BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Lê Thị Thanh Phúc
SỰ NGHIỆP VĂN HỌC CỦA LƯ KHÊ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Thành phố Hồ Chí Minh – 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Lê Thị Thanh Phúc
SỰ NGHIỆP VĂN HỌC CỦA LƯ KHÊ
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số
: 8220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. VÕ VĂN NHƠN
Thành phố Hồ Chí Minh – 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi.
Tất cả các kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất cứ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Lê Thị Thanh Phúc
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn, tôi đã nhận được rất
nhiều sự giúp đỡ từ các phòng ban, thầy cô giáo và các cá nhân.
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất đến PGS.TS Võ
Văn Nhơn, người đã tận tâm hướng dẫn, chỉ bảo, động viên tôi trong suốt quá
trình thực hiện luận văn.
Chân thành cảm ơn Phòng Sau Đại học, các thầy cô giáo và cán bộ làm
việc tại khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Tp. HCM đã nhiệt tình giảng
dạy, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi thực hiện đề tài này.
Xin cảm ơn Thư viện Khoa học Tổng hợp đã hỗ trợ tôi trong việc tìm
kiếm, tra cứu tài liệu phục vụ cho đề tài luận văn.
Cuối cùng, chân thành cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã luôn đồng
hành, động viên, hỗ trợ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2018
Tác giả luận văn
Lê Thị Thanh Phúc
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục Lục
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
Chương 1. LƯ KHÊ – CUỘC ĐỜI VÀ VĂN NGHIỆP .............................. 10
1.1. Cuộc đời ................................................................................................. 10
1.1.1. Quê hương ....................................................................................... 10
1.1.2. Thân thế ........................................................................................... 13
1.2. Sự nghiệp văn học .................................................................................. 16
1.2.1. Hoạt động báo chí ........................................................................... 16
1.2.2. Hoạt động văn học .......................................................................... 19
1.3. Lư Khê trong dòng chảy văn học quốc ngữ Nam Bộ nửa đầu thế kỷ
XX ........................................................................................................... 25
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 29
Chương 2. THƠ LƯ KHÊ TRÊN THI ĐÀN THƠ MỚI NAM BỘ ........... 30
2.1. Cảm hứng chính trong thơ Lư Khê ........................................................ 30
2.1.1. Cảm hứng về tình yêu ..................................................................... 32
2.1.2. Cảm hứng dấn thân trước thời cuộc ................................................ 39
2.2. Những đóng góp về nghệ thuật .............................................................. 40
2.2.1. Thể thơ ............................................................................................ 40
2.2.2. Ngôn ngữ thơ................................................................................... 48
2.2.3. Giọng điệu thơ ................................................................................. 52
2.3. Vị trí thơ Lư Khê trong phong trào Thơ mới Nam Bộ .......................... 55
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 58
Chương 3. VĂN XUÔI LƯ KHÊ TRÊN VĂN ĐÀN NAM BỘ .................. 59
3.1. Tản văn ................................................................................................... 60
3.1.1. Đề tài ............................................................................................... 61
3.1.2. Giọng điệu ....................................................................................... 66
3.2. Phóng sự ................................................................................................. 70
3.2.1. Cái tôi trần thuật .............................................................................. 71
3.2.2. Không gian văn hóa Nam Bộ .......................................................... 76
3.3. Phê bình, phỏng vấn, khảo cứu .............................................................. 80
Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 86
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 91
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nam Bộ là vùng đất trẻ nhưng lại chính là nơi làm nên những sự kiện đầu
tiên của báo chí và văn học chữ quốc ngữ: Gia Định báo là tờ báo quốc ngữ
đầu tiên; Thầy Lazaro Phiền là cuốn tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên; Thiếu Sơn
là nhà phê bình văn học hiện đại đầu tiên; phong trào Thơ mới khởi đầu từ Phụ
nữ tân văn với Tình già của Phan Khôi và sự cổ vũ tràn trề nhiệt huyết của
Manh Manh nữ sĩ… Thế nhưng, việc nghiên cứu về mảng văn học này lại chưa
từng được chú ý một cách xứng đáng với sự đóng góp đó. Giới nghiên cứu,
phê bình vẫn mải miết tìm kiếm, đào xới những thành tựu của văn chương
phương Bắc mà quên mất rằng Nam Bộ chính là vùng đất tiên phong trên con
đường đổi mới văn học giai đoạn đầu thế kỷ XX. Theo nhà nghiên cứu Đoàn
Lê Giang, sở dĩ có tình trạng ấy có lẽ vì một số nguyên do. Thứ nhất là do
thiên kiến, nhiều người vẫn cho rằng văn học quốc ngữ Nam Bộ không có giá
trị, tác phẩm của họ chỉ là sản phẩm giải trí mang tính bình dân. Thứ hai là
người cầm bút Nam Bộ ít chú trọng đến nghiên cứu phê bình văn học, vì vậy,
những thành tựu văn học Nam Bộ không được sưu tầm, phê bình và đánh giá
đúng mức. Thứ ba, có thể do hoàn cảnh lịch sử, những năm tháng chiến tranh
liên miên đã khiến việc nghiên cứu văn học Nam Bộ trở nên khó khăn. Và lý
do cuối cùng, tác giả Đoàn Lê Giang cho rằng có thể là do phong cách nghiên
cứu. Nhiều nhà nghiên cứu chỉ đề cao lý luận, phương pháp luận mà coi nhẹ tư
liệu và sự kiện trong khi đối với văn học Nam Bộ, việc quan trọng đầu tiên là
phải tìm kiếm tư liệu để đọc và suy nghĩ (Đoàn Lê Giang, 2009). Tuy nhiên,
điều đáng mừng là những năm gần đây, những nhà nghiên cứu vốn nặng lòng
với văn chương phương Nam đã nỗ lực vô cùng để trả lại cho văn học quốc
ngữ Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX những giá trị vốn có của nó.
2
Đến hôm nay, rất nhiều tác phẩm của các tác giả tiên phong cho văn học
Nam Bộ giai đoạn này đã được xuất bản. Những cái tên Hồ Biểu Chánh,
Nguyễn Chánh Sắt, Trương Vĩnh Ký, Manh Manh nữ sĩ… dần sống lại trong
đời sống văn học nước nhà. Không chỉ giới thiệu đến công chúng sáng tác văn
chương của họ, các nhà nghiên cứu, phê bình còn tập hợp được nhiều tư liệu
để giới thiệu chân dung và đánh giá về những đóng góp của các cây bút ấy. Vì
lẽ đó mà nhiều đời văn tưởng chừng đã bị lớp bụi thời gian phủ mờ thì nay đã
có cơ hội được ghi nhận xứng đáng. Thế nhưng, như những viên ngọc bị vùi
sâu dưới đáy biển, vẫn còn rất nhiều tác giả từng có những đóng góp quan
trọng cho lịch sử văn học Nam Bộ đang bị “mai danh ẩn tích” một cách bất đắc
dĩ. Dù rằng công nghệ hiện đại ngày nay có thể hỗ trợ khá nhiều cho việc kết
nối, chia sẻ thông tin nhưng cũng không thể phủ nhận những thử thách, khó
khăn trong công cuộc tìm kiếm. Thời gian càng trôi đi, những nhân chứng sống
càng gần đến lúc phải trở về với các bậc tiền nhân, sẽ có bao nhiêu tư liệu,
thông tin quý báu dần chìm vào quên lãng. Bên cạnh đó, việc lưu trữ tư liệu,
sách báo của những thập kỷ đầu thế kỷ XX đã chưa được chú trọng đúng mức
khiến nhiều tác phẩm văn chương dần mai một. Vì vậy, việc nghiên cứu văn
học quốc ngữ Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX thực sự đã trở thành một cuộc đua
với thời gian.
Như đã nói, theo thời gian, những tên tuổi từng lừng lẫy trên văn đàn
phương Nam một thời lần lượt được “chiêu tuyết”, trong đó có ba cây bút tiêu
biểu của “Hà Tiên tứ tuyệt” gồm: Đông Hồ, Mộng Tuyết, Trúc Hà. Nhân vật
cuối cùng, người em út của “Hà Tiên tứ tuyệt” chính là Lư Khê.
Lư Khê không phải là cây bút có những đóng góp thật xuất sắc cho văn
đàn Việt Nam bấy giờ, đời văn của ông cũng khá ngắn ngủi. Tuy nhiên, ông
gần như đã dành trọn cuộc đời mình cho những hoạt động báo chí và sáng tác
văn học. Vì vậy, nếu ví văn học quốc ngữ Nam Bộ đầu thế kỷ XX là một bức
3
tranh độc đáo thì đề tài nghiên cứu này sẽ bổ sung một mảnh ghép nhỏ vào
trong bức tranh lớn hãy còn dang dở bởi bao nhiêu mảnh ghép khác vẫn đang
loang lổ trống. Đó là lý do thứ nhất để chúng tôi chọn đề tài này.
Lý do thứ hai để tìm hiểu về Lư Khê là bởi ông là một trong những danh
sĩ của đất Hà Tiên – mảnh đất miền Nam hiền hòa nhưng không kém phần hào
hoa, tao nhã với Tao đàn Chiêu Anh Các, với Hà Tiên thập vịnh… Hà Tiên tứ
tuyệt gồm bốn người bạn thơ văn cùng chung chí hướng, thế nhưng, trong khi
Đông Hồ, Mộng Tuyết và cả Trúc Hà lần lượt được đánh giá, ghi nhận xứng
đáng với những đóng góp thì Lư Khê, nếu có được nhắc đến cũng chỉ ở vị trí là
chồng của Manh Manh nữ sĩ, một người phụ nữ tài hoa từng đăng đàn diễn
thuyết bênh vực cho Thơ mới. Thi thoảng ông cũng được nhắc đến dưới vai trò
là chủ bút của hai tờ báo Sự thật và Ánh sáng. Trong quyển Văn học quốc ngữ
trước 1945 thuộc bộ sách 100 câu hỏi về Gia Định – Sài Gòn, Thành phố Hồ
Chí Minh, tác giả Võ Văn Nhơn đã dành một số trang điểm qua vài nét về cuộc
đời Lư Khê (Võ Văn Nhơn, 2007). Vì vậy, với công trình nghiên cứu này,
chúng tôi mong muốn đời văn của Lư Khê sẽ được ghi nhận một cách xứng
đáng với vị trí người em út trong “Hà Tiên tứ tuyệt” nói riêng và với văn
chương phương Nam nói chung.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Lư Khê không phải là cái tên quen thuộc trên văn đàn Việt Nam, vì vậy,
khi thực hiện đề tài này, chúng tôi đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm
kiếm tài liệu. Hầu như không có một công trình nghiên cứu, một bài viết nào
đủ dày dặn về cây bút này. Từ một số thông tin có được, chúng tôi đã tìm về
Hà Tiên – mảnh đất quê hương ông.
Ở Hà Tiên, chúng tôi đã tìm đến người em trai của nhà văn Lư Khê, đồng
thời cũng là nhà nghiên cứu về Hà Tiên: học giả Trương Minh Đạt. Cụ Trương
Minh Đạt đã kể về những ngày thơ bé của Lư Khê, những năm tháng nhà văn
4
dạy học và làm chủ bút tờ nhật báo Ánh Sáng ở Sài Gòn cho đến thời điểm bị
ám sát. Câu chuyện này, cùng với mối tình đầy say đắm của nhà văn với nữ sĩ
Manh Manh đã được nhà Hà Tiên học ghi chép lại trong quyển sách Nghiên
cứu Hà Tiên. Trong bài viết “Những kỷ niệm sống với anh Lư Khê và chị Manh
Manh” của quyển sách này, Trương Minh Đạt đã nhắc đến việc Lư Khê là
người học sinh Hà Tiên đầu tiên tốt nghiệp bằng Thành chung, là chủ bút của
báo Sự thật và báo Ánh sáng.
Trong quyển “Văn học Nam Bộ từ đầu đến giữa thế kỷ XX (1900-1954)”
của các tác giả Hoài Anh, Thành Nguyên, Hồ Sĩ Hiệp, ở phần một, chương 1,
khi đề cập đến bối cảnh xã hội và tình hình văn học thời kỳ 1930 – 1939, các
tác giả có nhắc đến những bài thơ mang hơi hướng lãng mạn của Đông Hồ,
Mộng Tuyết, cuộc diễn thuyết của Manh Manh nữ sĩ, thơ của Hồ Văn Hảo và
không có dòng nào nhắc đến người em út của Hà Tiên tứ tuyệt. Tác giả Hoài
Anh, trong quyển Những danh sĩ miền Nam viết cùng Hồ Sĩ Hiệp đã lần lượt
điểm qua và ghi nhận những đóng góp của các danh sĩ mảnh đất phương Nam
vào nền văn học quốc ngữ Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX, trong đó chỉ nhắc đến
một nhân vật của đất Hà Tiên là Mạc Thiên Tích – chủ xướng Tao đàn Chiêu
Anh Các chứ không đề cập đến Lư Khê hay ba nhân vật còn lại của Hà Tiên tứ
tuyệt.
Tác phẩm Tinh tuyển Văn học Việt Nam do giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh
chủ biên, tập viết về Văn học Việt Nam giai đoạn 1900 – 1945 (tập 7), phần
khái quát có nhắc đến những giá trị văn học Nam Bộ, vai trò tiên phong của
văn học Nam Bộ và có kể tên vài cây bút tiêu biểu của phương Nam như Đông
Hồ, Hồ Biểu Chánh, Sơn Vương, Phú Đức…. và tuyệt nhiên không nhắc đến
Lư Khê.
Năm 2007, Nhà xuất bản Văn học xuất bản 4 tập của quyển Văn học Việt
Nam nơi miền đất mới của tác giả Nguyễn Q. Thắng. Ở tập 3, chương VIII, tác
5
giả có điểm qua vài nét về thân thế của Lư Khê – nhà “thơ mới” đất Phương
Thành và một số tác phẩm tiêu biểu của Lư Khê đã được in trên các báo.
Trong quyển Nữ sĩ Manh Manh, hai tác giả Thanh Việt Thanh, Thiện
Mộc Lan có dành vài dòng nhắc đến nhà văn Lư Khê trong vai trò là chồng của
Manh Manh nữ sĩ: “…chồng cô cũng là một nhà thơ tên Trương Tuấn Cảnh,
bút hiệu Lư Khê, quê quán ở Hà Tiên…”
Tác giả Trương Võ Anh Giang khi viết sách Dương Tử Giang, cuộc đời
và sự nghiệp đã có đôi dòng nhắc đến Lư Khê. Tác giả ghi nhận: “Trương Văn
Em, tức Lư Khê, sinh ngày 5-2-1916 tại Thuận Yên, con trai của Trương Văn
Huynh và Trần Thị Chính. Giáo sư, công tác viên chủ yếu của tờ Tân Việt.”
Trong quyển sách Văn chương phương Nam – một vài bổ khuyết viết
cùng tác giả Nguyễn Thị Phương Thúy, tác giả Võ Văn Nhơn đã điểm qua vài
nét chính về cuộc đời và tác phẩm của Lư Khê – người em út của “Hà Tiên tứ
tuyệt”. Theo đó, tác giả cho rằng ngoài việc là chủ bút của 2 tờ báo Sự thật và
Ánh sáng, Lư Khê còn cộng tác cho các tờ báo: Sống, Nữ lưu tuần báo, Thế
giới tân văn, Văn nghệ, Nay, Tự do, Đông Tây, Gió mùa…
Không viết trực tiếp về Lư Khê nhưng trong quyển Thơ mới Những
chuyện chưa bao giờ cũ của PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn, khi viết về thi sĩ Đông
Hồ, tác giả có dẫn lại vài dòng nhận xét về Đông Hồ trong bài Thi sĩ đăng trên
Lục tỉnh tân văn của Lư Khê (Nguyễn Hữu Sơn, 2017)
Như vậy, đôi nét chính về thân thế và hoạt động báo chí, sự nghiệp văn
học của nhà văn Lư Khê đã dần hiện ra qua các quyển sách được kể trên. Bên
cạnh đó, một số bài báo của các tác giả khác cũng có đề cập đến Lư Khê và vai
trò của nhà văn trên văn đàn văn học quốc ngữ Nam Bộ đầu thế kỷ XX.
Tác giả Đoàn Lê Giang, trong bài viết Văn học Nam Bộ 32-45: Cái nhìn
toàn cảnh, khi ghi nhận những đóng góp của nhóm Hà Tiên đã nhắc đến Lư
Khê như là một thành viên của cả hai nhóm: nhóm Hà Tiên và nhóm Phụ nữ
6
tân văn. Tác giả cho rằng “Phút thoát trần của ông thì đúng là phong cách Trí
Đức học xá – nghĩa là “văn Nam phong”; nhưng đồng thời cũng có thể xếp
ông vào nhóm Phụ nữ tân văn cũng được, với hơi hướng “văn Tây” và tư
tưởng khai phóng mà mấy bài thơ Riêng tặng K. bạn tôi, Nhủ nhau cho thấy
rất rõ.”
Trong bài viết Nhật báo Ánh sáng, Hoàng Hải Thủy – nhà văn, cũng là
phóng viên từng làm việc cho nhật báo Ánh sáng – ghi nhận: “…ông Lư Khê là
một nhà văn viết nhiều tác phẩm biên khảo văn thơ bằng văn Pháp, một việc
mà tôi thấy dường như chưa có ông chủ báo Sài Gòn nào làm được.”
Trên trang tuoitre.vn, ngày 19-6-2015, tác giả Trần Nhật Vy viết bài
Phong trào Báo chí thống nhứt. Theo tác giả, phong trào Báo chí thống nhứt là
“phong trào của báo giới Sài Gòn công khai chống thuyết phân ly, ủng hộ
kháng chiến, đòi hỏi nước Việt Nam là một, ủng hộ chính phủ Hồ Chí Minh.”
và nhật báo Ánh sáng của Lư Khê Trương Văn Em là một tờ báo như vậy.
Mọi nguồn tin về cuộc đời và sự nghiệp Lư Khê mà chúng tôi tìm hiểu
được chỉ có thế. Mặt khác, về tác phẩm của Lư Khê, ngoài vài bài thơ được gia
đình tác giả cung cấp, chúng tôi đã bắt đầu bằng việc đến với các thư viện
Khoa học Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, thư viện Khoa học Xã hội TP Hồ Chí
Minh, lần giở lại từng tờ báo được cho rằng khi xưa Lư Khê đã viết bài cộng
tác. Cho đến thời điểm này, chúng tôi đã tìm thấy tập tản văn Phút thoát trần
và một số sáng tác của Lư Khê đăng rải rác trên các báo Sống, Thế giới tân
văn, Nữ lưu tuần báo, Gió mùa, Tự do…
Với tình hình tài liệu và lịch sử nghiên cứu vấn đề như trên, chúng tôi
không có tham vọng khái quát một cách vừa trọn vẹn, vừa cụ thể sự nghiệp của
văn sĩ đất Hà Tiên này, tuy nhiên, chúng tôi mong muốn, dù rằng vẫn còn
khoảng trống khi viết về văn nghiệp của Lư Khê thì những gì chúng tôi tìm
được vẫn có thể đóng góp thêm cho việc tìm hiểu về văn chương quốc ngữ
7
Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX nói chung và người em út Hà Tiên tứ tuyệt nói
riêng.
Đó cũng chính là tấm lòng của kẻ hậu sinh đối với người đã khuất.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài luận văn là sự nghiệp văn học của Lư Khê, vì vậy, bên cạnh việc cố
gắng tái hiện một cách chân thật nhất có thể về cuộc đời tác giả; chúng tôi sẽ
tập trung vào việc sưu tầm, tìm hiểu, nghiên cứu những tác phẩm của Lư Khê
với sự đa dạng về thể loại như thơ, tản văn, phóng sự, nghiên cứu phê bình…
4. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, luận văn đã sử dụng một số phương pháp sau:
4.1. Phương pháp thống kê
Phương pháp thống kê là phương pháp được vay mượn từ ngành khoa học
chuyên biệt của toán học: đó là ngành thống kê học. Trong nghiên cứu văn
học, thống kê là một phương pháp phụ trợ rất có hiệu quả để làm tăng sức
thuyết phục cho những kết luận có thể rút ra được từ các phương pháp khác.
Khi đã có được những tác phẩm của nhà văn Lư Khê, phương pháp thống kê là
phương pháp cần thiết giúp chúng tôi có thể thống kê, phân loại các sáng tác
của tác giả theo hệ thống thể loại, đề tài, những sáng tạo trong ngôn ngữ, từ đó
sẽ dễ dàng có được cái nhìn tổng quát, khách quan về những đóng góp của Lư
Khê đối với văn học Nam Bộ nói riêng và văn học Việt Nam nói chung.
4.2. Phương pháp nghiên cứu lịch sử - xã hội
Tìm hiểu văn nghiệp của một nhà văn, không thể nào không đặt nhà văn
ấy trong bối cảnh thời đại. Với Lư Khê cũng vậy. Chính vì thế, chúng tôi đã sử
dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử - xã hội để qua đó có thể thấy được
những biến đổi thăng trầm của đất nước, đặc biệt là của vùng đất Nam Bộ
trong nửa đầu thế kỷ XX, đã ảnh hưởng đến đời văn của người em út của Hà
Tiên tứ tuyệt như thế nào.
8
4.3. Phương pháp so sánh
Để nhìn rõ hơn đóng góp của Lư Khê đối với Hà Tiên tứ tuyệt cũng như
đối với văn học Nam Bộ, chúng tôi đặt những tác phẩm của ông trong sự so
sánh đối chiếu với các sáng tác của ba nhân vật Hà Tiên tứ tuyệt còn lại; với
các nhà thơ Nam Bộ cùng thời. Việc so sánh này không nhằm phân ngôi thứ
cao thấp, hoặc ngợi ca hoặc chê bai một chiều mà nhằm để thấy được giá trị
tác phẩm, đặc trưng phong cách của Lư Khê cũng như của các tác giả khác, từ
đó khẳng định được vị trí của từng người trong đời sống văn học Nam Bộ lúc
bấy giờ.
4.4. Phương pháp thi pháp học
Phương pháp này giúp người viết đi sâu tìm hiểu và có thể lý giải các
nguồn thi hứng căn bản cũng như những dấu ấn riêng trong thi pháp của tác
giả.
5. Đóng góp của luận văn
Thực hiện đề tài này, chúng tôi đã bước đầu khảo sát một cách hệ thống
và tương đối đầy đủ về cuộc đời và văn nghiệp của Lư Khê, góp phần giới
thiệu những đóng góp của tác giả đối với tiến trình phát triển của văn học Nam
Bộ nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Bên cạnh đó, công trình này
cũng có thể được xem như là một trong những nguồn tài liệu phục vụ cho việc
nghiên cứu, tìm hiểu về nhà văn Lư Khê cũng như về văn học chữ quốc ngữ ở
Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, đề tài gồm có
3 chương:
Chương 1: Khái quát văn học Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX và cuộc đời –
sự nghiệp của Lư Khê.
9
Chương 2: Thơ Lư Khê trên thi đàn Thơ mới Nam Bộ. Tìm hiểu về
những cảm hứng chính trong thơ Lư Khê và ghi nhận vị trí thơ Lư Khê trong
phong trào Thơ mới Nam Bộ.
Chương 3: Văn xuôi Lư Khê. Ghi nhận những đóng góp của Lư Khê
trong các thể loại: Tản văn, phóng sự, khảo cứu, phê bình…
10
Chương 1
LƯ KHÊ – CUỘC ĐỜI VÀ VĂN NGHIỆP
1.1. Cuộc đời
1.1.1. Quê hương
Lư Khê tên thật là Trương Văn Em, sinh ngày 20.1.1916 tại xã Thuận
Yên, tỉnh Hà Tiên, nay là thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Tuy được “sinh sau
đẻ muộn” nhưng vùng đất cực Tây Nam Tổ quốc này lại chứa đựng trong nó
biết bao điều kỳ diệu.
Hà Tiên ngày nay là một thị xã vùng biên xinh xắn, thơ mộng, hiền hòa.
Thế nhưng thuở xa xưa, đây là vùng đất vốn thuộc vương quốc Phù Nam,
trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh, Hà Tiên trở thành phủ Sài Mạt của Chân
Lạp. Từ giữa thế kỷ XVII, những lưu dân người Việt và người Hoa đã đến
vùng này để sinh sống, tuy nhiên, công lao khai phá mảnh đất này thuộc về hai
cha con Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích. Mạc Cửu vì lánh nạn nhà Thanh mà
chạy sang Sài Mạt, được vua Chân Lạp phong chức và cho cai quản vùng này,
phát triển buôn bán làm cho mảnh đất mỗi ngày mỗi thêm trù phú. Đến năm
1708, Mạc Cửu thần phục chúa Nguyễn Phúc Chu và từ đó vùng đất này thuộc
về Việt Nam.
Địa danh Hà Tiên cũng chỉ xuất hiện từ năm 1708, trước đó, vùng đất này
được biết đến với tên gọi Tà Ten. Tà có nghĩa là sông, theo cách gọi của người
Khmer xưa và Ten là tên của con sông. Về sau này chữ Tà được đổi là Hà và
Ten biến thành Tiên.
Có thể nói lịch sử Hà Tiên là lịch sử của một vùng đất khẩn hoang, đồng
thời, vì là vùng biên ải nên mảnh đất còn là lịch sử của những cơn binh biến
dai dẳng trải nhiều thế kỷ. Quá trình hình thành và phát triển độc đáo như vậy
nên mảnh đất này đã làm nhiều người say mê với biết bao huyền thoại, từ
11
chuyện các nàng tiên xuất hiện trên sông Giang Thành, đào được hũ bạc đến
bức tượng Phật và ánh sáng huyền bí ở đầm Trũng Kẽ báo hiệu sự ra đời của
Mạc Thiên Tích (Hồ Sĩ Hiệp và Hoài Anh, 1990); từ truyền thuyết hòn Phụ Tử
với hai cha con nhà chài lưới diệt thuồng luồng cứu dân lành để rồi khi chết
hóa thành hai hòn đá trông về phía biển đến câu chuyện Thạch Sanh quen
thuộc cũng được người dân nơi đây khẳng định là xuất phát từ vùng đất này
với những chứng tích vẫn còn đến hôm nay như Thạch Động, Châu Nham...
Không chỉ có thế, Hà Tiên còn là một dải đất với địa hình đa dạng như: vũng,
vịnh, đồng bằng, đồi núi, sông rạch, hang động, hải đảo… Sự phong phú trong
cảnh quan này đã được thi sĩ Đông Hồ đề cập đến trong quyển Văn học Hà
Tiên: “Có một ít hang sâu động hiểm của Lạng Sơn. Có một ít ngọn đá chơi
vơi giữa biển của Hạ Long. Có một ít núi vôi của Ninh Bình, một ít thạch thất
sơn môn của Hương Tích. Có một ít Tây Hồ, một ít Hương Giang. Có một ít
chùa chiền của Bắc Ninh, lăng tẩm của Thuận Hoá. Có một ít Đồ Sơn Cửa
Tùng, một ít Nha Trang Long Hải. Ở đây không có một cảnh nào to lớn đầy
đủ, ở đây cảnh nào cũng chỉ nhỏ nhắn xinh xinh, mà cảnh nào cũng có (…)
Chính cũng nhờ những tính cách đặc thù đó của danh thắng, mà Hà Tiên là
một miếng đất màu mỡ cho hạt giống văn chương, văn học dễ phát sinh.”
(Đông Hồ, 1970).
Nét thơ mộng, cảnh sắc đa dạng của vùng đất phía Tây Nam này đã khiến
Mạc Thiên Tích sáng tác Hà Tiên thập cảnh vịnh và Hà Tiên thập cảnh tổng
vịnh.
Mười cảnh Hà Tiên rất hữu tình
Non non nước nước gẫm nên xinh
Đông hồ Lộc trĩ luôn dòng chảy,
Nam phố Lư khê một mạch xanh
Tiêu tự Giang thành chuông trống ỏi,
12
Châu Nham Kim dữ cá chim quanh.
Bình san Thạch động là rường cột,
Sừng sựng muôn năm cũng để dành.
(Trương Minh Đạt, 2017)
Thế nhưng, Hà Tiên đâu chỉ có một lịch sử hình thành độc đáo, đâu chỉ có
cảnh quan làm say lòng người, Hà Tiên còn được biết đến bởi đời sống văn
chương vô cùng sôi động. Văn học Hà Tiên đã bắt đầu và dần nổi tiếng với tao
đàn Chiêu Anh Các do Mạc Thiên Tích sáng lập năm Bính Thìn 1736. Đây
được xem là một thành tựu rực rỡ của Mạc Thiên Tích trong quá trình xây
dựng và phát triển vùng đất Hà Tiên. “Chiêu Anh Các”, nghĩa là gác mời
những người tài hoa đến để đàm đạo và xướng họa thơ văn, và quả thật, tao
đàn Chiêu Anh Các đã quy tụ được hơn 37 người tham gia gồm cả người Việt
và người Minh Hương (người Hoa nhập cư), họ không chỉ bàn luận chuyện
văn chương mà còn truyền bá Nho học, đàm đạo thao lược. Đồng thời, Chiêu
Anh Các còn là một nhà nghĩa học, dạy học trò không lấy học phí. Đến nay,
những tài liệu cũng như sáng tác của tao đàn Chiêu Anh Các đã thất lạc rất
nhiều, hiện chỉ còn ba tập thơ: Hà Tiên thập vịnh gồm 320 bài thơ do Mạc
Thiên Tích thủ xướng; Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh bằng thơ Nôm của Mạc
Thiên Tích; Minh Bột di ngư thi thảo gồm thi và phú chữ Hán cũng của Mạc
Thiên Tích. Những sáng tác này còn lưu giữ đến ngày nay cho thấy nội dung
chủ yếu là ca ngợi thiên nhiên tươi đẹp của vùng đất Hà Tiên.
Năm 1771, Hà Tiên bị quân Xiêm đánh chiếm, Mạc Thiên Tích phải chạy
về Gia Định, tao đàn Chiêu Anh Các cũng theo đó mà tan rã. Dù tồn tại trong
một khoảng thời gian không dài nhưng “tao đàn Chiêu Anh Các là một hiện
tượng văn hóa mới xuất hiện ở một vùng đất mới. Xét trên phương diện nghệ
thuật, những thành tựu của Tao đàn Chiêu Anh Các không mấy thua kém văn
học Đàng Ngoài lúc ấy đang hồi phát triển rực rỡ nhất…” (Hà Thanh Vân,
13
1999). Có lẽ, về sau, việc Đông Hồ mở Trí Đức học xá cũng chính là sự nối
tiếp con đường mà Mạc Thiên Tích đã khai phá, chứ không hẳn chỉ là học tập
thi hào Ấn Độ Tagore với trường học Satiniketan (Xứ sở bình yên) như nhiều
người vẫn nghĩ.
Lư Khê đã được sinh ra và lớn lên trên một vùng thiên nhiên trù phú,
phóng khoáng, thơ mộng đó. Mảnh đất này như một mạch ngầm nuôi dưỡng,
hun đúc nên tâm hồn và văn chương Lư Khê. Điều này thật dễ nhận thấy qua
những trang viết cũng như qua bút danh của tác giả.
1.1.2. Thân thế
Qua thông tin do ông Trương Minh Đạt – người em duy nhất của nhà văn
Lư Khê hiện đang còn sống cung cấp thì tác giả sinh ngày 20.1.1916 tại xã
Thuận Yên, Hà Tiên. Lúc nhỏ được gọi tên là Đệ. Ông lớn lên trong một gia
đình nông dân nghèo khổ, cha là ông Trương Văn Huynh, làm nghề đánh cá
vược – loài cá ngon nổi tiếng; mẹ là bà Trần Thị Chính, nông dân. Lư Khê là
anh cả trong gia đình có 5 anh chị em. Ba người em của ông là Trương Văn
Vinh, Trương Mỹ Huê, Trương Minh Hiển đều đã mất, chỉ có ông Trương
Minh Đạt vẫn còn sống và là nhà nghiên cứu về Hà Tiên có uy tín trong giới
học thuật.
Thuở nhỏ, Lư Khê cùng gia đình sống ở rạch Lư Khê, xóm Rạch Vược.
Con rạch này vốn có hai nhánh trổ, một nhánh ra biển, một nhánh thông với
vàm Đông Hồ, nơi hợp lại của hai dòng nước tạo thành một ao rộng, nước
trong vắt và là nơi loài cá vược tụ tập rất nhiều, len lỏi qua các núi Nhọn, núi
Ông Đội và núi Nhỏ tạo thành cảnh quan kỳ thú. Có lẽ phong cảnh hữu tình đó
đã là thi tứ cho Mạc Thiên Tích viết Lư Khê ngư bạc xưa kia. Và đó cũng là lý
do mà người em út của Hà Tiên tứ tuyệt chọn Lư Khê làm bút hiệu. Bên cạnh
đó, ông còn có bút hiệu khác là Trương Tuấn Cảnh, Bá Âm. Bút hiệu Trương
Tuấn Cảnh, theo lời ông Trương Minh Đạt, là bút hiệu mà Trương Văn Em
14
dùng khi sáng tác Vịnh cảnh Hà Tiên của Tuấn Cảnh. Đây là 10 bài vịnh họa
lại Hà Tiên thập cảnh của Mạc Thiên Tích, tuy nhiên tác phẩm này đã bị thất
lạc.
Hoàn cảnh sống của gia đình khá vất vả, thân sinh của Lư Khê cũng
không ai được đi học, có lẽ vì thấm thía với những nhọc nhằn khi không được
học hành nên dù khó khăn thiếu thốn, cha mẹ Lư Khê vẫn luôn cố gắng chăm
lo cho các con ăn học chu đáo. Học tiểu học ở Hà Tiên, lên bậc trung học Lư
Khê học ở Cần Thơ. Ông là người Hà Tiên đầu tiên tốt nghiệp Thành chung tại
trường Collège de Cần Thơ.
Từ 1935, Lư Khê lên Sài Gòn dạy học và viết báo. Ông dạy Việt văn ở
trường trung học Huỳnh Khương Ninh, Đồng Nai; hợp tác cùng Mộng Tuyết,
Trúc Hà viết báo Sống do Đông Hồ làm chủ bút. Trong khoảng thời gian này,
nhà thơ gặp gỡ và đem lòng si mê đắm đuối cô Nguyễn Thị Kiêm – chính là
Manh Manh nữ sĩ đã lừng lẫy danh tiếng trên thi đàn Thơ mới lúc bấy giờ.
Trước sự tài hoa và nổi tiếng của cô gái trẻ lúc ấy, để không thua kém, “Lư
Khê hăng hái hoạt động văn chương và xem nữ sĩ như hồng nhan tri kỷ”
(Thẩm Thệ Hà, 1998). Giai đoạn này Lư Khê sáng tác nhiều bài thơ gởi tặng
Manh Manh nữ sĩ. Cuối cùng, nhà thơ cũng chiếm được trái tim của người đẹp
và ngày 11-11-1937, họ đã thành hôn với nhau. Cuộc hôn nhân này được mọi
người trong làng báo nhiệt liệt ủng hộ, nhà báo Diệp Văn Kỳ còn được anh em
ký giả “giao nhiệm vụ” viết một bài thơ để mừng cưới với lời thơ dí dỏm:
Làng báo anh em đặng thiệp mời
Bàn tính cùng nhau kiếm một người
Thay mặt toàn thể đọc lời chúc
Túng đường họ phải chọn thằng tôi
Ra đi họ căn dặn:
Nói năng phải nhã nhặn
- Xem thêm -