Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Tác động của hội nhập kinh tế đến bảo vệ môi trường trong các lĩnh vực nhập khẩu...

Tài liệu Tác động của hội nhập kinh tế đến bảo vệ môi trường trong các lĩnh vực nhập khẩu

.DOC
9
74
96

Mô tả:

A. Đặt vấn đề: Chúng ta đang sống trong một thời kỳ mà quốc tế toàn cầu hoá đang diễn ra hết sức nhanh chóng. Toàn cầu hóa được coi là một xu thế tất yếu khách quan xuất phát từ bản thân quá trình phát triển của thế giới với những yếu tố tác động cơ bản là sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học công nghệ và kinh tế thị trường. Nó tạo nên quan hệ gắn kết và phụ thuộc sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các nước trên thế giới. Quá trình này đòi hỏi các quốc gia phải hội nhập hơn nữa với nền kinh tế thế giới, phải chấp nhận cạnh tranh và chủ động mở cửa thị trường trong nước của mình. Cùng với trào lưu chung đó, trong vòng một thập kỷ qua, Việt Nam đã thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế với phương châm đa phương hoá, đa dạng hoá trong quan hệ kinh tế quốc tế, từng bước hội nhập nền kinh tế thế giới và khu vực. Một trong những hoạt động thương mại giúp chúng ta mở rộng quan hệ với các nước đồng thời thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển là hoạt động nhập khẩu hàng hoá. Bên cạnh đó, một vấn đề được đặt ra và cần phải quan tâm trong mọi hoạt động môi trường nói chung và trong hoạt động nhập khẩu hàng hoá nói riêng là vấn đề bảo vệ môi trường. Trong thời gian qua hoạt động nhập khẩu hàng hoá đã có những tác động tích cực tới nền kinh tế nhưng cũng ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường. Môi trường bị ô nhiễm mất cân bằng sinh thái…có thể do nhiều lý do khác nhau trong đó có nguyên nhân do hoạt động nhập khẩu hàng hoá mang lại. Dù kinh tế có phát triển đến đâu thì con người cũng không thể sống thiếu môi trường. Con người có quyền được sống trong một môi trường trong lành nhưng cũng có nghĩa vụ giữ gìn bảo vệ môi trường trong lành đó cho bản thân và cho thế hệ sau. Chính vì vậy trong mọi hoạt động kinh tế con người luôn phải đặt các lợi ích về môi trường, coi bảo vệ môi trường là một nhiệm vụ đi đôi với phát triển kinh tế. Bảo vệ môi trường đã, đang và sẽ luôn luôn là mối quan tâm của toàn nhân loại. Vì những lý do trên mà em đã chọn đề tài: “Tác động của hội nhập kinh tế đến bảo vệ môi trường trong các lĩnh vực nhập khẩu” 1 B. Giải quyết vấn đề: I. Khái quát chung về hoạt động nhập khẩu. 1. Khái niệm chung về hoạt động nhập khẩu hàng hoá Sự phát triển chung của xã hội loài người gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất , sản xuất cangd phát triển thì các mối quan hệ kinh tế giữa người sản xuất với người sản xuất, người sản xuất với người tiêu dùng và giữa những người tiêu dùng với nhau ngày càng phát triển và diễn ra ngày càng phức tạp. Khi sản xuất hàng hoá phát triển đến một trình độ nhất định các mối quan hệ phát triển không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà còn vươn ra bên ngoài tạo nên mối quan hệ đối ngoại và kinh tế quốc tế. Hoạt động nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của thương mại quốc tế, tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước. Nhờ có hoạt động nhập khẩu mà hàng hoá trong nước chưa được sản xuất hoặc sản xuất chưa đáp ứng được yêu cầu sẽ được bổ sung, nâng cao trình độ và chất lượng của cuộc sống người dân, làm cho sản xuất và tiêu dùng trong nước ngày càng đa dạng và phong phú. Nhập khẩu còn làm thay thế những hàng hoá mà sản xuất không có lợi bằng nhập khẩu. Hai mặt nhập khẩu bổ sung và nhập khẩu thay thế tác động tích cực tới sự phát triển cân bằng của nền kinh tế quốc dân. Với tác động đó, nhập khẩu còn là một phương pháp sản xuất gián tiếp qua đó tạo điều kiện thúc đẩy nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Theo khoản 2 Điều 28 Luật Thương Mại 2005 thì: “Nhập khẩu hàng hoá là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật”. 2. Khái niệm chung về hoạt động nhập khẩu phế liệu: Hoạt động nhập khẩu phế liệu bao gồm tất cả những hành vi tác nghiệp ngoại thương để thương nhân Việt Nam có thể sở hữu đối với phế liệu nhập khẩu. Như vậy theo nghĩa hẹp này thì hoạt động nhập khẩu phế liệu là việc đưa phế liệu từ nước ngoài vào Việt Nam Những nguy cơ gây ảnh hưởng xấu tới môi trường và sức khoẻ con người trong hoạt động nhập khẩu phế liệu phát sinh từ hành vi vận chuyển phế liệu không bảo đảm chất lượng về môi trường hoặc chất thải độc hại vào Việt Nam. II. Thực trạng của hoạt động nhập khẩu ở Việt Nam trong tháng 3 năm 2010: 1. Quy mô và tốc độ. Tháng 3/2010, trị giá nhập khẩu hàng hoá cả nước là 6,75 tỷ USD, tăng 33,1% so với tháng trước. Trong đó, xuất khẩu của khu vực có vốn đầu 2 tư nước ngoài (FDI) đạt 2,86 tỷ USD, nâng tổng kim ngạch nhập khẩu của khu vực này đạt gần 7,3 tỷ USD, tăng 57,3% so với cùng kỳ năm 2009. Xét về số tuyệt đối, kim ngạch nhập khẩu tháng 3 tăng 1,68 tỷ USD so với tháng trước. Trong đó, tăng mạnh nhất là các nhóm hàng : máy móc, thiết bị, dụng cụ & phụ tùng: tăng 318 triệu USD, vải: tăng 154 triệu USD, chất dẻo nguyên liệu: tăng 110 triệu USD; máy tính, sản phẩm điện tử & linh kiện: tăng 102 triệu USD, săt thép: tăng 99 triệu USD… Chỉ có 4 nhóm hang có mức kim ngạch giảm trong tháng là: đá quý, kim loại quý (giảm 197 triệu USD), phân bón, nguyên phụ liệu thuốc lá và hàng rau quả. Hết quý I/2010, trị giá nhập khẩu cả nước đạt 17,9 tỷ USD, tăng 40,2% so với cùng kỳ năm trước (tương ứng với trị giá tăng thêm là 5,1 tỷ USD). Đóng góp vào mức tăng kim ngạch của quý I chủ yếu ở các mặt hàng như: xăng dầu: làm tăng 371 triệu USD, máy móc, thiết bị, dụng cụ & phụ tùng: 359 triệu USD, thức ăn gia súc & nguyên liệu: 350 triệu USD, máy tính, sản phẩm điện tử & linh kiện: 331 triệu USD, kim loại màu: 305 triệu USD, sắt thép: 290 triệu USD, chất dẻo nguyên liệu: 271 triệu USD… 2. Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu. - Sắt thép các loại: tháng 3/2010, tổng lượng sắt thép nhập khẩu cả nước là 635 nghìn tấn, tăng 19,5% so với tháng trước, nâng lượng nhập khẩu quí I lên 1,75 triệu tấn, tăng 23,7% với trị giá 1,12 tỷ USD, tăng 36,4% so với quý I/2009. Khu vực các doanh nghiệp trong nước nhập khẩu 1,1 triệu tấn và các doanh nghiệp FDI nhập khẩu 657 nghìn tấn. Trong đó, lượng sắt thép nhập khẩu (trừ phôi thép) là 1,25 triệu tấn, trị giá 877 triệu USD trong quí I/2010, tăng 15% về lượng và 28,5% về trị giá so với cùng kỳ năm trước. Nhật Bản là thị trường lớn nhất cung cấp mặt hàng sắt thép các loại cho Việt Nam trong 3 tháng đầu năm nay với 392 nghìn tấn. Đứng thứ hai là Trung Quốc với 298 nghìn tấn, Hàn Quốc: 277 nghìn tấn, Nga: 226 nghìn tấn, Malaixia: 185 nghìn tấn, Đài Loan: 149 nghìn tấn,… - Kim loại thường: trong tháng, nhập khẩu nhóm hàng này là 60 nghìn tấn, tăng 54,6% so với tháng trước, trị giá đạt 214 triệu USD. Hết tháng 3, tổng lượng nhập khẩu nhóm hàng này là 144 nghìn tấn, tăng 49,9% so với cùng kỳ năm 2009 với trị giá đạt 543 triệu USD, tăng mạnh 128,5%. Trong đó, nhập khẩu nhôm: đạt 71 nghìn tấn, đồng: 37,2 nghìn tấn, kẽm: 18,4 nghìn tấn, chì: 16,8 nghìn tấn, thiếc: 439 tấn, niken: 125 tấn. Trong quý 1/2010, Việt Nam nhập khẩu kim loại thường chủ yếu có xuất xứ từ: Hàn Quốc: 24,3 nghìn tấn, Ôxtrâylia: 23,3 nghìn tấn, Đài Loan: 17,2 nghìn tấn, Trung Quốc: 13,3 nghìn tấn… - Thức ăn gia súc và nguyên liệu: trong tháng, kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này đạt mức kỷ lục 259 triệu USD, tăng 35% so với tháng trước, nâng 3 tổng trị giá nhập khẩu trong quý I lên 613 triệu USD (mức cao nhất từ trước đến nay), tăng mạnh 133,2% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, mặt hàng khô dầu đậu tương nhập khẩu trong tháng là 363 nghìn tấn, tăng 28%, nâng lượng nhập khẩu quý I lên 985 nghìn tấn với trị giá là 395 triệu USD, chiếm 64% kim ngạch nhập khẩu nhóm thức ăn gia súc và nguyên liệu. Việt Nam nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu chủ yếu có xuất xứ từ: Ấn Độ: 159 triệu USD, tăng 5,5%; Achentina: 141 triệu USD, tăng 4.835%; Hoa Kỳ: 139 triệu USD, tăng 632%… - Phân bón các loại: trong tháng, cả nước nhập khẩu 195 nghìn tấn phân bón các loại, trị giá là 62,3 triệu USD. Tính đến hết tháng 3/2010, lượng phân bón các loại nhập khẩu là gần 943 nghìn tấn, giảm 15,5% so với cùng kỳ năm 2009, đạt trị giá là gần 293 triệu USD. Mặt hàng phân bón nhập khẩu vào Việt Nam quý I/2010 chủ yếu có xuất xứ từ Trung Quốc với gần 349 nghìn tấn, Nga: 132 nghìn tấn, Nhật Bản: 75 nghìn tấn, Philippin: 74,3 nghìn tấn, … - Nhóm hàng nguyên liệu ngành dệt may, da giày: trong tháng, nhập khẩu nhóm hàng nguyên liệu cho ngành dệt may và da giày là 789 triệu USD, tăng 60,4% so với tháng 2, nâng tổng trị giá nhập khẩu nhóm hàng này trong quý I/2010 lên 1,89 tỷ USD, tăng 32% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, trị giá vải nhập khẩu là: 1 tỷ USD, tăng 18,6%; nguyên phụ liệu: 507 triệu USD, bông: 148 triệu USD (91,4 nghìn tấn) và xơ, sợi là 236 triệu USD (122 nghìn tấn). Trong quý I/2010, Việt Nam nhập khẩu nhóm mặt hàng này chủ yếu từ Trung Quốc với 532 triệu USD, tăng 39%; Đài Loan: 355 triệu USD, tăng 12%; Hàn Quốc: 342 triệu USD, tăng 22%; Nhật Bản: 105 triệu USD, giảm 5%; … - Xăng dầu: trong tháng, lượng nhập khẩu xăng dầu đạt 921 nghìn tấn, giảm 2,8% so với tháng 2, trị giá là 577 triệu USD. Hết quý 1, lượng nhập khẩu xăng dầu của cả nước là 2,6 triệu tấn, giảm 17% so với cùng kỳ năm 2009. So với cùng kỳ, trị giá nhập khẩu là 1,58 tỷ USD, tăng 30,8%. Xăng dầu các loại nhập khẩu vào Việt Nam trong ba tháng qua chủ yếu có xuất xứ từ Singapore với 886 nghìn tấn, tiếp theo là Trung Quốc: 360 nghìn tấn, Đài Loan: 284 nghìn tấn, Hàn Quốc: 239 nghìn tấn, Malayxia: 211 nghìn tấn… - Máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng: trong tháng nhập khẩu 1,07 tỷ USD, tăng mạnh 42,2% so với tháng trước và nâng kim ngạch nhập khẩu trong quý 1/2010 lên 2,91 tỷ USD, tăng 14,1% so với cùng kỳ năm 2009. Thị trường chính cung cấp nhóm hàng này cho Việt Nam trong quý 1 năm nay là Trung Quốc: 938 triệu USD, tăng 14,6% so với quý 1/2009; Nhật 4 Bản: 526 triệu USD, tăng 4,7%; Đức 226 triệu USD, tăng mạnh 79,1%; Hàn Quốc: 184 triệu USD, tăng 5,8%; Đài Loan: 166 triệu USD, tăng 47,5%... - Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện: nhập khẩu trong tháng là 359 triệu USD, tăng 39,4% so với tháng trước, nâng tổng trị giá nhập khẩu nhóm hàng này trong quý 1/2010 lên 987 triệu USD, tăng 50,4% so với cùng kỳ năm 2009. Nhập khẩu nhóm hàng này chủ yếu có xuất xứ từ Trung Quốc: 341 triệu USD, tăng 39%; Nhật Bản: 189 triệu USD, tăng 25%; Hàn Quốc: 114 triệu USD, tăng mạnh 226%… - Chất dẻo nguyên liệu: trong tháng nhập khẩu 194 nghìn tấn, tăng 52,3% so với tháng trước và đạt trị giá gần 310 triệu USD. Hết tháng 3/2010, tổng lượng nhập khẩu chất dẻo nguyên liệu của cả nước là 493 nghìn tấn, tăng 6,3% so với cùng kỳ năm trước và đạt trị giá là 766 triệu USD. Hết quý I/2010, chất dẻo nguyên liệu được nhập khẩu vào Việt Nam chủ yếu có xuất xứ từ: Hàn Quốc: 97 nghìn tấn, tăng 12,6% so với cùng kỳ 2009; Đài Loan: 75 nghìn tấn, tăng 5,5%; A rập Xê út: 69,4 nghìn tấn, tăng 7,5%, Thái Lan: 51 nghìn tấn, giảm 24,3%;… - Ôtô nguyên chiếc các loại: trong tháng, lượng ôtô nguyên chiếc nhập khẩu là 3,65 nghìn chiếc, tăng 44,9% so với tháng trước, nâng lượng nhập khẩu quý I lên 9,6 nghìn chiếc, tăng 22,4% so với cùng kỳ năm 2009, trong đó xe dưới 9 chỗ là 6,3 nghìn chiếc, chiếm 66% lượng ô tô nguyên chiếc nhập khẩu của cả nước. - Nhập khẩu linh kiện và phụ tùng ô tô trong tháng đạt 169 triệu USD, tăng 29,6% so với tháng 2, nâng tổng giá trị nhập khẩu trong quý I lên 448 triệu USD, tăng mạnh 128% so với quý I/2009 nhưng so với quý IV/2009 vẫn giảm 31%. III. Tác động của hoạt động nhập khẩu tới bảo vệ môi trường: Chúng ta đang sống trong một thời đại mà các quan hệ kinh tế quốc tế đã phát triển tới mức không một quốc gia nào dù thuộc hệ thống kinh tế xã hội nào có thể tồn tại và phát triển mà không chịu sự tác động qua lại của các mối quan hệ. Toàn cầu hoá được coi là một xu thế khách quan xuất phát từ bản thân quá trình phát triển của thế giới với những yếu tố tác động cơ bản là sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học công nghệ và kinh tế thị trường. Nó tạo nên sự gắn kết và phụ thuộc, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các nước trên thế giới. Từ những con số thống kê về tình hình nhập khẩu ở trên cho thấy hoạt động nhập khẩu ở nước ta đã, đang và sẽ còn vận động mạnh mẽ hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Hoạt động này tác động tới môi trường ở cả hai mặt: tích cực và tiêu cực. 1. Tác động tích cực: Thông qua hoạt động nhập khẩu, chúng ta có cơ hội tiếp thu với công nghệ cao, công nghệ sạch và công nghệ ít hoặc không sản sinh chất thải. 5 Hiện nay, sản phẩm dầu thực vật ở Việt Nam được sản xuất từ nguyên liệu trong nước là các loại hạt có dầu (lạc, dừa, vừng, đậu tương, hướng dương…) qua các công đoạn trích dầu thô từ nguyên liệu và tinh luyện. Tuy nhiên, do nguồn nguyên liệu trong nước còn hạn chế nên một lượng lớn sản phẩm được sản xuất chỉ qua công đoạn tinh luyện bằng nguồn nguyên liệu là dầu thô nhập khẩu. Các cơ sở sản xuất chế biến dầu có công suất lớn hoặc mới được đầu tư ở Việt Nam đều sử dụng công nghệ và thiết bị hiện đại được nhập khẩu từ những nước có trình độ chế tạo cơ khí tiên tiến. Trong những năm qua, nhiều dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã đem theo những công nghệ tiên tiến, ít gây ô nhiễm, sử dụng nguyên liệu hiệu quả hơn, là điều kiện để phát triển phân công lao động và chuyên môn hoá sản xuất. Các doanh nghiệp nước ngoài nhất là các tập đoàn đa quốc gia có công nghệ sạch, áp dụng những tiêu chuẩn môi trường cao hơn so với yêu cầu của nước chủ nhà, do vậy có khả năng góp phần vào quá trình phát triển bền vững môi trường của nước chủ nhà. Ví dụ: TP Hồ Chí Minh đang phải đối mặt với tình trạng rất cấp bách về địa điểm chôn lấp rác. Năm 2006 một trong hai bãi rác lớn của thành phố phải đóng cửa vì đã vượt khối lượng cho phép. Vào thời điểm đó, công ty xử lý chất thải rắn VN-VWS đã đưa vào công nghệ POSI-SHELL (công nghệ mới, tiên tiến nhất được sử dụng tại Hoa Kỳ trong hai năm qua và lần đầu tiên được sử dụng tại châu Á) để xây dựng khu xử lý chất thải rắn Đa Phước. Ngày 1/11/200 khu liên hợp bắt đầu đi vào hoạt động với công suất 3.100 tấn/ ngày và có thể tiếp nhận rác trong thời gian 21 năm. Đây là công nghệ được sử dụng chất phụ gia keo được trộn chung với xi măng và bột vôi (được nhập khẩu từ nước ngoài) và phun lên bề mặt của rác. Việc cho phép nhập khẩu phế liệu, cùng với việc sử dụng phế liệu sản xuất ở trong nước, sẽ tạo nguồn nguyên liệu với giá rẻ có thể cạnh tranh được với nguồn nguyên liệu được khai thác từ nguồn tài nguyên thiên nhiên. Với những quy định phù hợp, pháp luật môi trường về hoạt động nhập khẩu phế liệu có thể góp phần bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên thông qua việc tạo ra nguồn nguyên liệu thứ cấp với giá rẻ hơn nguồn nguyên liệu được khai thác từ thiên nhiên. Trong cơ chế thị trường, các nhà sản xuất sẽ lựa chọn nguồn nguyên liệu có giá trị thấp hơn. Từ đấy, các nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể được bảo vệ trước sức ép của nhu cầu khai thác làm nguyên liệu để phục vụ sản xuất. Ví dụ: Việc sử dụng giấy loại làm nguyên liệu tái sinh sẽ làm giảm nhu cầu khai thác gỗ rừng; việc sản xuất thép phế liệu sẽ làm giảm nhu cầu khai thác khoáng sản. Việc sử dụng phế liệu làm nguyên liệu ở một số ngành còn giúp cho việc giảm nhu cầu sử dụng năng lượng trong quá trình sản xuất. Nhu cầu 6 năng lượng sử dụng cho một đơn vị sản phẩm khi sử dụng phế liệu như thủy tinh, thép phế liệu…thấp hơn so với việc sử dụng nguyên liệu khai thác từ thiên nhiên. Ví dụ: Năm 1995 tại cộng hoà Pháp các nhà sản xuất đã tiết kiệm được 1800 TEP (TEP là đơn vị năng lượng tương đương với năng lượng thu hồi được khi đốt một tấn dầu mỏ có chất lượng trung bình). Khi sử dụng 23 100 tấn phế liệu thuỷ tinh để sản xuất bao bì bằng thuỷ tinh. Đối với Việt Nam việc tiết kiệm năng lượng thông qua hoạt động sản xuất phế liệu làm nguyên liệu sản xuất có thể trở thành hiện thực nếu chúng ta có những chính sách khuyến khích hợp lý đối với hoạt động thu gom, phân loại, tái chế chất thải sản sinh ở trong nước và cho phép có kiểm soát đối với hoạt động nhập khẩu phế liệu từ nước ngoài. 2. Tác động tiêu cực: Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trước hết phải đổi mới công nghệ, bởi vì trình độ công nghệ có vai trò quyết định đến việc khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, đồng thời cũng quy định cả năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Hiện nay, công nghệ đang sử dụng ở Việt Nam chủ yếu là nhập khẩu từ nước ngoài. Bởi vậy, chuyển giao công nghệ luôn là một nhu cầu cấp bách, thiết thực của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Song, vì là một nước nghèo, nguồn vốn eo hẹp; cho nên, trong chuyển giao công nghệ, dù là trực tiếp hay gián tiếp, chúng ta cũng rất khó có thể nhận được các công nghệ tiên tiến nhất, mà thường chỉ nhận được các thiết bị loại trung bình, thậm chí trong nhiều trường hợp còn phải nhận các thiết bị cũ kỹ, đã bị loại bỏ ở các nước phát triển. Nhập khẩu từ các nước châu Á chiếm tới 75% kim ngạch nhập khẩu ở Việt Nam. Lý do là công nghệ của các nước phương Tây có giá thành cao. Trong khi công nghệ và trình độ phát triển khoa học kỷ thuật của Doanh nghiệp Việt Nam còn thấp, thêm vào đó là trình độ của các cán bộ quản lý còn hạn chế. Chúng ta khó có thể đưa ra được những quyết định có lợi cho môi trường và kiểm soát tác động môi trường của hoạt động nhập khẩu và hoạt động đầu tư. Do đó, Việt Nam có thể sẽ phải gánh chịu những hậu quả môi trường nghiêm trọng do bên ngoài du nhập vào. Đã có trường hợp nhập vào cả những công nghệ lạc hậu mà những nước bán hàng cho ta không còn sử dụng. Ngoài ra có trường hợp các tập đoàn đầu tư đa quốc gia đưa các giây chuyền sản xuất ô nhiễm hoặc chuyển giao các công nghệ lạc hậu vào nước ta, mà những công nghệ này không được chấp nhận tại nước đầu tư. Đặc biệt nghiêm trọng là nạn xuât khẩu ô nhiễm môi trường từ các nước ô nhiễm trên thế giới ngày càng gia tăng. Có hiện tượng chuyển giao các ngành gây ô nhiễm nặng nề từ các nước phát triển sang các nước đnag 7 phát triển thông qua FDI. Việc xuất khẩu các chất gây ô nhiễm mang lại cho các tập đoàn đa quốc gia một lợi thế cạnh tranh mới nhờ giảm chi phí sản xuất. Nguyên nhân của tình trạng này là do chi phí để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường tại các nước phát triển là rất cao. Vì vậy Doanh nghiệp của các nước này buộc phải tìm đến giải pháp chuyển lĩnh vực sản xuất gây ô nhiễm của họ ra nước ngoài. Ví dụ: Các nước phát triển như Đức, Áo, Bỉ…đang đánh thuế mạnh vào các ngành gây ô nhiễm, trong khi đó các nước đang phát triển như Việt Nam lại có mức thuế thấp hơn nhiều do khát vốn và vì vậy, họ trỏ thành những nước có mức nhập khẩu ô nhiễm cao. Lợi nhuận thương mại và áp lực cạnh tranh của thị trường cũng là yếu tố khuyến khích các nhà đầu tư sử dụng các quá trình sản xuất nhập khẩu thiết bị công nghệ không thân thiện với môi trường để giảm tối đa chi phí sản xuất. Tự do hoá thưng mại làm tăng nguy cơ lưu thông những sản phẩm có ảnh hưởng tới môi trường. Khi các biện pháp quản lý nhập khẩu bị hạn chế áp dụng thì nguy cơ nhập khẩu tràn lan các thiết bị tiềm ẩn, nguy cơ ảnh hưởng xấu tới môi trường là không tránh khỏi. Việc nhập khẩu hoá chất, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm không đúng quy chuẩn đã gây ảnh hưởng lớn đến môi trường và sức khoẻ con người. Việc di nhập các loài sinh vật lạ, những sản phẩm biến đổi gen có thể làm xuất hiện những nguy cơ đối với môi trường, tác động tiêu cực đến đời sống của những loài sinh vật trong nước, ảnh hưởng tới cân bằng sinh thái. Vì những lý do khác nhau, các Doanh nghiệp có thể nhập khẩu những phế liệu có thể gây ô nhiễm môi trường. Phế liệu nhập khẩu có lẫn những tạp chất không chỉ làm tăng chi phí tái chế mà còn làm tăng những chất thải cần xử lý sau hoạt động tái chế. Các tạp chất lẫn trong phế liệu nhập khẩu có khi là chất thải độc hại như hoá chất, mỹ phẩm quá hạn sử dụng…hoặc chỉ đơn thuần là các chất thải ít hoặc không gây hại nhưng chúng không thể tái sản xuất được hoặc chu trình tái chế không thế tách chúng ra được. Những tạp chất này có thể là nguyên nhân trực tiếp gây ô nhiễm môi trường. Trong điều kiện hoạt động tái chế các chất thải sản sinh trong nước của Việt Nam còn tự phát, thô sơ và manh mún là nguyên nhân gây ô nhiễm nghiêm trọng tại những khu vực có hoạt động này. Từ những phân tích trên có thể nhận thấy, môi trường và kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau trong việc góp phần vào lợi ích của con người. Vì vậy, việc quản lý môi trường phải trở thành một phần không thể thiếu khi hoạch định chính sách kinh tế. 8 C. Kết thúc vấn đề: Không ai có thể phủ nhận vai trò to lớn của hoạt động nhập khẩu đối với nền kinh tế cũng như tới đời sống nhân dân. Trong thời gian qua chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển hoạt động nhập khẩu trên cả phương diện tăng trưởng kim ngạch, mở rộng thị trường, chuyển dịch cơ cấu hàng hoá nhập khẩu. Những thành tự đó đã góp phần tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế đất nước, từng bước đưa Việt Nam hội nhập nền kinh tế thế giới. Kinh tế càng phát triển thì môi trường sống càng bị thay đổi theo cả hai hướng: tích cực và tiêu cực. Hoạt động nhập khẩu tác động tới môi trường theo cả hai chiều hướng đó. Con người không thể sống tách rời môi trường. Vì vậy, đi đôi với hoạt động nhập khẩu để đạt được lợi ích kinh tế là nghĩa vụ bảo vệ môi trường. Thực hiện tôt nghĩa vụ này là đã góp phần bảo đảm được sống trong môi trường trong lành của chính chúng ta và của thế hệ con cháu mai sau. 9
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan