Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Sự có mặt của điều tra viên tại phiên toà theo luật tố tụng hình sự việt nam (lu...

Tài liệu Sự có mặt của điều tra viên tại phiên toà theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

.DOC
51
1
114

Mô tả:

MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................1 CHƢƠNG 1. SỰ CẦN THIẾT TRIỆU TẬP ĐIỀU TRA VIÊN ĐẾN PHIÊN TOÀ XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ..........................................................................5 1.1. Vấn đề nhận thức và quy định của pháp luật tố tụng hình sự về sự cần thiết triệu tập Điều tra viên đến phiên tòa........................................................5 1.1.1. Mục đích, ý nghĩa của quy định về triệu tập Điều tra viên đến phiên tòa 5 1.1.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về sự cần thiết triệu tập Điều tra viên đến phiên tòa..............................................................................7 1.2. Những vƣớng mắc, bất cập trong việc áp dụng quy định của pháp luật về sự cần thiết triệu tập Điều tra viên đến phiên toà........................................8 1.2.1. hực ti n thực hiện quy định của luật tố tụng hình sự về c c tr ng h p triệu tập Điều tra viên đến phiên tòa................................................................8 1.2.2. Phân tích, đ nh gi một số tr ng h p cần thiết triệu tập Điều tra viên đến phiên tòa.................................................................................................. 12 1.2.3. r ng h p triệu tập nh ng Điều tra viên không đến phiên tòa và c ch xử lý của Hội đồng xét xử............................................................................... 16 1.2.4. Nguyên nhân của nh ng h n chế, v ng m c trong việc thực hiện quy định của luật tố tụng hình sự về c c tr ng h p Điều tra viên đ c triệu tập đến phiên tòa.................................................................................................. 18 1.3. Kiến nghị đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về sự cần thiết triệu tập Điều tra viên đến phiên toà .......................................... 19 1.3.1. Kiến nghị hoàn thiện quy định cụ thể c c tr ng h p đ c xem là cần thiết để triệu tập Điều tra viên đến phiên tòa ................................................. 19 1.3.2. Sửa đổi, bổ sung Điều 296 và Điều 297 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ................................................................................................................. 22 1.3.3. Kiến nghị giải ph p hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện quy định của ph p luật triệu tập Điều tra viên tham dự phiên tòa ................. 23 Kết luận Chƣơng 1 ................................................................................................. 25 CHƢƠNG 2. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA ĐIỀU TRA VIÊN KHI THAM GIA PHIÊN TÒA.......................................................................................................... 27 2.1. Quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của Điều tra viên có mặt tại phiên toà............................................................................................................ 27 2.1.1. c ch ph p lý của Điều tra viên.......................................................... 27 2.1.2. Quyền và nghĩa vụ của Điều tra viên khi tham gia phiên tòa...............31 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc xác định tƣ cách pháp lý của Điều tra viên khi tham gia tố tụng tại phiên toà và nguyên nhân của những hạn chế, vƣớng mắc.......................................................................................... 33 2.2.1. hực ti n p dụng ph p luật x c định t c ch tố tụng của Điều tra viên t i phiên tòa..................................................................................................... 33 2.2.2. Nguyên nhân của nh ng h n chế, v ng m c trong thực ti n tham gia tố tụng của Điều tra viên t i phiên tòa............................................................ 37 2.3. Giải pháp, kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của Điều tra viên khi tham gia phiên toà............................37 2.3.1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015....38 2.3.2. Ban hành thông t liên tịch h ng dẫn................................................. 40 Kết luận Chƣơng 2............................................................................................... 42 KẾT LUẬN............................................................................................................ 44 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Một trong những điểm mới, quan trọng về việc tham gia phiên toà của các cơ quan, tổ chức của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đó chính là quy định sự có mặt của Điều tra viên trong quá trình xét xử vụ án hình sự (tại Điều 296), đây là quy định mới thể hiện nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, bảo đảm quyền tranh tụng tại phiên toà công khai. Việc triệu tập Điều tra viên đến phiên toà giúp cho Hội đồng xét xử nhận định đúng đắn bản chất khách quan của vụ án, giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng có thể khắc phục, sửa đổi, bổ sung kịp thời các vấn đề có liên quan đến vụ án ngay tại phiên toà. Thực tiễn xét xử tại một số toà án đến thời điểm này cho thấy, tại các phiên tòa, khi có bị cáo thay đổi lời khai vì cho cho rằng bị ép cung, bức cung hoặc có ý kiến cho rằng việc thu thập tài liệu, chứng cứ không hợp pháp… thì việc Điều tra viên có mặt tại phiên tòa công khai, lý giải, làm rõ và bảo vệ tính hợp pháp của hành vi tố tụng, quyết định tố tụng mà mình đã tiến hành đã “khuất phục” được bị cáo và thuyết phục dư luận. Tuy nhiên, kể t khi ộ uật tố tụng h nh sự năm 2015 có hiệu ực thi hành đến nay, thực tiễn áp dụng quy định n y đã phát sinh nhiều vấn đề bất cập như: Trường hợp nào là được xem là cần thiết phải triệu tập Điều tra viên có mặt tại phiên toà; địa vị pháp lý (tư cách), quyền và nghĩa vụ của Điều tra viên tại toà là gì; triệu tập mà Điều tra viên không tham dự thì hình thức, chế tài xử lý ra sao; tư thế, tác phong và vị trí của Điều tra viên tại phiên toà như thế n o… Những vấn đề trên đến nay chưa có văn bản của cấp có thẩm quyền hướng dẫn cụ thể. V những lý do trên tác giả đã ựa chọn đề t i, tác giả chọn đề tài “Sự có mặt của Điều tra viên tại phiên toà theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” để làm đề tài uận văn thạc sỹ uật học. Qua đó góp phần ho n thiện các quy định của pháp uật tố tụng h nh sự v giúp cho thực tiễn công tác của bản thân. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Việc tham gia của Điều tra viên có mặt tại phiên toà xét xử vụ án hình sự được đề cập, quy định tại Điều 296 ộ uật tố tụng h nh sự năm 2015, quy định mới so với ộ uật tố tụng h nh sự năm 2003, đã được một số tác giả nghiên cứu, đưa ra quan điểm đánh giá nhận xét và kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp uật. Tuy nhiên, đến nay hầu như chưa có tài iệu, công trình nào đi sâu nghiên 2 cứu, đánh giá một cách toàn diện về mặt thực tiễn để chỉ ra các nguyên nhân, những tồn tại, vướng mắc và qua đó đề xuất giải pháp hoàn thiện vấn đề n y. hỉ có một số b i tham uận, nghiên cứu và một số b i báo viết về một số vụ án do T a án x t xử có triệu tập Điều tra viên tham dự phiên tòa như: - Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật 1 Thành phố Hồ Chí Minh . Do đây là giáo trình đ o tạo bậc đại học nên chỉ nêu quy định chung về việc triệu tập Điều tra viên và những người khác đến phiên tòa. Tuy nhiên, đây là tài iệu mang tính chất nền tảng trong quá trình tác giả thực hiện uận văn. - Tài iệu tập huấn ớp bồi dưỡng kỹ năng tham dự phiên tòa của Điều tra viên trong Công an nhân dân, của Học viện ảnh sát nhân dân biên soạn năm 2020. Đây là tài iệu hệ thống các bài viết nghiên cứu, tổng kết, đánh giá, đóng góp ý kiến của các nhà khoa học, những các bộ thực tiễn trong và ngoài ngành Công an nhân dân về những vấn đề có liên quan đến hoạt động tham dự phiên tòa của Điều tra viên. Vì vậy đây là nguồn tham khảo hữu ích cho tác giả khi làm uận văn. - Một số bài báo khoa học được đăng trên trang thông tin điện tử của cơ quan tư pháp trung ương như Viện kiểm sát nhân dân tối cao, tạp chí Tòa án nhân dân. Qua nghiên cứu, các bài báo khoa học này đều được viết bởi những người làm công 2 tác thực tiễn , nên nội dung về thực tiễn nhiều, đa dạng và phong phú. Vì vậy, đây cũng là nguồn tham khảo hữu ích khi thực hiện uận văn. - Một số bài báo đưa tin về diễn biến tại phiên tòa có triệu tập Điều tra viên tham dự phiên tòa. Đây là nguồn tài iệu tương đối quan trọng nên được tác giả viện dẫn trong quá trình làm uận văn. Các tham uận, kiến, giáo trình v những b i báo nêu trên, phần nào đã thể hiện những quan điểm v nêu lên những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn. Đây là 1 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Võ Thị Kim Oanh, NXB Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam. 2 Ho ng Đ nh Duyên (2019), “Về triệu tập Điều tra viên đến phiên t a”, T p chí Tòa án nhân dân, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/ve-trieu-tap-dieu-tra-vien-den-phien-toa. Truy cập ngày 30/4/2021. Nguyễn Hải ằng (2019), “Thực tiễn Điều tra viên tham dự phiên t a – Một số đề xuất, kiến nghị”, p chí Tòa án nhân dân, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/thuc-tien-dieu-tra-vien-tham-du-phien-toa-mot-sode-xuat-kien-nghi. truy cập ng y 20/4/2021. Lê Minh Long (2019), “Bàn về việc tham gia của Điều tra viên khi đ c triệu tập đến phiên tòa xét xử các vụ án hình sự”, https://kiemsat.vn/ban-ve-viec-tham-gia-cua-dieu-tra-vien-khi-duoc-trieu-tap-den-phien-toaxet-xu-cac-vu-an-hinh-su-51923.html, truy cập ngày 27/3/2021. 3 nguồn tài iệu tham khảo có giá trị giúp cho tác giả xây dựng và hoàn thiện các ý tưởng khoa học trong quá trình nghiên cứu đề tài này. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích, đánh giá những bất cập, vướng mắc khi áp dụng quy định về triệu tập Điều tra viên đến phiên t a của uật tố tụng h nh sự, đề tài sẽ đưa ra những đề xuất, kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện một số quy định của pháp uật tố tụng hình sự liên quan đến việc tham gia phiên toà xét xử vụ án hình sự của Điều tra viên. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, đề tài đặt ra và giải quyết những nhiệm vụ cụ thể sau: - Làm rõ sự cần thiết và địa vị pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn của Điều tra viên tham gia phiên toà xét xử vụ án hình sự. - Trình bày và nhận xét, đánh giá các quy định của pháp uật tố tụng hình sự về việc tham gia phiên toà của Điều tra viên và thực tiễn áp dụng. - Đưa ra các giải pháp, kiến nghị đề xuất cụ thể nhằm sửa đổi, bổ sung một số quy định của uật tố tụng hình sự về sự có mặt của Điều tra viên tại phiên tòa. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là một số vấn đề về lý uận, các quy định của ộ uật tố tụng hình sự năm 2015 và thực tiễn áp dụng pháp uật tố tụng hình sự về việc triệu tập Điều tra viên tham dự đến phiên t a h nh sự theo quy định của 296 ộ uật tố tụng h nh sự năm 2015. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung Luận văn tập trung hai vấn đề: (1) Sự cần thiết có mặt của Điều tra viên tham dự phiên toà; (2) Địa vị pháp lý của Điều tra viên khi tham gia phiên toà sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm vụ án hình sự. - Về thời gian Luận văn nghiên cứu khảo sát thực tiễn áp dụng pháp uật tố tụng hình sự về việc triệu tập Điều tra viên tham dự phiên t a h nh sự t năm 2017 đến năm 2021 (khi hoàn thành uận văn). 4 - Về không gian Luận văn nghiên cứu một số vụ án hình sự có triệu tập Điều tra viên tham dự phiên tòa của toà án các cấp trong cả nước. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp uận duy vật biện chứng của hủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm; về công tác cải cách tư pháp. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: Phương pháp phân tích, tổng hợp trong uận văn nhằm làm rõ những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp uật tố tụng hình sự về việc triệu tập Điều tra viên tham dự phiên t a h nh sự; Phương pháp nghiên cứu thực tiễn xét xử các vụ án hình sự có triệu tập Điều tra viên tham dự phiên toà, trên cơ sở đó có đánh giá vướng mắc, bất cập theo quy định của pháp uật liên quan đến vấn đề này. Bên cạnh đó, phương pháp so sánh cũng được tác giả sử dụng để làm rõ những điểm giống và khác nhau về tư cách tham gia tố tụng của Điều tra viên tại phiên t a. 6. Dự kiến các kết quả nghiên cứu và địa ch ứng dụng các kết quả nghiên cứu Đề tài nghiên cứu thực tiễn và đưa ra các giải pháp dưới dạng đề xuất kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của ộ uật tố tụng hình sự năm 2015 và kiến nghị ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng pháp uật một cách tương đối có hệ thống và đầy đủ về quy định triệu tập Điều tra viên tham dự phiên t a h nh sự. Ngoài ra, đề tài có thể làm tài iệu tham khảo cho các nhà khoa học, các học viên cao học... chuyên ngành uật và các Luật sư, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Thẩm phán… trong nghiên cứu và công tác thực tiễn. 7. Bố cục của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục, nội dung của luận văn được kết cấu thành 02 chương như sau: Chƣơng 1. Sự cần thiết triệu tập Điều tra viên đến phiên tòa xét xử vụ án hình sự. Chƣơng 2. Địa vị pháp lý của Điều tra viên khi tham gia phiên toà. 5 CHƢƠNG 1 SỰ CẦN THIẾT TRIỆU TẬP ĐIỀU TRA VIÊN ĐẾN PHIÊN TOÀ XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ hương này của uận văn được chia thành ba phần để làm rõ các nội dung sau: hứ nhất, Quy định của pháp uật về sự cần thiết triệu tập Điều tra viên đến phiên tòa xét xử vụ án hình sự. Phần này làm rõ mục đích, ý nghĩa của quy định sự có mặt của Điều tra viên tại phiên tòa; nội dung quy định của ộ uật tố tụng hình sự năm 2015 về sự cần thiết triệu tập Điều tra viên tham dự phiên tòa xét xử vụ án hình sự. hứ hai, Phần này phân tích thực tiễn các trường hợp cụ thể triệu tập Điều tra viên tham dự phiên tòa; sự cần thiết triệu tập Điều tra viên tham dự phiên tòa; quy định xử lý đối với trường hợp triệu tập nhưng Điều tra viên t chối không tham dự phiên tòa; làm rõ nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong việc áp dụng quy định trên của uật tố tụng hình sự. hứ ba, T những bất cập, vướng mắc trong việc áp dụng quy định của pháp uật và thực tiễn xét xử; tác giả đưa ra kiến nghị đề xuất các trường hợp cụ thể xác định là cần thiết triệu tập Điều tra viên tham dự tại phiên tòa để ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện và kiến nghị giải pháp hoàn thiện việc thực hiện quy định về triệu tập Điều tra viên tham dự phiên tòa. 1.1. Vấn đề nhận thức và quy định của pháp luật tố tụng hình sự về sự cần thiết triệu tập Điều tra viên đến phiên tòa 1.1.1. Mục đích, ý nghĩa của quy định về triệu tập Điều tra viên đến phiên tòa Quy định pháp uật tố tụng hình sự về sự có mặt của Điều tra viên tại phiên tòa nhằm hướng đến các mục đích sau: - hứ nhất, thể chế hóa quan điểm của Đảng về cải cách t pháp. ộ uật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về sự có mặt của Điều tra viên tại phiên tòa có tác động và chịu ảnh hưởng t hầu hết các nguyên tắc cốt lõi, cơ bản nhất của tố tụng hình sự, trong đó đặc biệt nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử - một nguyên tắc mới được uật hóa. - hứ hai, tháo gỡ, kh c phục khó khăn, v ng m c mà thực ti n tố tụng hình sự đang đặt ra. 6 Khó khăn, vướng mắc khi thi hành pháp uật tố tụng hình sự theo ộ uật tố tụng hình sự năm 2003 đó là, trong nhiều vụ án hình sự, tại phiên tòa xét xử, các bị cáo khai trong quá trình điều tra bị Điều tra viên bức cung, dùng nhục hình hoặc thực hiện các hành vi tố tụng khác trái pháp uật (như dụ cung, mớm cung, ép cung…), t đó cho rằng việc buộc tội dựa trên các chứng cứ mà ơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập được là không đúng. Trong những trường hợp này, tuy bị cáo chỉ có ời khai, không cung cấp được tài iệu gì khác, nhưng vì Điều tra viên không có mặt tại phiên tòa nên không thể đối chất, làm rõ. Vì thế, để bảo đảm thận trọng, khách quan, Tòa án thường quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung để làm rõ các nội dung này. Kết quả điều tra ại cho thấy, hầu hết ời khai của bị cáo đều không có căn cứ, không được chấp nhận. Điều này làm cho quá trình tố tụng vụ án bị kéo dài, ảnh hưởng đến chất ượng giải quyết vụ án. ộ uật tố tụng hình sự năm 2015 quy định sự có mặt của Điều tra viên tại phiên tòa, khi gặp trường hợp tương tự, Hội đồng xét xử hoàn toàn có thể tạm d ng phiên tòa để triệu tập Điều tra viên thụ l vụ án để m rõ nội dung n y. - Thứ ba, bảo đảm phán quyết của Tòa án khách quan, toàn diện, đúng pháp luật. Yêu cầu, nhiệm vụ chung của tố tụng hình sự là bảo đảm việc phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ng a, ngăn chặn tội phạm, không để ọt tội phạm, không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ ợi ích của Nhà nước, quyền và ợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người thức tuân theo pháp uật, đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đây cũng chính là yêu cầu, nhiệm vụ của việc xét xử vụ án hình sự. Do đó, trong quá trình xét xử, ngoài việc thể hiện rõ các nội dung như trước đây, Tòa án cần phân tích tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên trong quá trình điều tra trước khi đưa ra bản án. Vì vậy, việc Hội đồng xét xử triệu tập Điều tra viên đến phiên tòa để trình bày các vấn đề liên quan đến vụ án là việc làm hết sức cần thiết. - hứ t , nhằm xác định rõ vị trí, vai trò của Tòa trong bộ máy nhà n c cũng nh trong quy trình tố tụng hình sự. Đẩy mạnh tiến trình cải cách tư pháp, bảo đảm Tòa án nhân dân thực hiện tốt chức năng là thực hiện quyền tư pháp và nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân theo đúng quy định Hiến pháp, ộ uật tố tụng hình sự năm 2015 quy định việc triệu tập Điều tra viên, người có thẩm quyền tiến hành tố 7 tụng khác đến phiên tòa càng thể hiện rõ vai trò làm “trọng tài”, là “c n cân công lý" giữa bên buộc tội và bên gỡ tội; là chủ thể duy trì sự bình đẳng giữa các bên trong tố tụng hình sự, qua đó bảo đảm tốt nhất các quyền và ợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia tố tụng hình sự. Về ý nghĩa: Việc triệu tập Điều tra viên, người có thẩm quyền tiến h nh tố tụng đã thụ , giải quyết vụ án đến phiên t a để tr nh b y các vấn đề liên quan đến vụ án có ý nghĩa rất ớn trong hoạt động xét xử của Tòa án, góp phần m rõ những chứng cứ, những vấn đề có liên quan đến vụ án tại phiên tòa, bảo đảm các chứng cứ được đưa ra có tính thuyết phục cao hơn. Qua đó, giúp cho Hội đồng x t xử xem x t, đánh giá to n diện, nhận định đúng đắn bản chất của vụ án, t đó đưa ra phán quyết ph hợp với sự thật khách quan của vụ án, có sức thuyết phục v đúng quy định của pháp uật. Có như vậy, Tòa án mới thực hiện được chức năng bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người và quyền công dân mà Hiến pháp năm 2013 đã quy định. 1.1.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về sự cần thiết triệu tập Điều tra viên đến phiên tòa Điều 296 ộ uật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “ rong quá trình xét xử, khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử có thể triệu tập Điều tra viên, ng i có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thụ lý, giải quyết vụ án và nh ng ng i khác đến phiên tòa để trình bày các vấn đề liên quan đến vụ n”. Điều 317 ộ uật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử tự mình hoặc theo đề nghị của ng i tham gia tố tụng yêu cầu Điều tra viên, Kiểm sát viên, ng i khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, ng i tham gia tố tụng trình bày ý kiến để làm rõ nh ng quyết định, hành vi tố tụng trong giai đo n điều tra, truy tố, xét xử”. Tuy nhiên, ộ uật tố tụng hình sự năm 2015 không quy định rõ “khi xét thấy cần thiết” là như thế nào, đồng thời kể t khi được ban hành và có hiệu ực thi hành, đến nay chưa có văn bản nào hướng dẫn thi hành Điều 296 ộ uật tố tụng hình sự năm 2015 và thế nào là “khi xét thấy cần thiết”. Quy định “khi xét thấy cần thiết” được hiểu là trong quá trình xét xử vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải triệu tập Điều tra viên, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thụ lý, giải quyết vụ án đến phiên tòa để trình bày các vấn đề liên quan đến vụ án; hay do uật sư, người tham gia tố tụng yêu cầu và Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của họ là có căn cứ (cần thiết) mới triệu tập? Ngoài ra, trường hợp nào được xem là “cần thiết” 8 thì uật chưa quy định và cũng chưa có văn bản hướng dẫn. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho Tòa án trong quá trình xét xử, cũng như dễ dẫn đến sự bất nhất giữa các Tòa án khác nhau trong việc giải quyết yêu cầu của uật sư và những người tham gia tố tụng khác về việc triệu tập Điều tra viên đã thụ lý, giải quyết vụ án đến phiên tòa để trình bày các vấn đề liên quan đến vụ án. Chính vì chưa có quy định rõ như thế nào là “khi xét thấy cần thiết” nên cũng dễ dẫn đến sự đánh giá mang tính chủ quan trong việc áp dụng của Tòa án. Thậm chí cùng tính chất vụ việc, có Tòa án chấp nhận yêu cầu, nhưng có thể Tòa án khác t chối yêu cầu của uật sư và những người tham gia tố tụng khác về việc triệu tập Điều tra viên đã thụ lý, giải quyết vụ án đến phiên tòa. Ngoài ra, quy định trên còn dễ dẫn đến sự chủ quan trong yêu cầu của uật sư và những người tham gia tố tụng khác, có trường hợp không cần thiết và không đúng quy định, nhưng uật sư và những người tham gia tố tụng khác vẫn cho rằng cần thiết phải triệu tập Điều tra viên đến phiên tòa. Mặt khác, cũng theo quy định của Điều uật này thì khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử có thể triệu tập Điều tra viên đã thụ lý, giải quyết vụ án đến phiên tòa. Như vậy, nếu trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án xét thấy một số vấn đề cần yêu cầu Điều tra viên có ý kiến thì Thẩm phán phải chờ đến khi xét xử tại phiên tòa, thảo uận trong Hội đồng xét xử xong mới được triệu tập họ đến phiên tòa. Đây là bất cập làm cho việc giải quyết vụ án bị 3 kéo dài không cần thiết, trái với nhiệm vụ của ộ uật tố tụng hình sự năm 2015 . 1.2. Những vƣớng mắc, bất cập trong việc áp dụng quy định của pháp luật về sự cần thiết triệu tập Điều tra viên đến phiên toà 1.2.1. hực ti n thực hiện quy định của luật tố tụng hình sự về c c tr ng h p triệu tập Điều tra viên đến phiên tòa T khi ộ uật tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu ực thi hành, theo dõi các phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm trong thời gian qua, đã có nhiều vụ án Hội đồng xét xử triệu tập Điều tra viên đến phiên tòa và thường xảy ra trong các trường hợp sau: 3 Điều 2. Nhiệm vụ của ộ uật tố tụng h nh sự: Bộ luật tố tụng hình sự có nhiệm vụ bảo đảm ph t hiện chính x c và xử lý công minh, kịp th i mọi hành vi ph m tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội ph m, không để lọt tội ph m, không làm oan ng i vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con ng i, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ l i ích của Nhà n c, quyền và l i ích h p ph p của tổ chức, c nhân, giáo dục mọi ng i ý thức tuân theo ph p luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội ph m. 9 - r ng h p 1: Bị cáo có đơn khiếu n i, tố cáo trong quá trình điều tra đã bị Điều tra viên bức cung, m m cung, dùng nhục hình. ức cung là sử dụng thủ đoạn trái pháp uật ép buộc người bị ấy ời khai, người bị hỏi cung phải khai ra thông tin liên quan đến vụ án, vụ việc (Điều 374 ộ uật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017). Thủ đoạn trái pháp uật được sử dụng có thể là đe dọa sẽ gây thiệt hại về vật chất, thể chất hoặc tinh thần cho người bị ấy ời khai, người bị hỏi cung như đe dọa sẽ dùng nhục hình, sẽ bị bắt giam,…. Mớm cung là việc Điều tra viên đặt câu hỏi hoặc gợi ý để người được hỏi (bị can, người tham gia tố tụng khác,…) trả ời theo ý muốn chủ quan của Điều tra viên, làm cho ời khai không đúng với sự thật khách quan của vụ án. Hình thức mớm cung rất đa dạng, có thể Điều tra viên cho xem vật chứng, tài iệu chưa được xác định chính xác để bị can, người tham gia tố tụng khác,… trả ời theo gợi ý, hoặc Điều tra viên gợi ý cho họ trả ời. Ví dụ: Ngày 06/10/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước mở phiên xử sơ thẩm vụ Ngô Minh hiến (sinh năm 1976 tại Thái Bình) bị truy tố về tội Lạm dụng 4 tín nhiệm chiếm đoạt tài sản , bị cáo Ngô Minh hiến trình bày và tại tòa đã tố cáo bị Điều tra viên ép cung, mớm cung khi ấy ời khai lúc bị can đang mang thai nằm bệnh viện, cụ thể là Điều tra viên đã ép, trực tiếp đọc nội dung và yêu cầu bị cáo viết bản tự khai theo ý của Điều tra viên, trong khi đây là chứng cứ duy nhất xác định bị can thực hiện thủ đoạn gian dối; nên Hội đồng xét xử đã triệu tập Điều tra viên đến phiên tòa để làm rõ. Nhục hình là hành vi đánh đập, tra tấn, gây đau đớn về thể xác, có thể trực tiếp Điều tra viên đánh đập hoặc Điều tra viên thông qua người khác (có thể là bị can, bị cáo khác giam cùng buồng với người bị nhục hình). Ngoài ra, theo Điều 373 ộ uật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì nhục hình còn là hành vi đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm của người khác dưới bất kỳ hình thức nào, như không cho ăn, uống, bắt nằm, đứng ở tư thế khó chịu,… Qua các vụ án oan trong thời gian qua, một đặc điểm chung rất dễ nhận thấy là luôn có những vi phạm tố tụng nghiêm trọng, kết uận vụ án thường mang tính áp đặt chủ quan của người tiến hành tố tụng, có dấu hiệu mớm cung, bức cung, nhục 4Hoàng Yến, “Tòa triệu tập điều tra viên, kiểm s t viên đến phiên xử”, https://thuvienphapluat.vn/banan/tintuc/toa-trieu-tap-dieu-tra-vien-kiem-sat-vien-den-phien-xu-3354. Truy cập ngày 20/12/2020. 10 5 hình biến tướng trong quá trình điều tra , nổi lên một số vụ như vụ Huỳnh Văn Nén tại Bình Thuận; Hàn Đức Long, Nguyễn Thanh hấn ở ắc Giang; Ngô Thanh Kiều ở Phú Yên… Vì vậy, khi bị cáo hoặc Luật sư, người tham gia tố tụng khác cho rằng quá trình điều tra đã bị Điều tra viên bức cung, nhục hình và yêu cầu Hội đồng xét xử triệu tập Điều tra viên để làm rõ thì đề nghị này thường được Hội đồng xét xử chấp nhận. Nếu yêu cầu được đưa ra trước phiên tòa thì Hội đồng xét xử sẽ triệu tập Điều tra viên đến phiên tòa, còn yêu cầu này được đưa ra tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử sẽ hoãn phiên tòa để triệu tập Điều tra viên. So với các trường hợp khác thì trường hợp Điều tra viên được triệu tập đến phiên tòa để làm rõ việc bị cáo cho rằng trong quá trình điều tra đã bị bức cung, mớm cung, nhục hình là phổ biến nhất. - r ng h p 2: Các tài liệu đ c thu thập trong quá trình điều tra bị tẩy xóa, chỉnh sửa nh ng không có xác nhận của ng i tham gia tố tụng, có dấu hiệu làm sai lệch hồ sơ vụ án. Theo quy định khi tiến hành hoạt động tố tụng phải ập biên bản theo mẫu thống nhất (Điều 133 ộ uật tố tụng hình sự năm 2015). Biên bản hoạt động tố tụng phải có chữ ký của những người mà ộ uật tố tụng hình sự quy định, những điểm sửa chữa, thêm, bớt, tẩy xóa trong biên bản phải được xác nhận bằng chữ ký của họ. Hoặc vụ án khi đưa ra xét xử, Tòa án nhận được đơn tố cáo về việc Điều tra viên chậm giao nộp, bổ sung tài iệu chứng cứ để làm căn cứ giải quyết vụ án. Vì vậy, trong trường hợp hồ sơ vụ án có tài iệu bị sửa chữa, thêm, bớt, tẩy xóa, có dấu hiệu làm sai ệch hồ sơ vụ án thì theo đề nghị của Viện kiểm sát hoặc người tham gia tố tụng hoặc tự Hội đồng xét xử xét thấy cần làm rõ sẽ triệu tập Điều tra viên đến phiên tòa, như vụ bị cáo Nguyễn Văn Sơn bị Tòa án nhân dân tỉnh 6 Phú Thọ đưa ra xét xử về tội ố ý gây thương tích vào ngày 17/11/2017 ; quá trình nghiên cứu hồ sơ, Hội đồng xét xử nhận thấy biên bản khám nghiệm hiện trường bị tẩy xóa nhưng không có xác nhận của người tham gia tố tụng, nên đã triệu tập Điều tra viên đến phiên tòa để làm rõ; vụ án ố ý gây thương tích, xảy ra ngày 10/3/2018 7 tại phường Long Hưng, quận Ô Môn, thành phố ần Thơ ; trong vụ án này, vợ của 5 Tất Dũng, “Làm thế n o để hạn chế án oan sai?”, https://www.bienphong.com.vn/lam-the-nao-de-hanche-an-oan-sai-post155972.html. Truy cập ng y 20/8/2021. 6Tuyến Phan, “Hồ sơ bị tẩy xóa, Tòa cần triệu tập Điều tra viên”, http://plo.vn/phap-luat/ho-so-bi-tay-xoatoa-can-trieu-tap-dieu-tra-vien-740107.html. Truy cập ngày 27/01/2021. 7 Châu Anh, “Điều tra viên bị tố làm sai lệch hồ sơ đ c tòa triệu tập”, http://plo.vn/phap-luat/dieu-tra-vienbi-to-lam-sai-lech-ho-so-duoc-toa-trieu-tap-873336.html#. Truy cập ngày 30/5/2021. 11 bị cáo Nguyễn Văn Hận cho rằng chồng mình bị oan nên đã có đơn tố cáo Điều tra viên thụ lý làm sai ệch hồ sơ vụ án khi chậm giao nộp, bổ sung một dữ iệu điện tử liên quan. Ngày 28/11/2019, Tòa án nhân dân quận Ô Môn tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án ần thứ ba, đồng thời triệu tập Điều tra viên đến phiên tòa để làm rõ những nội dung bị tố cáo. - r ng h p 3: Bị cáo cho rằng tình tiết nêu trong Kết luận điều tra là không đúng sự thật khách quan của vụ án. Quá trình điều tra, bị cáo cho rằng mình đã khai đúng sự thật khách quan của vụ án, nhưng Kết uận điều tra cho rằng bị cáo quanh co chối tội, không thành khẩn khai báo, nên đề nghị không cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo theo quy định của pháp uật. ụ thể như vụ Trịnh Xuân Thanh cùng đồng phạm bị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đưa ra xét xử về tội ố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng và Tham ô tài sản 8 vào ngày 10/01/2018 . Theo đề nghị của uật sư, Hội đồng xét xử đã triệu tập Điều tra viên đến phiên tòa để làm rõ vì sao trong Kết uận điều tra xác định bị cáo Trịnh Xuân Thanh trong quá trình điều tra không thành khẩn, quanh co chối tội, sau khi phạm tội đã bỏ trốn, gây khó khăn, cản trở cho việc điều tra và đề nghị áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo. - Trường hợp 4: Điều tra viên thụ lý vụ án bị khiếu nại, tố cáo quá trình điều tra tiến hành thu thập tài liệu chứng cứ không đảm bảo tính khách quan, đúng pháp luật. Trong tố tụng hình sự, điều tra là một giai đoạn tố tụng, đồng thời là hoạt động tố tụng có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, tìm ra bằng chứng, chứng cứ, căn cứ phạm tội. Do đó trong hoạt động điều tra thu thập chứng cứ vụ án buộc phải đảm bảo hội đủ ba yếu tố khách quan, toàn diện và đầy đủ, thì mới đủ căn cứ để giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp uật. Thực tế trong một số vụ án khi đưa ra xét xử, bị cáo cho rằng quá trình điều tra, Điều tra viên chưa làm rõ các tình tiết của vụ án mà bị cáo đã yêu cầu và cho rằng nó rất quan trọng, nhưng Điều tra viên đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng khi thu thập chưa đầy đủ các tài iệu chứng cứ có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án, như: giám định thương tích, định giá tài sản,… Như vụ án ố ý gây thương tích, xảy ra ngày 05/7/2017 tại xã Tân Tiến, huyện Văn Giang, 8 Lê Tú, “Điều tra viên xuất hiện nói về việc Trịnh Xuân hanh “quanh co chối tội””, http://nhandan. com.vn/phapluat/thoi-su-phap-luat/item/35241902-dieu-tra-vien-xuat-hien-noi-ve-viec-trinh-xuan-thanh-% E2%80%9Cquanh-co-choi-toi%E2%80%9D.html. Truy cập ngày 25/01/2021. 12 9 tỉnh Hưng Yên . Ngày 06/10/2020, Tòa án nhân dân huyện Văn Giang mở phiên tòa sơ thẩm ần hai xét xử bị cáo Đ o Tất Quyền (60 tuổi), trú tại xã Tân Tiến, huyện Văn Giang). Tại phiên tòa, bị cáo Quyền có khiếu nại Điều tra viên thụ lý đã vi phạm nghiêm trọng trong việc giám định xác định tỷ ệ thương tích của bị hại nên Hội đồng xét xử cho rằng phải có mặt của Điều tra viên (và Kiểm sát viên) là cần thiết để làm rõ. Ngoài ra, thực tiễn còn có một số trường hợp khác Hội đồng xét xử triệu tập Điều tra viên đến phiên tòa, như: để làm rõ tư cách tố tụng của một số người tham gia tố tụng khác, bị cáo liên tục kêu oan mặc dù đã được cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định pháp uật, có kiến nghị về những vi phạm thủ tục tố tụng, làm rõ các khoản tiền thu hồi của vụ án, khiếu nại việc hỏi cung bị can không có uật sư hoặc Kiểm sát viên tham gia nhưng biên bản ại thể hiện có những người n y;…. Hệ thống ại các trường hợp Tòa án triệu tập Điều tra viên tham dự phiên tòa trong thực tế thời gian qua, thấy rằng chưa rõ ràng trong việc xác định trường hợp nào là “đóng khung”, là “cần thiết” mà chủ yếu phụ thuộc vào nhận định, quan điểm của mỗi Hội đồng xét xử. Mặt khác, qua theo dõi không phải tất cả các vụ án khi xét xử, Hội đồng xét xử triệu tập Điều tra viên đều đến tham dự có mặt; bên cạnh đó cũng có nhiều trường hợp mặc dù bị cáo hoặc uật sư yêu cầu tòa triệu tập Điều tra viên nhưng Thẩm phán chủ tọa phiên tòa hoặc Hội đồng xét xử thấy “ch a cần thiết” triệu tập. Vì vậy chưa có sự thống nhất chung trong việc áp dụng pháp uật đối với quy định triệu tập Điều tra viên tham dự phiên tòa trong thực tiễn. 1.2.2. Phân tích, đ nh giá một số tr ng h p cần thiết triệu tập Điều tra viên đến phiên tòa Việc triệu tập Điều tra viên đến phiên tòa với những trường hợp như trên, tựu trung ại, tác giả thấy rằng, chủ yếu thuộc hai nhóm sau: (1) Do bị cáo, người liên quan tố cáo Điều tra viên vi phạm pháp uật, như có hành vi bức cung, dùng nhục hình hoặc có dấu hiệu làm sai ệch hồ sơ vụ án; (2) Tài iệu chứng cứ, kết quả điều tra vụ án không đảm bảo tính khách quan, thu thập không đúng trình tự, thủ tục quy định của uật tố tụng hình sự. Tác giả xin được phân tích cụ thể tính cần thiết trong việc triệu tập Điều tra viên có mặt tại phiên tòa ở hai nhóm trường hợp này, như sau: 9Tuyến Phan, “Vụ án 'chân trái bà hàng xóm': Triệu tập điều tra viên”, https://plo.vn/phap-luat/vu-an-chantrai-ba-hang-xom-trieu-tap-dieu-tra-vien-942248.html. Truy cập ngày 25/4/2021. 13 - Đối v i tr ng h p triệu tập Điều tra viên tham dự phiên tòa do bị tố cáo bức cung, dùng nhục hình hoặc có chỉnh sửa, làm sai lệch hồ sơ vụ án. Một số phiên tòa trong quá trình xét xử, bị cáo, người liên quan (như vợ, cha, mẹ bị cáo…) tố cáo, khiếu nại Điều tra viên thụ lý vụ án bức cung, ép cung, dùng nhục hình nhưng khi hội đồng xét xử yêu cầu cung cấp chứng cứ thì hầu hết các bị cáo ( uật sư, người tham gia tố tụng khác) không cung cấp hoặc không trả ời được; khi được triệu tập tại phiên tòa, Điều tra viên trả ời quá trình điều tra, việc tiến hành hỏi cung bị can theo đúng quy định, quá trình hỏi cung tôn trọng danh dự, nhân phẩm, sức khỏe của bị can, không có bức cung, nhục hình. Như trường hợp vụ án Lê Đ nh Tuấn phạm tội L a đảo chiếm đoạt tài sản và Nguyễn Thị Lý phạm tội Đưa hối ộ, 10 được Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm ngày 31/01/2018 , do bị cáo Lê Đ nh Tuấn có đơn khiếu nại Điều tra viên có hành vi bức cung, mớm cung và khiếu nại ản kết uận điều tra, Cáo trạng của cơ quan tiến hành tố tụng; tại phiên tòa, Điều tra viên trình bày quá trình điều tra việc ấy ời khai hoàn toàn khách quan, không có ép cung, mớm cung, các hoạt động điều tra được thực hiện theo đúng quy định của ộ uật tố tụng hình sự; ngoài ời khai của bị cáo không có căn cứ nào khác chứng minh có sự bức cung, mớm cung trong vụ án… Do đó, việc bị cáo tố cáo, khiếu nại Điều tra viên tại phiên tòa về bị bức cung, nhục hình hoặc làm sai ệch hồ sơ vụ án là không có căn cứ để giải quyết. Vì vậy, xét thấy trường hợp này việc triệu tập Điều tra viên đến phiên tòa để giải quyết là không cần thiết, bởi ẽ: Một là, Hành vi bức cung, nhục hình, chỉnh sửa tài iệu trong hồ sơ vụ án là hành vi bị nghiêm cấm trong điều tra vụ án, Điều tra viên có hành vi bức cung, nhục hình, chỉnh sửa tài iệu, làm sai ệch hồ sơ nếu đủ căn cứ, có tài iệu chứng minh được thì Điều tra viên sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của ộ uật hình sự năm 2015 về các tội “Tội dùng nhục hình” (Điều 373); “Tội bức cung” (Điều 374) “Tội làm sai ệch hồ sơ vụ án” (Điều 375), thực tế thời gian qua có nhiều Điều tra viên đã bị truy tố về các tội danh này (vụ Nguyễn Thanh hấn ở ắc Giang, vụ Nguyễn Hồng Ngọc Anh ở Phú Yên). Hai là, Theo quy định thì trước khi hỏi cung bị can, Điều tra viên phải thông báo thời gian, địa điểm cho Kiểm sát viên, nếu xét thấy cần thiết, Kiểm sát viên trực tiếp tham gia việc hỏi cung bị can, một số vụ án còn có uật sư tham gia và bố trí ghi âm, ghi hình theo quy định. Kiểm sát viên xác định nội dung cần làm rõ để yêu 10 Bản án số 40/2018/HSST ngày 31/01/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. 14 cầu Điều tra viên hỏi nhằm làm rõ những vấn đề cần phải chứng minh. Kiểm sát viên chú ý cách đặt câu hỏi của Điều tra viên bảo đảm không để xảy ra việc bức cung, mớm cung, dụ cung; chú ý câu trả ời của bị can để phát hiện tình tiết mới, những điểm chưa rõ và yêu cầu Điều tra viên hỏi làm rõ. Trong giai đoạn điều tra, theo uật định thì Kiểm sát viên giám sát chặt chẽ mọi hoạt động điều tra và trực tiếp hỏi cung bị can trong các trường hợp sau: ị can kêu oan; ị can khiếu nại có vi phạm hoạt động điều tra; Có căn cứ xác định việc điều tra vi phạm pháp uật…. Theo đó, Kiểm sát viên phải kịp thời phát hiện và yêu cầu Điều tra viên khắc phục (nếu có); báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát yêu cầu Thủ trưởng ơ quan điều tra có thẩm quyền xử lý nghiêm minh Điều tra viên vi phạm pháp uật. Nếu vi phạm của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì lãnh đạo Viện kiểm sát yêu cầu ơ quan có thẩm quyền điều tra khởi tố vụ án hình sự; nếu có dấu hiệu tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp thì tiến hành thủ tục chuyển cho ơ quan điều tra có thẩm quyền xem xét, xử lý theo quy định của pháp uật. Như vậy, hoạt động hỏi cung bị can của Điều tra viên được kiểm sát chặt chẽ của Kiểm sát viên nếu Điều tra viên có hành vi bức cung, nhục hình, làm sai ệch hồ sơ vụ án thì đã được Kiểm sát viên phát hiện và báo cáo với cơ quan cơ thẩm quyền để xử lý theo quy định. Do đó tại phiên tòa, bị cáo khai báo bị bức cung, nhục hình hoặc làm sai ệch hồ sơ vụ án thì trách nhiệm chính để trả ời, làm rõ vấn đề này thuộc về Kiểm sát viên chứ không phải Điều tra viên. Ba là, Nếu Kiểm sát viên không phát hiện được thì quá trình chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa xác định có căn cứ Điều tra viên có hành vi bức cung, nhục hình hoặc chỉnh sửa tài iệu là căn cứ để trả hồ sơ điều tra bổ sung theo quy định tại Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTCBCA-BQP ngày 22/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân Tối cao, ộ Công an, ộ Quốc phòng quy định việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của ộ uật tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung. - Đối v i vấn đề triệu tập Điều tra viên đến phiên tòa để làm rõ một số tài liệu chứng cứ, kết quả điều tra vụ án do nghi ng việc điều tra không khách quan, toàn diện, thu thập tài liệu chứng cứ không đúng quy định. Giai đoạn điều tra được bắt đầu t khi tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, đến khi kết thúc điều tra ra bản kết uận điều tra đề 15 nghị truy tố. Khi điều tra vụ án hình sự, Điều tra viên tiến hành các nhiệm vụ theo quy định, quá trình thực hiện nhiệm vụ điều tra vụ án luôn chịu sự kiểm sát chặt chẽ 11 của Kiểm sát viên và Viện kiểm sát . Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ hoạt động điều tra của Điều tra viên, bảo đảm các yêu cầu điều tra được thực hiện đầy đủ. Khi thấy có vấn đề cần phải điều tra thêm, Kiểm sát viên kịp thời bổ sung yêu cầu điều tra; nếu Điều tra viên đề nghị, Kiểm sát viên có trách nhiệm giải thích rõ nội dung những yêu cầu điều tra. Yêu cầu điều tra được thể hiện bằng văn bản, ời nói, trực tiếp. Có thể đề ra yêu cầu điều tra bằng ời nói trong quá trình trực tiếp kiểm sát các hoạt động khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét, hỏi cung bị can, ấy ời khai người làm chứng, bị hại, đương sự, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra, nhận biết giọng nói. Đối với các hoạt động điều tra khác, Kiểm sát viên phải đề ra yêu cầu điều tra bằng văn bản, nêu rõ ràng, cụ thể những vấn đề cần điều tra, chứng cứ, tài iệu cần thu thập. Nội dung yêu cầu điều tra phải cụ thể, rõ ràng, sát với nội dung vụ án, định hướng thu thập chứng cứ để làm rõ cấu thành tội phạm, những vấn đề phải chứng minh trong vụ án theo quy định tại Điều 85, Điều 441 ộ uật tố tụng hình sự năm 2015. Kiểm sát viên chủ động phối hợp, yêu cầu Điều tra viên thực hiện đầy đủ nội dung yêu cầu điều tra. Nếu Điều tra viên không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ yêu cầu điều tra, thì tùy t ng trường hợp, Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện kiến nghị bằng văn bản với Thủ trưởng, hoặc yêu cầu thay đổi Điều tra viên. Những quyết định và hành vi tố tụng của Điều tra viên trong quá trình điều tra vụ án là quá trình thực hiện yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên và được Kiểm sát viên kiểm sát việc tuân theo pháp uật. Như vậy, trường hợp Hội đồng xét xử cần làm rõ thêm các chứng cứ, kết quả điều tra vụ án thì phải xác định những kết quả và nội dung gì có liên quan đến vụ án và xác định phạm vi trách nhiệm trả ời của Kiểm sát viên hay Điều tra viên. Trên cơ sở đó mới xem xét có nhất thiết phải triệu tập Điều tra viên có mặt tại phiên tòa để trình bày hay không, bởi vì toàn bộ quá trình điều tra, thu thập chứng cứ và kết 11 Tại khoản 5 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “ rong th i h n 05 ngày kể từ ngày lập biên bản về ho t động điều tra, thu thập, nhận đ c tài liệu liên quan đến vụ án mà Kiểm sát viên không trực tiếp kiểm s t theo quy định của Bộ luật này thì Cơ quan điều tra, cơ quan đ c giao nhiệm vụ tiến hành một số ho t động điều tra có trách nhiệm chuyển biên bản, tài liệu này cho Viện kiểm s t để kiểm sát việc lập hồ sơ vụ n. r ng h p do trở ng i khách quan thì th i h n này có thể kéo dài nh ng không qu 15 ngày. rong th i h n 03 ngày, Viện kiểm s t đóng dấu bút lục và sao l u biên bản, tài liệu l u hồ sơ kiểm sát và bàn giao nguyên tr ng tài liệu, biên bản đó cho Cơ quan điều tra, cơ quan đ c giao nhiệm vụ tiến hành một số ho t động điều tra. Việc giao, nhận tài liệu, biên bản đ c lập biên bản theo quy định t i Điều 133 của Bộ luật này”. 16 uận vụ án, đã được Kiểm sát viên Viện kiểm sát thực hiện việc kiểm sát chặt chẽ theo uật định. * Tóm ại, t thực tiễn xét xử thời gian qua và những phân tích như trên, tác giả nhận thấy chưa có sự thống nhất chung về nhận thức pháp uật của các Tòa án trong việc xác định trường hợp nào là xét thấy cần thiết để triệu tập Điều tra viên có mặt tại phiên tòa, mà nó phụ thuộc vào quan điểm của mỗi Hội đồng xét xử t ng vụ án cụ thể, nên dẫn đến có vướng mắc bất cập là việc triệu tập Điều tra viên dự phiên tòa còn mang tính chất tùy nghi, có trường hợp triệu tập theo ý chủ quan của Thẩm phán chủ toạ phiên toà, có thể trong vụ án này Hội đồng xét xử cho rằng cần thiết phải triệu tập Điều tra viên có mặt nhưng ở trường hợp tương tự trong vụ án khác thì Hội đồng xét xử ại cho rằng không cần thiết; mặt khác, có trường hợp người bào chữa ợi dụng quy định này khi luôn đề nghị Hội đồng xét xử triệu tập Điều tra viên đến phiên tòa gây ảnh hưởng đến tiến độ xét xử vụ án và phần nào ảnh hưởng đến thời gian, công sức của các Điều tra viên, thậm chí có trường hợp làm trì hoãn, kéo dài thời gian xét xử của Tòa án. ộ uật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về sự có mặt của Điều tra viên tại phiên tòa là cần thiết, tuy nhiên không phải bất cứ vụ án nào cũng phải triệu tập Điều tra viên tham dự. Điều tra viên chỉ tham gia phiên tòa khi Hội đồng xét xử xét thấy cần có ời trình bày của Điều tra viên để làm rõ hơn các chứng cứ quan trọng của vụ án mà Viện kiểm sát không thể thực hiện tại phiên tòa hoặc tại phiên tòa phát sinh trường hợp khiếu nại, tố cáo Điều tra viên trong giai đoạn điều tra…. Như vậy, vấn đề đặt ra là, trường hợp triệu tập nhưng Điều tra viên không có mặt thì Hội đồng xét xử xử lý như thế nào, biện pháp áp dụng xử lý Điều tra viên là gì, theo quy định nào? Đây cũng là vấn đề bất cập vì pháp uật chưa quy định, cần nghiên cứu có biện pháp tháo gỡ trong thời gian tới. 1.2.3. r ng h p triệu tập nh ng Điều tra viên không đến phiên tòa và cách xử lý của Hội đồng xét xử - Về tr ng h p triệu tập nh ng Điều tra viên v ng mặt Việc triệu tập Điều tra viên thụ lý, giải quyết vụ án đến phiên tòa, thực tiễn có trường hợp họ không đến phiên tòa vì nhiều lý do khác nhau. Tuy nhiên, nếu Điều tra viên vắng mặt có lý do chính đáng và việc tham gia phiên tòa là cần thiết thì không được hoãn phiên tòa vì theo quy định của ộ uật tố tụng hình sự năm 2015 thì trường hợp này không thuộc một trong các trường hợp được hoãn phiên tòa. 17 Khoản 1 Điều 297 ộ uật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “1. Tòa án hoãn phiên tòa khi thuộc một trong các tr ng h p: a) Có một trong nh ng căn cứ quy định t i các điều 52, 53, 288, 289, 290, 291, 292, 293, 294 và 295 của Bộ luật này. b) Cần phải xác minh, thu thập bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện ngay t i phiên tòa; c) Cần tiến hành giám định bổ sung, giám định l i; d) Cần định giá tài sản, định giá l i tài sản.” Như vậy, theo quy định này thì việc Điều tra viên, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thụ lý, giải quyết vụ án vắng mặt tại phiên tòa không thuộc trường hợp phải hoãn phiên tòa. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử trong thời gian qua, khi những chủ thể này được triệu tập đến phiên tòa nhưng vắng mặt hoặc trường hợp tại phiên tòa, theo đề nghị của uật sư, của những người tham gia tố tụng khác, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải triệu tập họ đến phiên tòa thì Hội đồng xét xử đều hoãn phiên tòa; như: Ngày 26/11/2019, Tòa án nhân dân ấp cao thành phố Đ Nẵng quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm ần thứ 4 vụ án Hồ Minh Khiêm (nguyên Trưởng phòng Thanh tra thuế ục thuế Bình Định) về tội Nhận hối ộ, xảy ra ngày 01/10/2017 12 tại thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định . Trước đó, tại phiên tòa phúc thẩm 19/9/2019, Tòa án nhân dân Cấp cao Đ Nẵng đã triệu tập những người tiến hành tố tụng vụ án, trong đó có 10 Điều tra viên thuộc Công an tỉnh Bình Định. Nhưng khi phiên tòa diễn ra, 10 Điều tra viên được triệu tập đều vắng mặt, Hội đồng xét xử đã quyết định cho hoãn phiên tòa. Theo quan điểm của tác giả, thì việc Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa trong các trường hợp nêu trên là phù hợp. ởi ẽ, việc có mặt của họ là cần thiết, đảm bảo việc tranh tụng giữa các bên, giúp cho Hội đồng x t xử xem x t, đánh giá to n diện và làm rõ sự thật của vụ án; t đó đưa ra phán quyết có tính thuyết phục hơn, tránh oan, sai và cũng không còn cách xử lý nào khác. Vì vậy, để bảo đảm quy định này được thực hiện phù hợp trên thực tiễn cần sửa đổi, bổ sung quy định căn cứ hoãn phiên tòa khi vắng mặt Điều tra viên như quy định tại các Điều 293, Điều 294 của ộ uật tố tụng hình sự năm 2015. 12 Ngọc Oai, “Vụ cựu c n bộ Cục huế Bình Định nhận hối lộ: òa phúc thẩm triệu tập bổ sung 10 điều tra viên”, https://www.sggp.org.vn/vu-cuu-can-bo-cuc-thue-binh-dinh-nhan-hoi-lo-toa-phuc-tham-trieu-tap-bosung-10-dieu-tra-vien-630755.html. Truy cập ng y 22/01/2021. 18 - Về quy định xử lý đối v i tr ng h p triệu tập nh ng Điều tra viên v ng mặt không tham dự phiên tòa Điều tra viên được triệu tập nhưng vắng mặt, Tòa án xem xét có thể quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử tùy vào trường hợp cụ thể, tuy nhiên đối với trường hợp Tòa án quyết định hoãn phiên tòa và tiếp tục triệu tập mà tiếp tục vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc xét xử thì Hội đồng xét xử xử lý như thế nào, điều này uật chưa quy định nên thực tiễn xét xử của Tòa án gặp nhiều khó khăn. Theo Điều 466 ộ uật tố tụng hình sự năm 2015 thì việc xử lý các trường hợp người có hành vi cản trở hoạt động tố tụng của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể bị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng quyết định áp giải, dẫn giải, phạt cảnh cáo, phạt tiền, tạm giữ hành chính, buộc khắc phục hậu quả hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp uật. Phạm vi điều chỉnh của điều này bao gồm tất cả các trường hợp được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập tham gia tố tụng trong vụ án hình sự. Tuy nhiên, Điều 296 của ộ uật tố tụng hình sự năm 2015 chỉ quy định việc triệu tập Điều tra viên tham gia phiên tòa mà không quy định nếu vắng mặt thì xử lý như thế nào, có bị dẫn giải hay không, vấn đề này hiện nay quy định không rõ ràng, khó áp dụng trên thực tiễn. Mặt khác, quy định của pháp uật cũng chưa có chế tài, biện pháp xử lý đối với trường hợp Điều tra viên được triệu tập nhưng tại phiên tòa đã không thực hiện đầy đủ trách nhiệm chứng minh các hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ vụ án của mình được thực hiện như thế nào, đúng trình tự thủ tục hay không,… Do đó, cũng cần phải có văn bản hướng dẫn cụ thể, rõ ràng đối với các trường hợp trên. 1.2.4. Nguyên nhân của nh ng h định của luật tố tụng hình sự về c c tr phiên tòa n chế, v ng m c trong việc thực hiện quy ng h p Điều tra viên đ c triệu tập đến Việc quy định Điều tra viên, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thụ lý, giải quyết vụ án có mặt tại phiên tòa là quy định tiến bộ, mang tính đột phá, đã thể chế hóa quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp và quy định của Hiến pháp năm 2013. Tuy nhiên, t khi ộ uật tố tụng hình sự 2015 có hiệu ực thi hành đến nay, thực tiễn thực hiện vẫn còn phát sinh một số vấn đề hạn chế, vướng mắc như đã phân tích trên. Những hạn chế, vướng mắc này xuất phát t những nguyên nhân chủ yếu sau: - hứ nhất, do sự thiếu rõ ràng, cụ thể của ộ luật tố tụng hình sự năm 2015: ộ uật tố tụng hình sự năm 2015 chưa quy định rõ những trường hợp nào là
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan