Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sự biến đổi mô hình tiêu thuyết tự lực văn đoàn qua tiểu thuyết gia đình của khá...

Tài liệu Sự biến đổi mô hình tiêu thuyết tự lực văn đoàn qua tiểu thuyết gia đình của khái hưng

.PDF
68
84
75

Mô tả:

Header Page 1 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp Tr­êng §¹i häc S­ ph¹m Hµ Néi 2 LỜI CẢM ƠN Trong quá trình nghiên cứu đề tài: “Sự biến đổi mô hình tiểu thuyết Tự lực văn đoàn qua tiểu thuyết Gia đình của Khái Hưng”, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của ban chủ nhiệm khoa Ngữ Văn. Các thầy cô giáo trong tổ Văn học Việt Nam - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. Tôi xin gửi tới các thầy cô lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất, đặc biệt là Thạc sĩ Vũ Văn Ký, người đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 20 tháng 04 năm 2010 Sinh viên Phạm Thị Yên Ph¹m ThÞ Yªn Footer Page 1 of 95. 1 Khoa Ng÷ v¨n Header Page 2 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp Tr­êng §¹i häc S­ ph¹m Hµ Néi 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin khẳng định đây là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi. Đề tài nghiên cứu này không trùng với công trình nghiên cứu của các tác giả khác. Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày 20 tháng 04 năm 2010 Sinh viên Phạm Thị Yên Ph¹m ThÞ Yªn Footer Page 2 of 95. 2 Khoa Ng÷ v¨n Header Page 3 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp Tr­êng §¹i häc S­ ph¹m Hµ Néi 2 MỤC LỤC Lời cảm ơn………………………………………………………………….1 Lời cam đoan……………………………………………...………………..2 Mục lục…………………………………………………...…………………3 MỞ ĐẦU……………………………………...…………………………….5 1. Lý do chọn đề tài….……………………………………………..……5 2. Lịch sử vấn đề………………………………………………...………7 3. Mục đích nghiên cứu………………………………………………….9 4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu………………………………………..9 5. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………….10 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài…………………………… 10 7. Bố cục của khóa luận……………………………………………….. 10 NỘI DUNG………...………………………………………………………11 Chương 1: Tự lực văn đoàn và quá trình vận động phát triển của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn……………………………………………... 11 1.1. Tổ chức Tự lực văn đoàn……………………………………….. 11 1.1.1. Sự hình thành tổ chức………………………………………. 11 1.1.2. Tôn chỉ, mục đích của tổ chức……………………………… 12 1.1.3. Cơ quan ngôn luận………………………………………….. 13 1.1.4. Kết luận……………………………………………………...15 1.2. Quá trình vận động và phát triển của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn 17 1.2.1. Thời kì 1932 – 1935………………………………………... 17 1.2.2. Thời kì 1936 – 1939………………………………………... 18 1.2.3. Thời kì 1940 – 1945………………………………………... 19 Chương 2: Mô hình tiểu thuyết Tự lực văn đoàn………………………. 21 2.1. Khái niệm “mô hình” tiểu thuyết Tự lực văn đoàn……………… 21 2.2. Những biểu hiện của mô hình tiểu thuyết Tự lực văn đoàn……... 23 2.2.1. Đề tài………………………………………………………. 24 Ph¹m ThÞ Yªn Footer Page 3 of 95. 3 Khoa Ng÷ v¨n Header Page 4 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp Tr­êng §¹i häc S­ ph¹m Hµ Néi 2 2.2.2. Chủ đề………………………………………………………. 26 2.2.3. Nhân vật…………………………………………………...... 30 2.2.4. Cảm hứng chủ đạo…………………………………………... 34 2.2.5. Ngôn ngữ……………………………………………………. 37 2.3. Những vấn đề đặt ra trong sáng tác từ mô hình của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn………………………………………………………... 39 2.3.1. Giai đoạn 1932 – 1935……………………………………... 39 2.3.2. Giai đoạn 1936 – 1939……………………………………... 40 2.3.3. Giai đoạn 1940 – 1945……………………………………... 40 Chương 3: Sự biến đổi mô hình tiểu thuyết Tự lực văn đoàn qua tiểu thuyết Gia đình của Khái Hưng…………………………………….. 43 3.1. Khái Hưng và tiểu thuyết Gia đình……………………………….. 43 3.1.1. Tác giả Khái Hưng…………………………………………... 43 3.1.2. Tác phẩm Gia đình…………………………………………... 44 3.2. Gia đình và sự biến đổi mô hình tiểu thuyết Tự lực văn đoàn……. 45 3.2.1. Thế giới nhân vật với những khát vọng công danh………….. 45 3.2.2. Vấn đề dân nghèo và sự biến chất của giai cấp thống trị……. 49 3.2.3. Chống lễ giáo và đại gia đình phong kiến…………………. 53 3.2.4. Khẳng định cái tôi cá nhân, nếp sống Âu hoá……………….. 57 3.3. Nguyên nhân sự biến đổi………………………………………….. 62 3.3.1. Sự tác động của phong trào Cách mạng ……………………... 62 3.3.2. Tác động từ sự phát triển và những thành tựu của Văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945………………………………………. 63 KẾT LUẬN……………………………………………………………….. 65 TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………….. 67 Ph¹m ThÞ Yªn Footer Page 4 of 95. 4 Khoa Ng÷ v¨n Header Page 5 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp Tr­êng §¹i häc S­ ph¹m Hµ Néi 2 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Vào những năm ba mươi của thế kỉ XX, lịch sử Văn học Việt Nam chứng kiến “một cuộc hoà nhạc tân kì” (Hoài Thanh). Trong cuộc hoà nhạc ấy, có sự hiện diện của rất nhiều trào lưu, khuynh hướng và cả các tổ chức văn học. Đây thực sự là giai đoạn sôi nổi trong lịch sử Văn học Việt Nam. Nếu như ba mươi năm đầu thế kỉ là giai đoạn phôi thai cho nền văn học mới thì ở chặng sau là công việc của lớp người có sứ mệnh tiếp nối và hoàn thành. Đã có hàng loạt các tác phẩm ra đời chiếm lĩnh những đỉnh cao khiến cho văn chương 1930 - 1945 có những thành tựu nổi bật và giá trị nhiều mặt. Tháng 3 - 1933, Tự lực văn đoàn đã ra đời trong thời điểm nhạy cảm của văn học dân tộc. Có thể nói gần một thế kỉ trôi qua - một khoảng thời gian không dài đối với lịch sử dân tộc nói chung, lịch sử văn học nói riêng nhưng lại khá dài đối với một hiện tượng văn học. Trong khoảng thời gian ấy cũng như nhiều sự kiện văn học khác, số phận của văn chương Tự lực văn đoàn đã trải qua những bước thăng trầm. Vị trí của nó trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc chịu sự thử thách, phán xét, sàng lọc của thời gian và dư luận. Sự ra đời của bộ “Văn xuôi lãng mạn Việt Nam” (8 tập, 1989, Nxb Khoa học xã hội) có thể xem là một bước tiến mới trong cách nhìn nhận, đánh giá văn xuôi lãng mạn và văn chương Tự lực văn đoàn. Nguyễn Hoành Khung trong lời giới thiệu bộ sách đã viết “những sáng tác vượt qua được sự sàng lọc của thời gian, đó tất phải có chân giá trị, nếu gộp lại tất sẽ có một bức tranh toàn cảnh về thời kì văn học đặc biệt phong phú, sôi động”. Và gần đây Tự lực văn đoàn đã trở về với vị trí của nó. Các độc giả, các nhà nghiên cứu đã bình xét một cách khách quan hơn, khoa học hơn, có ý thức khai thác, tiếp nhận những giá trị của quá khứ, tìm kiếm những mạch tinh thần mới của văn chương Tự lực văn đoàn. Ph¹m ThÞ Yªn Footer Page 5 of 95. 5 Khoa Ng÷ v¨n Header Page 6 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp Tr­êng §¹i häc S­ ph¹m Hµ Néi 2 Những tác phẩm của văn đoàn có mặt ở các thể loại như: kịch, thơ, văn xuôi nhưng người ta nhắc đến nhiều hơn cả là tiểu thuyết. Tự lực văn đoàn đã có công trong việc định hình tiểu thuyết Việt Nam, đưa văn xuôi vào quỹ đạo của thời kì hiện đại với nhiều tác phẩm có giá trị, có cốt cách và nghệ thuật mới mẻ. Sáng tác của Tự lực văn đoàn là sự nghiệp của tập thể, là sự đóng góp của rất nhiều cây bút. Trong đó, Khái Hưng được xem là trụ cột của Tự lực văn đoàn, là một tiểu thuyết gia có tài, có sức viết dồi dào. Trong khoảng mười năm, Khái Hưng đã viết hàng chục cuốn tiểu thuyết và được xem là cây bút tiểu thuyết chủ lực của Tự lực văn đoàn. Nếu ở chặng đường đầu cảm hứng chủ đạo là lãng mạn thì ở chặng đường tiếp theo ông đã có những đóng góp mới. Ông không còn mơ mộng, lãng mạn ở những câu chuyện tình xa xôi mà trở về với cuộc sống thực của đời sống gia đình đang chịu những tác động của xã hội. Khái Hưng là tác giả rất am hiểu và nhạy cảm về đời sống gia đình. Các nhà nghiên cứu văn học đều đánh giá cao những đóng góp của Khái Hưng qua mảng tiểu thuyết có nội dung xã hội này. Thành công của Khái Hưng ở những mảng tiểu thuyết viết về gia đình là ông tả được chân thực không khí gia đình phong kiến đang rạn vỡ vì những xung đột kinh tế. Trong chương trình Phổ thông Trung học, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn chỉ được nhắc đến trong các bài văn học sử. Tác phẩm của họ chưa được đưa vào giảng dạy ở nhà trường. Song tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn có ý nghĩa quan trọng giúp cho chúng ta có cái nhìn so sánh, đối chiếu với các trào lưu, khuynh hướng khác giúp bài giảng thêm sâu sắc, phong phú hơn. Với tất cả những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Sự biến đổi mô hình tiểu thuyết Tự lực văn đoàn qua tiểu thuyết Gia đình của Khái Hưng” làm đề tài nghiên cứu khoá luận tốt nghiệp. Ph¹m ThÞ Yªn Footer Page 6 of 95. 6 Khoa Ng÷ v¨n Header Page 7 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp Tr­êng §¹i häc S­ ph¹m Hµ Néi 2 2. Lịch sử vấn đề Nếu như trong lịch sử Văn học Việt Nam hiện đại, vấn đề đánh giá phong trào Thơ Mới (1932 - 1942) từng là một vấn đề phức tạp thì vấn đề đánh giá Tự lực văn đoàn còn phức tạp hơn nhiều. Một trong những lý do dẫn đến tình trạng đó là vì một vài thành viên chủ chốt của Tự lực văn đoàn vào giai đoạn cuối (từ 1940 trở đi) đã chuyển từ hoạt động văn học sang hoat động chính trị, đi ngược lại lợi ích của Cách mạng. Vì vậy, việc đánh giá quá trình sáng tác của họ cũng như đánh giá vai trò, vị trí và những đóng góp của Tự lực văn đoàn trong tiến trình Văn học Việt Nam hiện đại trở nên phức tạp. Có thể chia quá trình đánh giá Tự lực văn đoàn làm hai thời kì: - Thời kì thứ nhất từ 1986 trở về trước. - Thời kì thứ hai từ 1986 đến nay. Ở thời kì thứ nhất, Tự lực văn đoàn thường được nhìn nhận bằng nhãn quan chính trị và xuất phát từ lập trường chính trị, từ quan điểm giai cấp, nhất là đối với ba nhân vật: Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng nên các nhận xét, đánh giá về hoạt động văn chương của Tự lực văn đoàn cũng như văn chương lãng mạn nói chung thường tỏ ra khe khắt, chưa thoả đáng. Mặt đóng góp của Tự lực văn đoàn có phần bị xem nhẹ, trong khi mặt tiêu cực của Tự lực văn đoàn lại bị nhấn quá nặng. Tuy nhiên trong nhiều công trình lịch sử văn học, nhiều giáo trình giảng dạy đại học, nhiều tiểu luận nghiên cứu phê bình văn học công bố trong khoảng ba mươi năm sau đó, khi đề cập đến văn chương Tự lực văn đoàn, nhất là khi đề cập đến sáng tác của Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo thì ngoài tinh thần “gạn đục khơi trong”, ý thức tìm kiếm những đóng góp của văn đoàn cho tiến trình hiện đại hoá văn học dân tộc, hầu hết các ý kiến nhận định, đánh giá tỏ ra chặt chẽ, có phần “hẹp hòi”. Nhìn chung, trong hơn ba thập kỉ từ giữa những năm năm mươi đến giữa những năm tám mươi của Ph¹m ThÞ Yªn Footer Page 7 of 95. 7 Khoa Ng÷ v¨n Header Page 8 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp Tr­êng §¹i häc S­ ph¹m Hµ Néi 2 thế kỉ này, văn chương Tự lực văn đoàn đã chịu một sự phán quyết nghiệt ngã. Có lúc, có nơi, sự phán quyết đó đẩy văn chương lãng mạn nói chung và văn chương Tự lực văn đoàn nói riêng đến nguy cơ bị phủ định. Trong cuốn “Bàn về những cuộc đấu tranh tư tưởng trong lịch sử văn học” (Nxb Khoa học xã hội, 1971) phó Giáo sư Vũ Đức Phúc đã giành cho văn chương lãng mạn, Thơ Mới và văn chương Tự lực văn đoàn những nhận xét nghiêm khắc khiến cho những giá trị của nó có phần bị giảm đi so với những cái mà ông gọi là “độc hại và tiêu cực”. Ở thời kì thứ hai, năm 1986 có thể xem là một mốc quan trọng, một cơ may lịch sử đối với nhiều hiện tượng, nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề nhìn nhận lại các giá trị văn học và văn chương Tự lực văn đoàn. Những đóng góp và hạn chế của văn chương Tự lực văn đoàn đã được nhìn nhận một cách điềm tĩnh, thấu đáo, khách quan, khoa học hơn. Trong cuốn giáo trình “Văn học Việt Nam 1900 - 1945” Giáo sư Phan Cự Đệ đã trình bày về tổ chức, hoạt động của Tự lực văn đoàn, khái quát nội dung và nghệ thuật qua một số sáng tác của tổ chức văn học này. Trong cuốn giáo trình “Lịch sử Văn học Việt Nam 1930 - 1945” Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh viết về xu hướng tiểu thuyết Tự lực văn đoàn với những phác hoạ cơ bản nhất về xu hướng này. Gần đây, trong cuốn “Tự lực văn đoàn trong tiến trình Văn học dân tộc” tác giả Mai Hương đã tập hợp những bài viết, tham luận của các nhà phê bình nghiên cứu quan tâm đến nhóm, chủ yếu là các ý kiến thừa nhận giá trị nội dung và đóng góp về mặt nghệ thuật của các cây bút tiểu thuyết. Trong chuyên luận: “Quan niệm về con người trong tiểu thuyết” (1997, Nxb Khoa học xã hội), tiến sĩ Lê Dục Tú đã khảo sát sáng tác của ba cây bút chủ lực, tiếp cận quan niệm nghệ thuật về con người đã thừa nhận: Ph¹m ThÞ Yªn Footer Page 8 of 95. 8 Khoa Ng÷ v¨n Header Page 9 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp Tr­êng §¹i häc S­ ph¹m Hµ Néi 2 “Tiểu thuyết của Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo là hiện tượng thực sự mới mẻ”. Trịnh Hồ Khoa đã đề cập tới những khía cạnh cách tân nghệ thuật trong văn xuôi của Tự lực văn đoàn qua “Những đóng góp của Tự lực văn đoàn cho Văn xuôi hiện đại Việt Nam” (Nxb Văn học, 1997). Tiến sĩ Ngô Văn Thư trong chuyên luận “Bàn về tiểu thuyết của Khái Hưng” đã đề cập đến những đóng góp to lớn của nhà văn trong tiến trình lịch sử Văn học Việt Nam hiện đại nói chung, nghệ thuật tiểu thuyết nói riêng. Trên cơ sở kế thừa và tiếp thu ý kiến của những người đi trước, chúng tôi đi sâu vào khảo sát tác phẩm Gia đình của Khái Hưng trên các phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật để làm nổi bật sự biến đổi mô hình tiểu thuyết Tự lực văn đoàn qua tiểu thuyết này của nhà văn. Chúng tôi hi vọng kết quả nghiên cứu sẽ góp phần làm cho độc giả hiểu rõ hơn về xu hướng (mô hình) tiểu thuyết Tự lực văn đoàn cùng những đóng góp và hạn chế của nó trong quá trình vận động và phát triển của nền Văn xuôi Việt Nam hiện đại nửa đầu thế kỉ XX. 3. Mục đích nghiên cứu Làm nổi bật mô hình tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Thấy được sự biến đổi của mô hình tiểu thuyết Tự lực văn đoàn qua tiểu thuyết Gia đình của Khái Hưng. Góp phần làm phong phú hơn phần giảng dạy Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Tập trung vào mô hình (xu hướng) của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Do thời gian và khuôn khổ của khoá luận, chúng tôi chỉ đi sâu vào khảo sát tác phẩm Gia đình của tác giả Khái Hưng. Ph¹m ThÞ Yªn Footer Page 9 of 95. 9 Khoa Ng÷ v¨n Header Page 10 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp Tr­êng §¹i häc S­ ph¹m Hµ Néi 2 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp thống kê, phân loại. Phương pháp so sánh, đối chiếu. Phương pháp phân tích văn học. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài - Ý nghĩa khoa học: Đề tài giúp phân biệt tiểu thuyết Tự lực văn đoàn với tiểu thuyết thuộc các khuynh hướng văn học khác. Tìm ra được sự biến đổi của mô hình tiểu thuyết Tự lực văn đoàn qua tiểu thuyết Gia đình của Khái Hưng. - Ý nghĩa thực tiễn: Góp phần giảng dạy Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 thêm phong phú sinh động. 7. Bố cục của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, thư mục tài liệu tham khảo, khoá luận được triển khai trong ba chương sau: Chương 1: Tự lực văn đoàn và quá trình vận động phát triển của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Chương 2: Mô hình tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Chương 3: Sự biến đổi mô hình tiểu thuyết Tự lực văn đoàn qua tiểu thuyết Gia đình của Khái Hưng. Ph¹m ThÞ Yªn Footer Page 10 of 95. 10 Khoa Ng÷ v¨n Header Page 11 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp Tr­êng §¹i häc S­ ph¹m Hµ Néi 2 CHƯƠNG 1 TỰ LỰC VĂN ĐOÀN VÀ QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG PHÁT TRIỂN CỦA TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN 1.1. Tổ chức Tự lực văn đoàn 1.1.1. Sự hình thành tổ chức Tự lực văn đoàn Tự lực văn đoàn là một tổ chức hoạt động và sáng tạo văn chương nổi lên từ những năm đầu của thập kỉ thứ ba thế kỉ XX. Nếu tính từ tuyên bố của Tự lực văn đoàn đăng trên Phong hoá số 87 thì văn đoàn ra đời ngày 2 - 3 1933. Nói đến Tự lực văn đoàn, người ta không thể không nói đến Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh) - người đã hầu như một mình đứng sáng lập ra văn đoàn. Năm 1930, Nguyễn Tường Tam từ Pháp trở về với bằng cử nhân Khoa học và một quan niệm mới về xã hội và văn chương. Ông thấy cần phải có một tiếng nói góp phần vào tiếng nói chung của văn học đang có sự chuyển biến. Nhất Linh là một trí thức Tây học, ông hiểu rõ sự cũ kĩ, lỗi thời của quan niệm đã ăn sâu vào máu thịt của người Việt Nam. Chính vì vậy, năm 1933 ông quyết định thành lập nhóm Tự lực văn đoàn với chủ trương cách tân văn học, một mặt đấu tranh cho giải phóng cá nhân, coi cá nhân là cơ sở của xã hội, mặt khác đấu tranh cho sự trong sáng của ngôn ngữ và hoạt động hoá các thể loại văn học. Tự lực văn đoàn gồm các thành viên Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam); Khái Hưng (Trần Khánh Giư); Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long); Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân); Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ); Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu); Trần Tiêu và Xuân Diệu, ngoài ra văn đoàn còn có đội ngũ cộng tác viên đông đảo như Huy Cận, Đoàn Phú Tứ, Trọng Lang…. Các hoạ sĩ: Ngô Gia Phú, Nguyễn Cát Tường, Tô Ngọc Vân. Các ngôi sao (8 người) của văn đoàn đều toả sáng, mỗi người một cách, nhưng nhóm trung tâm hoạt động của Ph¹m ThÞ Yªn Footer Page 11 of 95. 11 Khoa Ng÷ v¨n Header Page 12 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp Tr­êng §¹i häc S­ ph¹m Hµ Néi 2 văn đoàn là Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo và đóng góp chính là văn xuôi, đặc biệt là tiểu thuyết. Lấy tên là “Tự lực”, họ có ý thức tự sức mình gây lấy một cơ sở chứ không cậy nhờ bàn tay chính phủ hoặc một thế lực tài chính nào đó, do đó có tư cách độc lập không tuân theo một chỉ thị nào, ngoài đường lối họ tự vạch ra. Tất cả các văn nghệ sĩ tập hợp dưới mái nhà văn đoàn tha hồ vẫy vùng sức viết, cởi trói cái tôi cá nhân mãnh liệt của mình để viết lên những tác phẩm lãng mạn đầy ngọt ngào say đắm. Tự lực văn đoàn ra đời với mong ước được góp phần vào sự phát triển xã hội trong lĩnh vực hoạt động về tư tưởng và văn hoá, văn nghệ. Văn đoàn khao khát những đổi thay và cách tân thực trạng của những hoàn cảnh sống và sinh hoạt tư tưởng trì trệ của xã hội Việt Nam. Tự lực văn đoàn đã có đóng góp lớn vào nghệ thuật tiểu thuyết, vào tính hiện đại của tiểu thuyết, đóng góp vào tiếng nói và câu văn của dân tộc với lối văn trong sáng và rất Việt Nam. 1.1.2. Tôn chỉ, mục đích của tổ chức Khi nghiên cứu giới thiệu về Tự lực văn đoàn, ai cũng nói đây là tổ chức hoạt động có tôn chỉ mục đích và xem đây là một trong những lý do dẫn đến hiệu quả của các hoạt động văn chương Tự lực văn đoàn, đến sự thống nhất trong nội dung tư tưởng và những đặc điểm về phong cách của văn đoàn. Tháng 3 - 1933, khi Tự lực văn đoàn chính thức được thành lập “tổ chức họp những người đồng chí trong văn giới, người trong đoàn đối với nhau cốt có liên lạc về tinh thần, cùng theo đuổi một tôn chỉ, hết sức giúp nhau để đạt được mục đích chung, hết sức che chở nhau trong những công cuộc có tính cách văn chương”. Tổ chức hướng sáng tác theo tôn chỉ gồm mười điều sau: Ph¹m ThÞ Yªn Footer Page 12 of 95. 12 Khoa Ng÷ v¨n Header Page 13 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp Tr­êng §¹i häc S­ ph¹m Hµ Néi 2 1. Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ không phiên dịch sách nước ngoài nếu những sách này chỉ có tính cách văn chương thôi: mục đích là để làm giàu thêm văn sản trong nước. 2. Soạn hay dịch những cuốn sách có tư tưởng xã hội. Chú ý làm cho người và cho xã hội ngày một hay hơn lên. 3. Theo chủ nghĩa bình dân, soạn những cuốn sách có tính cách bình dân và cổ động cho người khác yêu chủ nghĩa bình dân. 4. Dùng một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ Nho, một lối văn thật có tính cách An Nam. 5. Lúc nào cũng mới mẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ. 6. Ca tụng những nét hay vẻ đẹp của nước mà có tính cách bình dân, khiến cho người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân. Không có tính cách trưởng giả mà quý phái. 7. Trọng tự do cá nhân. 8. Làm cho người ta biết đạo Khổng không hợp thời nữa. 9. Đem phương pháp khoa học Thái Tây ứng dụng vào văn chương Việt Nam. 10. Theo một trong chín điểm này cũng được miễn là đừng trái ngược với những điều khác. Tôn chỉ của văn đoàn nhìn chung là tiến bộ khi nói đến tình cảm dân tộc trong văn chương, ý thức về tự do cá nhân và sự quan tâm đến vấn đề bình dân. Tuy nhiên các điều trong tôn chỉ bộc lộ tính nửa vời, chưa thật tập trung theo một quan điểm tiến bộ có hệ thống và căn cứ thực tế. 1.1.3. Cơ quan ngôn luận Tự lực văn đoàn không chỉ hoạt động độc lập công khai mà còn có cơ quan ngôn luận riêng, nhà xuất bản riêng. Trước khi mua tờ Phong hoá từ tay Phạm Hữu Ninh và Nguyễn Xuân Mai thì Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Ph¹m ThÞ Yªn Footer Page 13 of 95. 13 Khoa Ng÷ v¨n Header Page 14 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp Tr­êng §¹i häc S­ ph¹m Hµ Néi 2 Lam, Khái Hưng và Tú Mỡ đã bàn nhau ra tờ báo Tiếng cười để thực hiện các tư tưởng chính trị xã hội và văn chương của mình. Nhưng Nhất Linh không xin được giấy phép, giữa lúc đó thì tờ Phong hoá có nguy cơ đình bản vì thua lỗ. Nhất Linh đã mua lại báo Phong hoá và in số đầu tiên tháng 7 1932. Tuy đến lúc này cái tên Tự lực văn đoàn chưa ra đời nhưng tổ chức nòng cốt của Tự lực văn đoàn đã hình thành, trên thực tế báo Phong hoá trở thành cơ quan ngôn luận đầu tiên của văn đoàn. Ngay từ những số đầu tiên, Phong hoá đã góp những tiếng nói nhiệt thành cổ vũ cho phong trào Thơ Mới, tấn công vào thơ cũ và triển khai tất cả các mục trên báo. Tờ báo như một trái bom mang lại cho xã hội Việt Nam một món quà người ta chưa hề thưởng thức là “cái cười”. Cái cười đã giúp họ chinh phục độc giả, giúp họ thực hiện tôn chỉ của tổ chức, đả phá những tục lệ cổ, đả đảo những nhân vật thời danh khoác cho mình một nét vẽ hài hước. Người đọc mua cười lấy làm vui nhưng người bị cười tất nhiên không vui chút nào, nhất là những người có quyền thế. Cho nên tuần báo vấp phải sự cản trở và năm 1936 Phong hoá bị đóng cửa vĩnh viễn. Có rất nhiều tài liệu sách báo hiện nay nói rằng đến năm 1936 khi tờ Phong hoá bị đình bản thì tờ Ngày nay trở thành cơ quan ngôn luận tiếp theo của tổ chức. Điều này không có nghĩa là tờ Ngày nay được thành lập ngay sau sự kiện đó. Trước đó một thời gian khi tờ Phong hoá đang hoạt động và có ảnh hưởng lớn, động chạm đến chính quyền thực dân, Nhất Linh đã lường trước được tình hình nên bàn với nhóm ra thêm tờ Ngày nay. Tờ Ngày nay ra đời vẫn chỉ theo đuổi một tôn chỉ là coi đời bằng một con mắt vui vẻ và phấn đấu, song theo một phương pháp khác với phương pháp trào phúng: “Chúng tôi sẽ đưa bạn đi từ rừng đến bể, từ thành thị đến thôn quê, xem các trạng thái hiện có trong xã hội”. Theo Tú Mỡ nội dung của Phong hoá dần chuyển Ph¹m ThÞ Yªn Footer Page 14 of 95. 14 Khoa Ng÷ v¨n Header Page 15 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp Tr­êng §¹i häc S­ ph¹m Hµ Néi 2 sang Ngày nay nhưng dưới một hình thức khác, trên cơ sở sát nhập và đổi tên các mục. Ngoài hai tờ báo trên, văn đoàn còn thành lập nhà xuất bản Đời nay. Đây là nhà xuất bản có tổ chức quy củ, có máy in tốt, các họa sĩ trình bày đẹp. Mới đầu Đời nay chỉ xuất bản những sách của văn đoàn, sau đó họ mở rộng ra xuất bản cả những sách được giải thưởng Tự lực văn đoàn hoặc sách của nhà văn mà họ công nhận giá trị, không sai ngược với tôn chỉ của mình như tiểu thuyết của Nguyên Hồng, Nguyễn Khắc Mẫn, thơ của Anh Thơ, Tế Hanh. Không những văn chương được ưa chuộng mà sách được trình bày dưới con mắt của Nguyễn Tường Tam cũng mới hẳn, có mỹ thuật, từ bìa ngoài đến trang trong khác hẳn với cách luộm thuộm cổ lỗ của các thư quán thương mại bấy giờ. Lần đầu tiên ở nước ta có một nhà xuất bản theo đuổi mục đích văn học, làm việc dưới một tôn chỉ văn học, giúp văn đoàn truyền bá rộng rãi những tác phẩm cùng với tư tưởng, quan niệm của văn đoàn. Đến năm 1940 tờ Ngày nay đóng cửa song nhà xuất bản vẫn tiếp tục công việc phổ biến sách của họ. 1.1.4. Kết luận Tự lực văn đoàn hoạt động vẻn vẹn trong mười năm (1932 - 1942) có thể tính từ ngày tờ Phong hoá ra đời và kết thúc vào ngày Thạch Lam mất. Trong mười năm hoạt động những người trong nhóm đã hoán cải bộ mặt xã hội ở hai phương diện tư tưởng và văn học. Trong phạm trù ý thức Tư sản, Tự lực văn đoàn đã nói lên những khát vọng dân tộc dân chủ của đông đảo quần chúng, chủ yếu là của tầng lớp tiểu Tư sản trí thức và viên chức thành thị. Họ có hoài bão về một nền văn hoá dân tộc và thực sự đã có đóng góp lớn cho nền văn học dân tộc. Hoạt động văn chương lúc đó là chuyện sang trọng, thiêng liêng, là lý tưởng sống của một Ph¹m ThÞ Yªn Footer Page 15 of 95. 15 Khoa Ng÷ v¨n Header Page 16 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp Tr­êng §¹i häc S­ ph¹m Hµ Néi 2 lớp người. Không làm được Cách mạng thì làm văn chương, gửi tâm sự yêu nước vào lòng yêu quê hương, yêu Tiếng Việt. Cho nên người ta đã đi vào văn chương với tất cả niềm say mê và tâm huyết của mình. Tự lực văn đoàn đã góp phần rất quan trọng vào việc cách tân văn học, xây dựng một nền Văn học Việt Nam hiện đại. Những tư tưởng, những quan niệm cũ dần dần mất cả sự uy nghi lẫm liệt, tất rồi cũng phải theo thời gian mà bị phá tan, nhường chỗ cho những quan niệm mới, những lý tưởng mới. Tuy là một văn đoàn chỉ có tám thành viên nhưng tổ chức ngoài việc sáng tác văn chương còn đảm nhiệm nhiều hoạt động hỗ trợ, quan trọng là báo chí, xuất bản và tổ chức giải thưởng Tự lực văn đoàn. Ở lĩnh vực nào họ cũng tạo được hiệu quả. Tờ Phong hoá và Ngày nay là một trong những trung tâm quan trọng của công cuộc đổi mới văn học, là vườn ươm, giới thiệu và nâng đỡ hàng loạt tài năng mới như: Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh, Anh Thơ, Nguyên Hồng…. Nhà xuất bản Đời nay được xem là một cơ quan xuất bản đứng đắn không chạy theo lợi nhuận và cho ra đời nhiều tác phẩm có giá trị. Giải thưởng Tự lực văn đoàn hai năm trao giải một lần vào các năm 1935; 1937; 1939. Giải thưởng này không trao cho các thành viên thuộc Tự lực văn đoàn. Nó có tác dụng phát hiện trong phong trào sáng tác văn học, những tác phẩm tiêu biểu cho dù là những cây bút mới xuất hiện. Giải thưởng Tự lực văn đoàn được bạn đọc tin cậy và qua sự lắng lại của thời gian càng thể hiện rõ tính chuẩn xác và hiệu quả. Điều chúng ta ghi nhận đó là thành tựu của một hoạt động của văn đoàn. Động cơ của việc tổ chức và trao giải là tìm kiếm người tài năng, thái độ là vô tư khách quan không thiên vị và sự đánh giá là tương đối sát đúng với tác phẩm và phong trào. Tổ chức ra đời, tồn tại và phát triển có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Văn học Việt Nam những năm ba mươi. Từ đây tiểu thuyết, Ph¹m ThÞ Yªn Footer Page 16 of 95. 16 Khoa Ng÷ v¨n Header Page 17 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp Tr­êng §¹i häc S­ ph¹m Hµ Néi 2 truyện ngắn, thi ca hiện đại đã chiếm lĩnh trận địa góp phần tạo nên sự chuyển biến về chất lượng văn học từ những năm hai mươi sang những năm ba mươi. Sự đóng góp của Tự lực văn đoàn vào thắng lợi của văn học trong khoảng thời gian này là chủ động và tích cực. Về mặt này các nhà văn hoạt động độc lập hay các nhóm văn học khác không thành công được, không cống hiến được nhiều như vậy. 1.2. Quá trình vận động và phát triển của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn Trong khoảng trên dưới mười năm hoạt động, Tự lực văn đoàn đã có công lớn trong việc đổi mới nền văn học, góp phần quan trọng vào việc xây dựng một nền văn học Việt Nam hiện đại. Hoạt động của Tự lực văn đoàn rất phong phú, trong đó hoạt động sáng tác văn chương là chủ yếu. Người ta hay nhắc đến tiểu thuyết Tự lực văn đoàn như một thành công mới đem lại cho Văn học Việt Nam những năm ba mươi. Tiểu thuyết lãng mạn do các cây bút chủ lực của văn đoàn sáng tác rất phù hợp với khẩu vị của độc giả, thoả mãn nhu cầu của tầng lớp cư dân thành thị vốn chịu nhiều thất bại trong cuộc đời. Chúng ta có thể chia sự vận động, phát triển của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn làm ba thời kì: 1.2.1. Thời kì 1932 - 1935 1.2.1.1. Lịch sử xã hội Đây là thời kì thoái trào Cách mạng diễn ra từ sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái và phong trào Cách mạng 1930 - 1931, đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh do Đảng cộng sản lãnh đạo. Một không khí u ám bao trùm toàn xã hội. Các tầng lớp trí thức Tư sản, tiểu Tư sản hết sức hoang mang. Thực dân Pháp một mặt khủng bố Cách mạng, một mặt thấy cần thiết phải làm cho bầu không khí bức bối, ngột ngạt có chỗ cần được xả hơi. Vì thế chúng khuyến khích các phong trào thể dục thể thao, các cuộc chợ phiên, thi sắc đẹp, các mốt y phục mới, các trò hưởng lạc và văn chương lãng mạn. Ph¹m ThÞ Yªn Footer Page 17 of 95. 17 Khoa Ng÷ v¨n Header Page 18 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp Tr­êng §¹i häc S­ ph¹m Hµ Néi 2 1.2.1.2. Thành tựu văn học Khái Hưng, Nhất Linh lần lượt cho ra đời các tác phẩm Hồn bướm mơ tiên, gánh hàng hoa, Nửa chừng xuân (Khái Hưng), Đoạn tuyệt, Lạnh lùng (Nhất Linh). Các tác phẩm trên đều đề cập đến tình yêu đôi lứa. Đó là một mối tình lý tưởng của Lan và Ngọc tận hưởng tình yêu giữa cảnh thiên nhiên thơ mộng (Hồn bướm mơ tiên), đó còn là tình yêu của một cô gái quê trẻ đẹp ngây thơ, dùng hết lòng hi sinh và nhẫn nại để gây dựng một hạnh phúc êm đềm của một gia đình suýt nữa bị tan vỡ bởi một tai nạn bất ngờ (Gánh hàng hoa). Tất cả những cuốn truyện đó đều nhân danh chủ nghĩa nhân đạo, tinh thần dân chủ, nhân danh văn minh tiến bộ để chống lại lễ giáo phong kiến. Nó đấu tranh cho luyến ái và hôn nhân tự do. Nó đặc biệt yêu cầu giải phóng phụ nữ khỏi sự áp bức của chế độ phong kiến, gia trưởng. Tóm lại, nó đem đến cho chủ nghĩa cá nhân màu sắc hấp dẫn của chủ nghĩa nhân văn, của chính nghĩa. 1.2.2. Thời kì 1936 - 1939 1.2.2.1. Lịch sử xã hội Đây là thời kì Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Ở một nước thuộc địa như nước ta vấn đề dân chủ thực chất là vấn đề dân cày. Trong thời gian này, chính quyền thực dân tạm thời phải bỏ chế độ kiểm duyệt sách báo, văn học vô sản có điều kiện hoạt động công khai. Trên cơ sở phong trào Dân chủ rộng lớn và điều kiện sáng tác thoả mái hơn. Trong bộ phận văn học Tư sản, tiểu Tư sản, xu hướng hiện thực phê phán, xu hướng lãng mạn phát triển và đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Nhiều vấn đề cơ bản của xã hội được đặt ra trên tinh thần dân chủ, đặc biệt là vấn đề nông dân. 1.2.2.2. Thành tựu văn học Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn phải thích nghi trước hoàn cảnh lịch sử của đất nước. Họ nhận thấy sự cần thiết phải thay đổi đề tài. Vấn đề chống lễ Ph¹m ThÞ Yªn Footer Page 18 of 95. 18 Khoa Ng÷ v¨n Header Page 19 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp Tr­êng §¹i häc S­ ph¹m Hµ Néi 2 giáo phong kiến, phê phán tính chất hủ bại của gia đình quan lại vẫn được đặt ra. Tuy nhiên người ta thấy những chàng và nàng của Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo tự đặt mình vào môi trường nông thôn, trong quan hệ với nông dân nghèo như Trống mái, Gia đình (Khái Hưng), Con đường sáng (Hoàng Đạo). Họ đưa ra một số tiểu thuyết luận đề nhằm vạch con đường sáng cho người trí thức giàu có đi về nông thôn, kinh doanh đồn điền theo lối văn minh để một mặt hưởng thụ cái thi vị của cảnh sắc thôn quê, mặt khác thi hành những biện pháp giảm bớt đau khổ cho tá điền, giảm thuế, mở chợ, mở trường học. Vào thời điểm tương đối dễ thở của thời kì Mặt trận Dân chủ Đông Dương, những ảo tưởng trên đã đem đến cho tiểu thuyết Tự lực văn đoàn một niềm lạc quan tin tưởng. 1.2.3. Thời kì 1940 - 1945 1.2.3.1. Lịch sử xã hội Đây là thời kì Mặt trận Dân chủ Đông Dương chấm dứt (tháng 9 1939). Đại chiến thế giới thứ hai bùng nổ, phát xít Nhật vào Đông Dương, Nhật – Pháp tranh giành nhau, Đảng cộng sản bị khủng bố nhưng phong trào Việt Minh được phát động. Nhiều đảng phái thân Nhật, thân Pháp mọc lên. Sự vơ vét tàn bạo của bọn thực dân, phát xít dẫn đến nạn đói khủng khiếp năm 1945. Chế độ kiểm duyệt sách báo được lặp lại và trở nên nặng nề hơn. Hoạt động văn hoá, văn học gặp nhiều khó khăn. Nhiều nhà văn bị bắt giam với những lý do khác nhau, trong đó có Khái hưng, còn Nhất Linh, Hoàng Đạo phải trốn sang Nhật. Tóm lại, sự hỗn loạn của lịch sử xã hội đã làm lung lay dữ dội đến những tháp ngà cao nhất và yên tĩnh nhất của văn chương lãng mạn. Những Ph¹m ThÞ Yªn Footer Page 19 of 95. 19 Khoa Ng÷ v¨n Header Page 20 of 95. Khãa luËn tèt nghiÖp Tr­êng §¹i häc S­ ph¹m Hµ Néi 2 ảo tưởng cải cách xã hội, xây dựng văn hoá, đấu tranh cho hạnh phúc cá nhân… của Tự lực văn đoàn đều tan biến. 1.2.3.2. Thành tựu văn học Trong tâm trạng bi quan bế tắc Nhất Linh, Khái Hưng đã ném ra một thứ chủ nghĩa vô luân đồi bại. Chủ nghĩa cá nhân của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn bây giờ không gắn với đạo lý, nhân nghĩa hay một cải cách xã hội nào nữa. Những mối tình trong sáng trong Hồn bướm mơ tiên; Nửa chừng xuân; Đoạn tuyệt; Gia đình; Trống mái; Con đường sáng… không còn. Từ 1942; 1943 trở đi Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo ngừng sáng tác. Họ chuyển sang hoạt động chính trị phản động. Xu hướng tiểu thuyết viết theo mô hình trình bày ở trên có thể coi như chấm dứt. Như vậy tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn là tiểu thuyết lãng mạn Tư sản Việt Nam trên văn đàn công khai những năm ba mươi có tuổi đời ngắn ngủi. Bắt đầu có ưu thế, có ảnh hưởng nhất định trong giới trí thức nhờ những tư tưởng tiến bộ nhưng càng về sau, tiểu thuyết bộc lộ sự sa sút trong tư tưởng khiến những tác phẩm ấy không còn nguyên giá trị. Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn vốn đã bệnh tật nay càng bộc lộ rõ chủ nghĩa cá nhân hưởng lạc, ích kỉ. Đây là một thực tế không tránh khỏi của một quan niệm văn chương lạc lõng với đời sống xã hội lúc bấy giờ. Đó còn là số phận chung cho một trào lưu văn học lãng mạn yếu đuối chưa tìm được chỗ đứng thực sự trong tình cảm của độc giả. Hoàn cảnh xã hội ít chắp cánh cho mơ ước, những nguyên tắc đạo lý bị phá vỡ và mất ý nghĩa thiêng liêng. Tính chất thực dụng và thế lực của đồng tiền chi phối đời sống xã hội. Con người trong xã hội cũng như nhân vật của tiểu thuyết bị xô đẩy, trôi dạt về nhiều ngả và không có hướng giải thoát. Tự lực văn đoàn chấm dứt dần hoạt động của mình trong thời điểm này, chấm dứt trào lưu lãng mạn trong văn xuôi vốn đã có những năm tháng huy hoàng trên văn đàn thời hiện đại. Ph¹m ThÞ Yªn Footer Page 20 of 95. 20 Khoa Ng÷ v¨n
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất