hướng cho người có thẩm quyền xem xét quyết định tạm ngừng phiên tòa khi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa. Tác giả cho rằng thực chất do tình trạng sức khỏe người có thẩm 9 Tòa án nhân dân tối cao, Văn bản giải đáp số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017. 10 Tòa án nhân dân tối cao, tlđd (9). 11 Khoản 3 Điều 3 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH về phối hợp thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi. 14 quyền tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa cũng thuộc trường hợp lý do bất khả kháng. Việc luật không quy định cụ thể và cũng chưa có hướng dẫn áp dụng đối với các thuật ngữ này có thể dẫn đến việc hiểu và áp dụng không thống nhất về căn cứ này trên thực tế. Hai là, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng có thể tham gia lại phiên tòa trong thời gian 05 ngày, kể từ ngày tạm ngừng phiên tòa. Đây là điều kiện đủ để Tòa án quyết định tạm ngừng phiên tòa, tiêu chí này là cơ sở để phân biệt giữa tạm ngừng phiên tòa với hoãn phiên tòa. Tòa án sẽ lựa chọn quyết định tạm ngừng phiên tòa hay hoãn phiên tòa trong trường hợp người có thẩm quyền và người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa do tình trạng sức khỏe, lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan tùy thuộc vào thời gian mà những người này có thể tham gia lại phiên tòa. Khi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng do tình trạng sức khỏe hoặc lý do bất khả kháng, trở ngại khách quan không thể tiếp tục tham gia phiên tòa thì Tòa án phải xác định thời hạn để họ có khả năng tham gia lại phiên tòa trong thời gian 05 ngày, kể từ ngày tạm ngừng phiên tòa hay không. Nếu họ có khả năng tham gia lại trong thời gian 05 ngày thì Tòa án sẽ quyết định tạm ngừng phiên tòa. Còn trong trường hợp xác định được cần nhiều thời gian hơn 05 ngày để họ có thể tham gia lại phiên tòa thì phải quyết định hoãn phiên tòa. Tiêu chí về thời gian 05 ngày người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng có thể tham gia lại phiên tòa hay không là cơ sở để Tòa án quyết định tạm ngừng phiên tòa hoặc hoãn phiên tòa. - Trường hợp thứ ba: Vắng mặt Thư ký Tòa án tại phiên tòa. Trường hợp này được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 251 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 4 Điều 288 của Bộ luật này phiên tòa chỉ được tiến hành khi có đủ thành viên Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án. Khi Thư ký Tòa án bị thay đổi hoặc không thể tiếp tục tham gia phiên tòa thì vẫn có thể 12 xét xử vụ án nếu có người dự khuyết; ngược lại thì tạm ngừng phiên tòa. Có thể nhận thấy trường hợp Thư ký Tòa án không thể tiếp tục tham gia phiên tòa tương thích với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 251 Bộ luật Tố tụng hình sự (vì Thư ký Tòa án cũng là người có thẩm quyền tiến hành tố tụng). Ngoài ra, khoản 4 Điều 288 còn bổ sung thêm trường hợp tạm ngừng phiên tòa khi Thư ký Tòa án bị thay đổi. 12 Khoản 4 Điều 288 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. 15 1.2. Thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về các trƣờng hợp tạm ngừng phiên tòa Như đã phân tích ở phần trên, mặc dù Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã có những quy định cụ thể tại Điều 251 về các trường hợp tạm ngừng phiên tòa, nhưng thực tiễn áp dụng còn nhiều hạn chế, vướng mắc. Nhận xét này được minh chứng qua các vụ án hình sự cụ thể sau đây: Vụ án thứ nhất: 13 Ngày 26/9/2016, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện An Phú, tỉnh An Giang nhận được Công văn số 990 ngày 22/9/2016 của Ủy ban nhân dân huyện An Phú về việc kiến nghị khởi tố đối với Phan Thành Lập, Hồ Phú Lộc và Hồ Chí Hải vì có hành vi chiếm dụng tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế của cán bộ công chức, viên chức Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Hậu, huyện An Phú. Từ tháng 01/2007 đến tháng 7/2013, Phan Thành Lập, Hồ Phú Lộc, Hồ Chí Hải thu tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế bắt buộc của cán bộ chuyên trách, bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm y tế của cán bộ không chuyên trách với số tiền 199.479.801 đồng, nhưng chỉ nộp cho cơ quan Bảo hiểm xã hội huyện số tiền 67.745.294 đồng, giữ lại số tiền 131.734.507 đồng để tiêu xài cá nhân. Các bị cáo Phan Thành Lập, Hồ Phú Lộc và Hồ Chí Hải bị đưa ra xét xử về tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”. Theo quy định tại khoản 2, Điều 280 Bộ luật hình sự, Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải bổ sung các chứng cứ nên đã ra quyết định tạm ngừng phiên tòa và ra thông báo yêu cầu Viện kiểm sát tiến hành bổ sung chứng cứ gồm: - Làm rõ máy điều hòa mà bị cáo Hồ Phú Lộc cho rằng sử dụng tiền chiếm đoạt để mua cho lãnh đạo xã Vĩnh Hậu, (xác định nguồn tiền nào bị cáo sử dụng để mua máy lạnh có phải tiền bảo hiểm mà bị cáo chiếm giữ không?). - Xác minh số tiền là 27.600.000 đồng theo biên nhận ngày 29/8/2012 với bị cáo Hồ Chí Hải có phải là tiền bị cáo chiếm đoạt từ nguồn tiền BHXH và BHYT của cán bộ công chức và cán bộ công chức không chuyên trách của xã hay không? - Xác minh làm rõ biên nhận ngày 24/11/2013 bị cáo Hồ Chí Hải giao nộp tại phiên tòa, bị cáo đã chi tiền chiếm đoạt của bảo hiểm xã hội cho việc thuê đóng bàn ghế? 13 Xem phụ lục số 01. 16 - Làm rõ giấy nộp tiền ngày 08/11/2010 có mục BHYT tự nguyện CB công chức Nhà nước tháng 04 -10/2010 số tiền bị cáo Hải đã nộp 11.545.000 đồng là bảo hiểm gì? Qua vụ án này, tác giả nhận thấy. Căn cứ tạm ngừng phiên tòa được Hội đồng xét xử áp dụng trong vụ án này theo điểm a khoản 1 Điều 251 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Với những yêu cầu mà Hội đồng xét xử đặt ra để tiến hành thu thập chứng cứ như: Làm rõ máy điều hòa mua từ nguồn tiền nào, xác minh số tiền đóng bảo hiểm có phải từ bảo hiểm cá nhân, có đến bốn nội dung thu thập chứng cứ tương đối phức tạp… Tuy nhiên, Hội đồng xét xử lại hội ý tạm ngừng phiên tòa để yêu cầu Viện kiểm sát thu thập chứng cứ trong thời hạn 05 ngày là không phù hợp, dẫn đến sau khi hết thời hạn tạm ngừng Viện kiểm sát vẫn chưa thu thập được theo yêu cầu, Hội đồng xét xử phải mở lại phiên tòa và tại phiên tòa ra Quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung. Vụ thứ hai: 14 Khoảng 10 giờ 15 ngày 22/5/2018, sau khi giao hàng xong tại ấp An Hưng, thị trấn An Phú, tỉnh An Giang, Trần Bữu An điều khiển xe ô tô tải biển số 67M – 0415 chở Lê Văn Nhí lưu thông trên đường số 12 hướng Trung tâm thương mại An Phú (thuộc ấp An Hưng, thị trấn An Phú, huyện An Phú) ra Quốc lộ 91C. Khi đi đến ngã tư giao nhau giữa đường số 12 và đường số 5 thì An vừa nghe điện thoại vừa bật tín hiệu cho xe rẽ trái để ra Quốc lộ 91C thì va chạm vào xe lăn tay do bà Bùi Thị Lệ điều khiển hướng từ khu dân sinh ra Trung tâm thương mại An Phú làm xe và bà Lệ ngã ngang bên phải xuống đường. Hậu quả bà Lệ bị thương tích nặng chuyển đến Bệnh viện đa khoa khu vực tỉnh tại thành phố Châu Đốc cấp cứu, đến ngày 23/5/2018 bà Lệ tử vong. Bị cáo Trần Bữu An bị đưa ra xét xử về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015. Tại phiên tòa, nhận thấy ngoài bị cáo đã bị khởi tố và điều tra, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy còn có người đồng phạm khác hoặc có người phạm tội khác có liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố bị can nên Tòa án nhân dân huyện An Phú ra quyết định tạm ngừng phiên tòa trong thời hạn 05 ngày sau đó ban hành thông báo yêu cầu Viện kiểm sát thu thập bổ sung các tài liệu, chứng cứ sau: 14 Xem phụ lục số 2. 17 - Đối chất làm rõ việc bà Nguyễn Thị Hồng Tuyết (Duyên) khi hợp đồng miệng với bị cáo Trần Bữu An để làm tài xế cho cửa hàng Vật liệu xây dựng Nguyễn Cảnh có xem bị cáo đã có giấy phép lái xe ô tô hay chưa? Vì sao khi hợp đồng tài xế lái xe tải mà lại không biết có giấy phép lái xe ô tô hạng C? - Trong bản ghi lời khai bút lục 140 bà Tuyết khai “An có nói với tôi là xin đi Vĩnh Long để lãnh bằng lái xe B2, sau khi đi Vĩnh Long về thì An cũng đến xin việc nên tôi tin tưởng An và giao xe cho An điều khiển chứ không có kiểm tra” như vậy bà Tuyết biết rõ An chưa có bằng lái xe B2, việc An đi Vĩnh Long không chỉ là đi lấy bằng lái, không thể suy luận An đi Vĩnh Long về là có bằng lái. Làm rõ xe mà bị cáo tham gia giao thông gây tai nạn là phải có giấy phép lái xe hạng gì? B2 hay C (Đối chất giữa Tuyết và bị cáo An xem khi đi Vĩnh Long bị cáo có nói với bà Tuyết hay không và khi về bị cáo nói gì với bà Tuyết). - Đối chất làm rõ vì sao khi tai nạn xảy ra ông Nguyễn Thanh Sang lại đến hiện trường nói với Lê Văn Nhí khai nhận người lái xe là Khánh (Đối chất Nhí và Sang và Tuyết (Duyên)). Qua vụ án, căn cứ mà Tòa án tạm ngừng phiên tòa là tại điểm a khoản 1 Điều 15 251, sau đó Tòa án ban hành Thông báo yêu cầu bổ sung tài liệu, chứng cứ để yêu cầu Viện kiểm sát tiến hành thu thập các chứng cứ mà Tòa án yêu cầu. Tuy nhiên vụ án này cũng giống vụ án thứ nhất, Hội đồng xét xử tạm ngừng yêu cầu thu thập chứng cứ nhưng chứng cứ thu thập là nhiều vấn đề quan trọng như: Cho đối chất nhiều nội dung, đương sự liên quan ở nhiều nơi, mà theo nhận định chủ quan thì thời hạn 05 ngày khó có thể thu thập được. Do đó sau khi kết thúc thời hạn tạm ngừng Viện kiểm sát không thể thu thập kịp thời, dẫn đến Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa thêm 30 ngày để tiến hành thu thập chứng cứ. Nếu ngay từ đầu Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa để thu thập chứng cứ sẽ phù hợp hơn, tránh mất thời gian cho việc giải quyết vụ án. Vụ thứ ba: 16 Vụ án hình sự thụ lý số: 02/2019/HSST ngày 16/01/2019 đối với bị cáo: Nguyễn Thị Vân, sinh năm 1969, Nơi cư trú: Ấp Đồng Ky, xã Quốc Thái, huyện An Phú, tỉnh An Giang. Nguyễn Thanh Hùng (Bích), sinh năm 1974, Nơi cư trú: ấp 15 Mẫu số 35-HS (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP ngày 19 tháng 9 năm 2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao). 16 Xem phụ lục số 03. 18 Phú Thành, xã Phú Hữu, huyện An Phú, tỉnh An Giang. Bị Viện kiểm sát nhân dân huyện An Phú truy tố về tội “Vận chuyển trái hàng hóa qua biên giới” theo quy định tại khoản 1 Điều 189 Bộ luật hình sự năm 2015. Vụ án được đưa ra xét xử theo Quyết định đưa số: 07/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 02 năm 2019. Tại phiên tòa qua hội ý Hội đồng xét xử đã quyết định tạm ngừng phiên tòa để bổ sung tài liệu chứng cứ. Cụ thể cần thu thập thêm lời khai của người làm chứng đối với phần lúa mua tại Việt Nam là 27.600 kg do công đoàn Ba Lên thực hiện bóc vác thuê; đối chất các lời khai mâu thuẫn của bị cáo và người làm chứng; thu thập thêm chứng cứ về việc các bị cáo cho rằng phần lúa 27.600 kg là mua tại Việt Nam có công đoàn Ba Lên bóc vác xuống ghe. So với hai vụ án trước thì trong vụ án này, Hội đồng xét xử cũng tạm ngừng phiên tòa theo điểm a khoản 1 Điều 251 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Tuy nhiên, việc thu thập chứng cứ đối với yêu cầu của Hội đồng xét xử là rất khó thực hiện, phải lấy lời khai của công đoàn Ba Lên, đối tượng này thường xuyên qua lại khu vực biên giới và đi lại rất nhiều nơi nên việc tìm gặp đối tượng để lấy lời khai và cho đối chất trong thời hạn 05 ngày là chưa phù hợp khó có thể thực hiện được, dẫn đến sau khi mở lại phiên tòa, Hội đồng xét xử phải tiếp tục hoãn phiên tòa lần nữa để thu thập chứng cứ. Theo tác giả Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa để thu thập chứng cứ thì sẽ phù hợp và có nhiều thời gian để thực hiện hơn, tránh việc phải tạm ngừng rồi lại mở phiên tòa sau đó phải tiếp tục tạm hoãn gây mất thời gian và công sức của cơ quan và người tiến hành tố tụng. Vụ án thứ tƣ: 17 Chiều ngày 03 tháng 4 năm 2019 Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil tỉnh Đăk Nông mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 37/2918/HSST ngày 18 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo Nguyễn Thanh Tùng và đồng phạm về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Trong quá trình xét xử tại phiên tòa, Hội đồng xét xử sơ thẩm xét thấy cần phải bổ sung hồ sơ chứng cứ, tài liệu đồ vật cần thiết cho việc giải quyết vụ án mà không cần phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Căn cứ vào lời khai của các bị cáo tại phiên tòa thì 02 bị cáo Tùng và Sơn khai nhận hành vi trộm cắp nhà bà Xoan vào ngày 29/5/2014 là do 03 bị cáo Nguyễn Thanh Tùng, Hồ Vĩnh Sơn và Phan Tiến 17 Xem phụ lục số 9. 19 Dũng thực hiện, không có bị Hồ Mạnh Hải tham gia. Tại phiên tòa, bị cáo Hải khai rằng từ năm 2012-2014 thì bị cáo sinh sống và học nghề cắt tóc tại tiệm Trung Em, địa chỉ số 06 đường Nguyễn Chánh, thành phố Buôn Mê Thuột tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo Hải ở trọ cùng Lê Khắc Cường sinh năm 1995, địa chỉ: thôn 4 xã Đắk Nia, thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông. Bị cáo có đăng ký tạm trú, tạm vắng với chính quyền địa phương. Bị cáo Hải khai rằng mình không tham gia trộm cắp tài sản tại nhà bà Xoan cùng 03 bị cáo còn lại. Do vậy, Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil đã ra quyết định tạm ngừng phiên tòa trong vòng 05 ngày, đối với các vấn đề sau: - Xác minh từ thời điểm năm 2012-2014 thì bị cáo Hải có sinh sống và học nghề cắt tóc tại tiệm Trung Em, địa chỉ số 06 đường Nguyễn Chánh, thành phố Buôn Mê Thuột tỉnh Đắk Lắk hay không? Nếu có thì có đăng ký tạm trú, tạm vắng với chính quyền địa phương không? Xác minh ngày 29/5/2014 bị cáo hải có làm việc tại tiệm cắt tóc Trung Em không?; - Tiến hành lấy lời khai của ông Lê Khắc Cường sinh năm 1995, địa chỉ: thôn 4 xã Đắk Nia, thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông để xác minh từ năm 2012-2014 Cường có sinh sống và học nghề cắt tóc tại tiệm Trung Em, địa chỉ số 06 đường Nguyễn Chánh, thành phố Buôn Mê Thuột tỉnh Đắk Lắk cùng bị cáo Hải hay không?. Qua vụ án này, tác giả cho rằng với việc cần bổ sung chứng cứ, tài liệu ở địa phương khác nhau và nội dung cần bổ sung tương đối phức tạp như trong thông báo của Tòa án yêu cầu Viện kiếm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ mà Hội đồng xét xử nhận định thời hạn có thể bổ sung, làm rõ những vấn đề đó trong vòng 05 ngày, kể từ ngày quyết định tạm ngừng phiên tòa để ra quyết định tạm ngừng phiên tòa như vụ án trên là chưa hợp lý. Trong trường hợp cần xác minh ở địa phương khác và nhiều nội dung cần xác minh, thời gian cần xác minh xảy ra cũng tương đối lâu, vì vậy Hội đồng xét xử nên quyết định hoãn phiên tòa, thay vì tạm ngừng phiên tòa. Thực tế vụ án cho thấy những vấn đề Tòa án yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung chứng cứ, tài liệu để làm rõ nhưng Viện kiểm sát không thể cung cấp được trong thời hạn Tòa án yêu cầu nên Tòa án sau đó phải ra quyết định hoãn phiên tòa. Vụ án thứ 5: 18 Vụ án Cao Thị Dung, sinh năm 1996 ngụ tại ấp Thanh Hóa, xã Hố Nai 3, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom 18 Xem phụ lục số 4.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan