MỤC LỤC
Trang
1. TÊN ĐỀ TÀI ................................................................................................1
2. PHẦN MỞ ĐẦU ..........................................................................................1
2.1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................1
2.2. Mục đích nghiên cứu ...........................................................................1
2.3. Đối tượng nghiên cứu .........................................................................1
2.4. Đối tượng khảo sát, thực nghiệm ........................................................1
2.5. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................1
2.6. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu ........................................................2
3. NỘI DUNG ..................................................................................................2
3.1. Cơ sở lý luận: ......................................................................................2
3.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu .............................................................2
3.3. Mô tả, phân tích các giải pháp ............................................................3
3.4. Kết quả thực hiện ................................................................................9
4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................10
4.1. Kết luận chung ..................................................................................10
4.2. Kiến nghị: ..........................................................................................10
5. TÀI LIỆU THAM KHẢO: ........................................................................11
0
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học đã và đang được áp dụng ở nhiều
nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới và mới đây đã được nghiên cứu và
áp dụng ở Việt Nam nhằm giúp giáo viên truyền thụ kiến thức một cách sinh
động hơn, hệ thống và mô hình hóa để học sinh có thể học, tự học tích cực, có
một tư duy tổng thể về bài học, giúp học sinh dễ hiểu, dễ ghi nhớ, dễ vận dụng
kiến thức. Từ kiến thức được diễn đạt trong nhiều trang sách và cả vận dụng
thực tế, BĐTD giúp tinh lọc lại chỉ còn trong một sơ đồ, và ngược lại, từ sơ đồ
này, học sinh hình dung, liên tưởng và phát triển kiến thức một cách logic và
đầy tính sáng tạo. Sử dụng BĐTD yêu cầu học sinh phải tự suy nghĩ để thiết lập
nội dung bài học theo cách hiểu của mình nên BĐTD thực sự là một công cụ
chống “đọc -chép”, “học vẹt” rất hiệu quả.
Bản đồ tư duy được mệnh danh “công cụ vạn năng cho bộ não”,
là phương pháp ghi chú đầy sáng tạo, hiện đang được hơn 250 triệu người trên
thế giới sử dụng, đã và đang đem lại những hiệu quả thực sự đáng kinh ngạc,
nhất là trong lĩnh vực giáo dục và kinh doanh. Lập bản đồ tư duy là một cách
thức cực kỳ hiệu quả để ghi chú. Các bản đồ tư duy không chỉ cho thấy các
thông tin mà còn cho thấy cấu trúc tổng thể của một chủ đề và mức độ quan
trọng của những phần riêng lẻ trong đó đối với nhau. Nó giúp chúng ta liên kết
các ý tưởng và tạo các kết nối với các ý khác.
Qua quá trình nghiên cứu, áp dụng vào việc dạy và học trong nhà trường,
bản thân tôi thật sự tâm đắc với phương pháp Sử dụng bản đồ tư duy trong quá
trình dạy học. Bởi vì không chỉ lôi cuốn, hấp dẫn với học sinh, mà nó còn là một
PPDH rất hiệu quả, rất khoa học, rất dễ sử dụng và có thể sử dụng rộng rãi ở tất
cả các khâu trong quá trình dạy học mà nhất là rất cần thiết trong việc đổi mới
phương pháp giảng dạy môn Tin học. Với những lí do trên, tôi chọn đề tài:
Nâng cao hiệu quả dạy học Tin học lớp 6 bằng cách sử dụng “Bản đồ tư
1
duy” để cùng trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm với các bạn đồng nghiệp trong và
ngoài trường.
2. Lịch sử vấn đề
Trong những năm qua
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Học sinh đang học lớp 6 tại Trường TH&THCS Triệu Nguyên, huyện
Đakrông, Quảng Trị.
4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
Nhằm tìm ra phương pháp, kỹ thuật dạy học mới để giúp phát huy tối đa
năng lực, khả năng sáng tạo và góp phần hình thành nhân cách học sinh.
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Đóng góp của SKKN
7. Cấu trúc nội dung của SKKN
PHẦN 2. NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu
1.1.
Cơ sở lí luận
1.2.
Cơ sở thực tiễn
Chương 2. Nội dung, giải pháp
2.1. asklfk f
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm
PHẦN 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO
2
2.2. Mục đích nghiên cứu:
2.3. Đối tượng nghiên cứu:
2.4. Đối tượng khảo sát, thực nghiệm.
- Đối tượng khảo sát: học sinh lớp 6 năm học 2013-2014
- Đối tượng thực nghiệm: học sinh lớp 6 năm học 2014-2015
2.5. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp quan sát: Là phương pháp thu thập thông tin bằng cách tri
giác trực tiếp.
Phương pháp điều tra: Là phương pháp thu thập các sự kiện trên cơ sở sự
trả lời bằng văn bản của học sinh trong trường về học tập có sử dụng bản đồ tư
duy.
Phương pháp tổng hợp tài liệu: Là phương pháp tìm hiểu những người đi
trước có liên quan đến đề tài như thế nào? Đã giải quyết như thế nào? Liên quan
đến đâu...
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Là phương pháp kết hợp lý luận với
thực tiễn tại trường, đem lý luận phân tích kinh nghiệm của thực tiễn rồi từ
những phân tích đó rút ra kết luận những bài học thành công và thất bại, những
phát hiện mới và phát triển hoàn thiện.
2.6. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu: từ tháng 8 năm 2014 đến tháng 3
năm 2015.
3. NỘI DUNG:
3.1. Cơ sở lý luận:
Ngày 05/5/2006, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã ban hành Quyết định số
16/2006/BGD&ĐT nêu rõ những định hướng đổi mới phương pháp giáo
dục, tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên thực hiện việc đổi mới PPDH.
Trong những năm qua, Bộ GD&ĐT đã trực tiếp chỉ đạo việc thực hiện đổi
mới PPDH, đổi mới kiểm tra, đánh giá theo hướng phát huy tính tích cực, chủ
3
động, sáng tạo của học sinh. Trong đó, yêu cầu giáo viên tăng cường tổ chức các
hoạt động nhận thức cho học sinh, hướng dẫn phương pháp tự học cho học sinh.
Năm học 2014 - 2015 là năm học đầu tiên thực hiện Nghị quyết số 29NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban chấp hành Trung ương về “Đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế”.
3.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Trong các năm học gần đây hầu hết đội ngũ giáo viên THCS ở các trường
trong tỉnh, trong huyện Đakrông đã được tham dự các lớp tập huấn, bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ về đổi mới PPDH do Sở, Phòng Giáo dục và Đào tạo tổ
chức, nội dung triển khai một số phương pháp, kĩ thuật dạy học mới, trong đó có
việc sử dụng bản đồ tư duy (BĐTD) vào giảng dạy (tập huấn năm 2011). Có thể
khẳng định rằng đây là một trong những PPDH rất quan trọng, vừa rất mới mẻ,
rất hiện đại, lại có tính khả thi cao, đang được nhiều nước trên thế giới áp dụng.
Ở nước ta, cũng có nhiều tỉnh thành đưa PPDH bằng BĐTD vào dạy học và
cũng đã đem lại nhiều kết quả tốt. Qua việc tìm hiểu và vận dụng PPDH bằng
BĐTD trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy PPDH này đã thật sự đem lại hiệu
quả cho học sinh trong quá trình tiếp thu, lĩnh hội tri thức. Giúp học sinh có sự
yêu thích, đam mê đối với bộ môn, đồng thời đem đến cho các em học sinh cái
nhìn mới, cách tư duy mới, sự hưng phấn, lôi cuốn học sinh trong quá trình tiếp
thu, lĩnh hội, chinh phục tri thức.
Tuy nhiên, việc ứng dụng BĐTD trong quá trình dạy học đang còn là vấn
đề còn khó khăn, lúng túng đối với nhiều giáo viên. Họ tỏ ra băn khoăn không
biết sử dụng BĐTD như thế nào trong quá trình dạy học, sử dụng vào lúc nào thì
thích hợp. Cách thức thiết kế một BĐTD, hướng dẫn cách sử dụng cho học sinh
ra sao?... Nhất là đối với những giáo viên cao tuổi và những giáo viên chưa quen
với việc ứng dụng Công nghệ thông tin, trình độ Tin học còn hạn chế.
3.3. Mô tả, phân tích các giải pháp
4
3.3.1. Tìm hiểu về bản đồ tư duy
a. Khái niệm BĐTD
“Bản đồ tư duy” hay còn gọi là “Lược đồ tư duy”, “Sơ đồ tư duy” là
PPDH chú trọng đến cơ chế ghi nhớ, dạy cách học, cách tự học nhằm tìm tòi,
đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến
thức,... bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc,
chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt, đây là một dạng sơ đồ mở, không yêu
cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, các em có thể vẽ thêm hoặc bớt các
nhánh, mỗi em có thể vẽ một kiểu khác nhau, dùng những màu sắc, hình ảnh,
chữ viết và các cụm từ diễn đạt khác nhau,... Tuy cùng một chủ đề nhưng mỗi
em có thể “thể hiện” nó dưới dạng Sơ đồ tư duy theo cách riêng của mình. Do
đó, việc lập Sơ đồ tư duy phát huy tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người.
b. Cấu tạo BĐTD
- Ở giữa BĐTD là một hình ảnh trung tâm (hay một cụm từ) khái quát chủ
đề.
- Gắn liền với hình ảnh trung tâm là các nhánh cấp 1 mang các ý chính
làm rõ chủ đề.
- Phát triển các nhánh cấp 1 là các nhánh cấp 2 mang các ý phụ làm rõ
mỗi ý chính.
- Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục để cụ thể hóa chủ đề, nhánh càng xa trung
tâm thì ý càng cụ thể, chi tiết. Có thể nói, BĐTD là một bức tranh tổng thể, một
mạng lưới tổ chức, liên kết khá chặt chẽ theo cấp độ để thể hiện một nội dung,
một đơn vị kiến thức nào đó.
5
Ảnh minh họa cấu tạo “Bản đồ tư duy”
c. Các bước thiết kế một BĐTD
Để thiết kế một BĐTD dù vẽ thủ công trên bảng, trên giấy,... hay trên
phần mềm Mind Map, chúng ta đều thực hiện theo thứ tự các bước sau đây:
Bước 1. Bắt đầu từ trung tâm với từ, cụm từ thể hiện chủ đề.
Bước 2. Từ hình ảnh trung tâm (chủ đề) chúng ta cần xác định: để làm rõ
chủ đề, thì ta đưa ra những ý chính nào. Sau đó, ta phân chia ra những ý chính,
đặt tiêu đề các nhánh chính, nối chúng với trung tâm.
Bước 3. Ở mỗi ý chính, ta lại xác định cần đưa ra những ý nhỏ nào để
làm rõ mỗi ý chính ấy. Sau đó, nối chúng vào mỗi nhánh chính. Cứ thế ta triển
khai thành mạng lưới liên kết chặt chẽ.
Bước 4. Cuối cùng, ta dùng hình ảnh (vẽ hoặc chèn) để minh họa cho các
ý, tạo tác động trực quan, dễ nhớ.
d. Quy trình tổ chức hoạt động vẽ BĐTD trên lớp
Hoạt động 1: Cho học sinh lập BĐTD theo nhóm hay cá nhân thông qua
gợi ý của giáo viên.
Hoạt động 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo,
thuyết minh về BĐTD mà nhóm mình đã thiết lập.
6
Hoạt động 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện
BĐTD về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài
giúp học sinh hoàn chỉnh BĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một BĐTD mà giáo viên đã chuẩn
bị sẵn hoặc một BĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học
sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó.
e. Những tiện ích của việc sử dụng Sơ đồ tư duy trong dạy học
So với các cách thức ghi chép truyền thống thì phương pháp dùng BĐTD
có những điểm vượt trội như sau:
- Ý chính sẽ ở trung tâm và được xác định rõ ràng.
- Quan hệ giữa mỗi ý được chỉ ra tường tận. Ý càng quan trọng thì sẽ nằm
vị trí càng gần với ý chính.
- Liên hệ giữa các khái niệm then chốt sẽ được tiếp nhận lập tức bằng thị
giác.
- Ôn tập và ghi nhớ sẽ hiệu quả và nhanh hơn.
- Thêm thông tin dễ dàng hơn bằng cách vẽ chèn thêm vào bản đồ.
- Mỗi bản đồ sẽ phân biệt nhau tạo sự dễ dàng cho việc gợi nhớ.
- Các ý mới có thể được đặt vào đúng vị trí trên hình một cách dễ dàng,
bất chấp thứ tự của sự trình bày, tạo điều kiện cho việc thay đổi một cách nhanh
chóng và linh hoạt cho việc ghi nhớ.
- Có thể tận dụng hỗ trợ của các phần mềm trên máy tính.
Tóm lại, việc sử dụng bản đồ tư duy trong quá trình dạy học sẽ giúp cho
học sinh:
1. Tăng sự hứng thú trong học tập.
2. Phát huy khả năng sáng tạo, năng lực tư duy của các em.
3. Tiết kiệm thời gian.
7
4. Nhìn thấy được bức tranh kiến thức một cách tổng thể.
5. Dễ ghi nhớ nội dung
6. Thể hiện phong cách cá nhân, dấu ấn riêng của mỗi em.
3.3.2. Sử dụng BĐTD trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy học
a. Làm quen với BĐTD
* Đối với giáo viên
Ngoài việc tham dự các lớp tập huấn bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ có
liên quan đến việc đổi mới PPDH, giáo viên cần nghiên cứu kĩ những tài liệu
liên quan đến việc hướng dẫn sử dụng BĐTD và phần mềm vẽ BĐTD Mind
Map để có những kiến thức cơ bản về nó: hiểu biết về BĐTD, cấu tạo, vai trò,
tiện ích, phương pháp tạo lập, thiết kế, việc sử dụng nó trong quá trình dạy học...
đồng thời giáo viên cần đầu tư thời gian vào việc tập vẽ, cả vẽ trên giấy và trên
phần mềm máy tính. Sau khi đã hiểu kĩ, nắm chắc về vai trò, công dụng của
BĐTD, sử dụng thành thạo phần mềm, nắm vững phương pháp vẽ một BĐTD,
thì việc ứng dụng nó vào quá trình dạy học là việc dễ dàng.
* Đối với học sinh
Để có thể sử dụng tốt và phát huy một cách có hiệu quả BĐTD trong quá
trình dạy học, trước hết, chúng ta cần cho học sinh làm quen với một số sơ đồ tư
duy có sẵn, để giúp các em có cái nhìn khái quát, làm quen với BĐTD. Đây là
bước chuẩn bị hết sức quan trọng. Tuy nhiên, rất nhiều giáo viên bỏ qua bước
này hoặc giới thiệu một cách rất sơ sài, qua loa. Vì thế, học sinh chưa hiểu biết
cặn kẽ, cụ thể về nó, chưa nắm vững phương pháp tạo lập, chưa có kĩ năng vẽ
BĐTD nên dẫn đến nhiều tiết dạy không thành công do các em mãi loay hoay
với giấy bút mà không biết vẽ cái gì, vẽ như thế nào, bắt đầu từ đâu,... vì các em
chưa hình dung được BĐTD của bài học trong đầu mình cũng như chưa biết
cách thức, phương pháp vẽ.
Vì vậy, theo tôi chúng ta cần dành thời gian hợp lý cho các em làm quen
với BĐTD, theo cách sau đây:
8
+ Về phía học sinh: giáo viên cần nhắc nhở các em mang theo đầy đủ các
dụng cụ: giấy vở, bìa lịch cũ, bìa cứng, bút chì, hộp màu, tẩy,...
+ Về phía giáo viên: cần chuẩn bị trước: phòng máy, máy chiếu, bảng
phụ, phấn màu, ... và một số BĐTD đã vẽ sẵn trên trên máy, trên giấy vở, trên
bìa lịch, trên bảng phụ...
Sau đó, chúng ta bắt đầu tiến hành tổ chức nội dung theo các bước sau:
Bước 1: “Làm quen”
Giáo viên giới thiệu một số BĐTD vẽ sẵn cho học sinh làm quen. Giáo
viên giới thiệu cấu trúc BĐTD theo mạch kiến thức của bài học cho học sinh
nắm, rồi hướng dẫn cách vẽ một BĐTD.
Bước 2: “Đọc hiểu”
Giáo viên chọn những BĐTD có kết cấu đơn giản cho học sinh quan sát.
Sau đó, cho các em dựa vào BĐTD để thuyết trình nội dung bài học được vẽ
trong sơ đồ. Bước này giúp cho các em có tư duy lô-gic, tư duy hệ thống và kĩ
năng thuyết trình.
Bước 3: “Tập vẽ”
Giáo viên đưa ra chủ đề bằng từ khóa (hoặc hình ảnh) ở trung tâm màn
hình. Ví dụ: Thông tin, Cấu trúc máy tính, Hệ điều hành, bài toán... Cho học
sinh thực hành vẽ BĐTD trên giấy hoặc bảng.
Giáo viên đặt các câu hỏi gợi ý để các em suy nghĩ và vẽ các nhánh cấp 1,
cấp 2, cấp 3...
* Lưu ý:
+ Giáo viên nên chọn những bài các em đã học, có kiến thức đơn giản, dễ
nhớ, dễ vẽ.
+ Giáo viên có thể linh hoạt cho học sinh vẽ theo nhóm vào bìa lịch, vẽ cá
nhân vào giấy vở hoặc gọi 2-3 em lên bảng vẽ.
9
+ Không sử dụng câu, đoạn quá dài, nên thể hiện các ý bằng những cụm
từ ngắn gọn.
Bước 4: “Trang trí”
Sau khi các em vẽ xong sườn của BĐTD, giáo viên gợi ý cho các em vẽ
chèn thêm những hình ảnh cần thiết để minh họa cho nội dung của sơ đồ, gợi ý
cho các em chỉnh sửa đường nét, sử dụng màu sắc để phân biệt, làm nổi bật
mạng lưới các ý trong sơ đồ.
* Lưu ý:
+ Giáo viên lưu ý học sinh khi vẽ BĐTD, các em nên kết hợp dùng màu
sắc, đường nét, ... ngay trong quá trình vẽ để tiết kiệm thời gian.
+ Không nên dùng quá nhiều màu, không dùng những màu sắc quá sặc sỡ,
không quá chú trọng vào đường nét, hình ảnh làm lãng phí thời gian.
Bước 5: “Chia sẻ kinh nghiệm”
Ở bước này, giáo viên thu một số BĐTD các em vừa vẽ theo từng loại (Sơ
đồ không triển khai đủ các ý chính, sơ đồ vẽ quá chi tiết đến vụn vặt, sơ đồ vẽ
không đúng trọng tâm kiến thức, sơ đồ dùng quá nhiều hình ảnh, màu sắc lòe
loẹt,...)
Cho học sinh quan sát, nhận xét, góp ý chỉnh sửa, bổ sung.
Giáo viên lắng nghe, định hướng cho các em chỉnh sửa, bổ sung:
+ Như trên đã trình bày, BĐTD là một sơ đồ mở. Vì vậy, giáo viên cần
tôn trọng và phát huy sự sáng tạo của các em, bởi đây là “sản phẩm” của chính
các em. Giáo viên chỉ chỉnh sửa cho các em chủ yếu về mặt kiến thức. Mặt khác,
giáo viên cũng cần khuyến khích, biểu dương những BĐTD vẽ đảm bảo đầy đủ
kiến thức trọng tâm, đẹp, có cách trình bày khoa học, cân đối, hài hòa về đường
nét, màu sắc.
10
+ Nếu thấy mất quá nhiều thời gian để tô đậm màu trong một nhánh, ta có
thể hướng dẫn thêm cho các em cách gạch chéo, đánh dấu cộng, hay chấm bi
trong đó. Đây là điều rất mới mẻ, sáng tạo và tiết kiệm rất nhiều thời gian.
+ Giáo viên nhắc nhở thêm các em cần hình thành thói quen tốt: nên lập
BĐTD trong quá trình chuẩn bị bài mới ở nhà và lập lại sau khi học xong bài
trên lớp để có điều kiện đối chiếu xem mình đã làm được những gì? Những gì
mình còn sai sót cần bổ sung, sửa chữa. Nếu làm được như vậy, chẳng những
giúp các em nắm vững kiến thức mà còn rèn luyện cho các em phát triển năng
lực tư duy rất tốt.
+ Nhắc các em sau mỗi bài học nên lưu các BĐTD lại để sau này tiện việc
ôn tập, hệ thống kiến thức.
Tóm lại, nếu giáo viên chuẩn bị thật kĩ lưỡng các bước trên cho các em,
tôi nghĩ rằng chắc chắn các em sẽ học tốt, làm tốt những yêu cầu giáo viên đặt ra
trong quá trình dạy học, kiểm tra, đánh giá có ứng dụng BĐTD.
b. Các hình thức sử dụng BĐTD trong quá trình dạy học
b.1. Sử dụng BĐTD trong các hình thức kiểm tra
Có thể nói, đây là việc làm rất đơn giản nhưng lại còn rất xa lạ, mới mẻ
đối với rất nhiều giáo viên. Qua dự giờ, góp ý, trao đổi kinh nghiệm cùng các
đồng nghiệp trong tổ, trong trường, tôi nhận thấy, hầu hết giáo viên rất băn
khoăn khi nghe đề nghị dùng BĐTD để kiểm tra bài cũ, kiểm tra 15 phút hay
kiểm tra một tiết. Sau đây là một vài kinh nghiệm xin chia sẻ cùng đồng nghiệp:
* Sử dụng BĐTD trong việc kiểm tra bài cũ
Giáo viên đưa ra một từ khóa (hay một hình ảnh trung tâm) thể hiện chủ
đề của kiến thức cũ mà các em đã học, cần kiểm tra, yêu cầu các em vẽ BĐTD
thông qua câu hỏi gợi ý. Trên cơ sở từ khóa (hoặc hình ảnh trung tâm) ấy kết
hợp với câu hỏi định hướng của giáo viên, học sinh sẽ nhớ lại kiến thức và định
hình được cách vẽ BĐTD theo yêu cầu.
11
Khi học sinh vẽ xong, giáo viên cho cả lớp quan sát, gọi một vài em nhận
xét, góp ý sơ đồ rồi giáo viên nhận xét và cho điểm.
* Sử dụng BĐTD trong kiểm tra 15 phút, 1 tiết
Chúng ta cũng có thể dùng BĐTD trong các hình thức kiểm tra trên giấy
(15 phút, 1 tiết) một cách dễ dàng để tăng cường việc rèn luyện thói quen tư duy
lô-gic, tư duy hệ thống cho học sinh thông qua các bài kiểm tra viết, nhằm phát
triển năng lực tư duy sáng tạo cho các em. Tuy nhiên, giáo viên cũng cần lưu ý
rằng kiểm tra kiến thức cũ bằng phương pháp vẽ BĐTD chỉ là một hình thức
kiểm tra nhằm việc giúp học sinh củng cố, hệ thống kiến thức có tính chất lý
thuyết. Do đó, giáo viên nên chọn kiểm tra những kiến thức có tính hệ thống,
xâu chuỗi, các em có thể dễ dàng hệ thống hóa bằng BĐTD.
Ví dụ: Khi kiểm tra ta có thể sử dụng câu hỏi để hệ thống lại bài Hệ điều
hành (Tin học 6). Yêu cầu học sinh sử dụng BĐTD để thể hiện kiến thức của bài
10. Hệ điều hành làm những việc gì (Tin học 6).
Lưu ý:
12
Giáo viên có thể linh hoạt sử dụng các câu hỏi yêu cầu học sinh lập
BĐTD ở khâu kiểm tra bài cũ và kiểm tra viết (15 phút, 1 tiết) hoán đổi cho
nhau đều được.
Đối với kiểm tra miệng, 15 phút ta lấy thang điểm 10; còn đối với kiểm
tra 1 tiết thì tùy theo mức độ của từng câu hỏi, ta có thể cho từ 2 – 3 điểm.
b.2. Sử dụng BĐTD trong dạy học bài mới và ghi bảng
Qua trao đổi với giáo viên trong tổ chuyên môn, trong trường, trong cụm
trường ở những buổi sinh hoạt chuyên môn, hầu hết giáo viên đều có chung
quan niệm xem BĐTD là công cụ, phương tiện, là một thứ “bảng phụ” hỗ trợ,
minh họa cho tiết dạy mà thôi. Ai cũng cho rằng không thể dùng BĐTD thay
cho phần ghi bảng của giáo viên được. Qua một quá trình thử nghiệm chúng
trong một số tiết dạy, tôi nhận thấy rõ ràng cách làm này ta hoàn toàn có thể làm
được. Không những thế, việc kết hợp sử dụng BĐTD trong việc tổ chức dạy học
bài mới với việc sử dụng nó để cô đọng kiến thức thay cho việc ghi bảng lại tiết
kiệm được rất nhiều thời gian trên lớp, lại vừa có tác dụng hình thành cho học
sinh có thói quen ghi chép bằng BĐTD. Đây cũng là việc làm rất cần thiết góp
phần rèn luyện kĩ năng vẽ BĐTD cho các em, nhất là những bài học nhằm giới
thiệu, cung cấp kiến thức.
Chúng ta có thể dễ dàng sử dụng BĐTD kết hợp trong việc dạy học bài
mới với dùng chính nó để cô đọng kiến thức của bài học cho học sinh ghi. Việc
sử dụng BĐTD trong quá trình dạy học bài mới sẽ giúp học sinh từng bước phát
hiện, tiếp cận và chiếm lĩnh toàn bộ kiến thức bài học một cách khoa học, có hệ
thống, lôgic. Bắt đầu bài học bằng từ, cụm từ trung tâm thể hiện trọng tâm kiến
thức, thông qua sự định hướng dẫn dắt của giáo viên, các em tự khám phá, tìm
hiểu các đơn vị kiến thức của bài học một cách liền mạch, có hệ thống, đến khi
tiết học kết thúc cũng là lúc toàn bộ kiến thức của bài học được cô đọng và trình
bày một cách sinh động, khoa học và sáng tạo trên bảng (hoặc trên màn hình).
BĐTD ấy không chỉ cung cấp cho các em “bức tranh tổng thể” về kiến thức của
bài học mà nó còn giúp cho các em dễ dàng nhận ra mạch lôgic kiến thức của
13
bài học. Do đó, chúng ta có thể dùng nó như phần nội dung ghi bảng của giáo
viên để học sinh ghi chép.
Tuy nhiên, chúng ta cần linh hoạt sử dụng ở những tiết dạy, bài dạy cho
phép chứ không nên lạm dụng BĐTD để khỏi phải ghi bảng ở tất cả các tiết dạy.
Mặt khác, việc sử dụng kết hợp này càng thuận lợi hơn khi chúng ta sử dụng
phần mềm Mind Map và soạn giảng bằng bài giảng điện tử. Chúng ta cũng nên
đánh số thứ tự vào các khâu lên lớp, các ý chính trong mỗi đơn vị kiến thức của
bài học để học sinh thuận tiện trong việc theo dõi, ghi chép vào vở. Giáo viên
cũng cần dành ít phút cuối tiết học, cho học sinh quan sát BĐTD và thuyết trình
- “đọc hiểu” lại toàn bộ nội dung kiến thức của bài học.
b.3. Sử dụng BĐTD trong việc hệ thống, củng cố kiến thức sau mỗi
bài học, mỗi phần của bài học
Sau khi dạy xong mỗi phần của bài học, hay mỗi bài học, giáo viên cho
học sinh hình dung, nhớ lại và vẽ BĐTD để củng cố, hệ thống phần kiến thức
đó, hoặc toàn bộ kiến thức của bài học.
b.4. Sử dụng BĐTD trong việc ôn tập kiến thức
Cũng như các cách làm trên, chúng ta có thể sử dụng BĐTD để ôn tập và
hệ thống kiến thức của chương, phần, học kì,...cho các em.
Tóm lại, với những ưu điểm của mình, bản đồ tư duy trở thành một
công cụ gợi mở, kích thích quá trình tìm tòi kiến thức của học sinh. Việc sử
dụng BĐTD trong quá trình dạy học giúp các em học tập một cách chủ động,
tích cực và huy động được tất cả học sinh tham gia xây dựng bài một cách hào
hứng. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng em về trí tuệ,
hệ thống hóa kiến thức, khả năng hội họa, sự vận dụng kiến thức được học qua
sách vở vào cuộc sống.
Việc vận dụng BĐTD trong dạy học sẽ dần hình thành cho học sinh tư
duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách
hệ thống, khoa học. Sử dụng BĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích
14
cực khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình,… có tính khả thi cao góp phần đổi
mới PPDH, đặc biệt là đối với các lớp ở cấp THCS.
3.4. Kết quả thực hiện
Sau một thời gian ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học
môn Tin học lớp 6, tôi nhận thấy bước đầu có những kết quả rất khả quan.
Trước hết, bản thân tôi đã nhận thức được vai trò tích cực của việc ứng dụng
BĐTD trong quá trình dạy học. Tôi đã tìm hiểu, biết cách sử dụng BĐTĐ một
cách hiệu quả trong hầu hết các khâu của quá trình lên lớp, từ việc kiểm tra bài
cũ, dạy bài mới, củng cố kiến thức bài học, ôn tập, khái quát, hệ thống kiến thức
các chương, phần....
Học sinh tiếp thu bài, nắm kiến thức chắc chắn hơn, khoa học hơn, nhanh
hơn. Đa số các em học sinh khá, giỏi đã biết sử dụng BĐTD để ghi chép bài,
tổng hợp kiến thức môn học. Những học sinh trung bình đã biết dùng BĐTD để
củng cố kiến thức bài học ở mức đơn giản. Điều quan trọng hơn là các em học
tập tích cực hơn, sôi nổi hơn và có sự sáng tạo trong học tập. Tất cả rất hào hứng
với việc học tập. Vì việc ứng dụng BĐTD không chỉ tạo tác động trực quan lôi
cuốn các em, mà còn giúp các em ghi chép bài gọn gàng, khoa học hơn, nhanh
hơn và nhẹ nhàng hơn nhiều so với cách ghi chép trước đây.
Kết quả học sinh đạt được như sau:
- Năm học 2013 – 2014
Lớp
6A
Tổng
số
20
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu, kém
Số
Tỉ lệ
Số
Tỉ lệ
Số
Tỉ lệ
Số
Tỉ lệ
lượng
(%)
lượng
(%)
lượng
(%)
lượng
(%)
8
40,0
2
10,0
4
20,0
6
30,0
- Năm hoc 2014 – 2015
Lớp
Giỏi
Khá
15
Trung bình
Yếu, kém
6A
Tổng
Số
Tỉ lệ
Số
Tỉ lệ
Số
Tỉ lệ
Số
Tỉ lệ
số
lượng
(%)
lượng
(%)
lượng
(%)
lượng
(%)
19
9
47,4
5
26,3
4
21,0
1
5,3
Không những thế, nếu giáo viên biết tổ chức tốt cho học sinh sử dụng bản
đồ tư duy trong dạy học nhóm thì nó sẽ giúp các em học sinh phát huy được tính
sáng tạo, tối đa hoá khả năng của mỗi em, đồng thời kết hợp sức mạnh của các
cá nhân thành sức mạnh tập thể để có thể giải quyết được các vấn đề một cách
hiệu quả hơn. Sơ đồ tư duy tạo cho mỗi thành viên cơ hội được giao lưu học hỏi
và phát triển chính mình một cách hoàn thiện hơn.
4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:
4.1. Kết luận chung: Việc vận dụng BĐTD trong hoạt động dạy - học,
kiểm tra, đánh giá sẽ dần hình thành cho học sinh có tư duy mạch lạc, hiểu biết
vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học. Sử
dụng BĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác như vấn đáp
gợi mở, thuyết trình, các kỹ thuật, phương pháp dạy học của thế kỉ XXI… có
tính khả thi cao góp phần đổi mới PPDH, đặc biệt là đối với học sinh THCS hiện
nay. Vì vậy, việc tăng cường sử dụng BĐTD trong quá trình dạy học nói chung,
trong đó có dạy học Tin học nói riêng là việc làm rất cần thiết, góp phần đáp
ứng yêu cầu của đổi mới PPDH trong giai đoạn hiện nay.
Tuy việc sử dụng BĐTD vào việc giảng dạy đã có nhiều chuyển biến tích
cực, song bên cạnh đó cũng gặp không ít khó khăn trong quá trình áp dụng. Tình
trạng học sinh lười học vẫn còn, một số học sinh ít hoạt động, còn có tâm lí y
lại, trông chờ vào người khác nên kết quả vẫn chưa như mong đợi. Để việc ứng
dụng BĐTD có hiệu quả hơn thì đòi hỏi chúng ta cần đồng loạt hành động, cùng
nhau đổi mới để từ đó có thể đổi mới tư duy cho học sinh, không còn tình trạng
trong lớp chỉ có một vài em hoạt động tích cực mà cả lớp cùng nhau hoạt động,
tạo không khí sôi nổi trong các tiết học.
16
4.2. Kiến nghị:
4.2.1. Đối với giáo viên
Cần phải nắm vững những hiểu biết, kiến thức cơ bản về sơ đồ tư duy: khái
niệm, cấu tạo, các bước thiết kế, quy trình tổ chức hoạt động vẽ BĐTD trên lớp
và những tiện ích.
Cần có sự cân nhắc khi ứng dụng BĐTD vào việc soạn, giảng, kiểm tra
đánh giá, tổ chức hoạt động cho học sinh, tránh lạm dụng BĐTD.
Cần xác định đúng kiến thức cơ bản, trọng tâm để thiết kế BĐTD tức là
phải biết chọn lọc những ý cơ bản, những kiến thức thật cần thiết.
Cần đầu tư thời gian hợp lí vào việc soạn bài, lập trước các BĐTD cần thiết
cho tất cả các khâu của quá trình lên lớp đối với từng bài học.
4.2.2. Đối với học sinh
Cần tích cực, tự giác, cũng như tăng cường giao lưu học hỏi một cách
khiêm tốn ở thầy cô, bạn bè về việc vẽ, học và ghi chép với BĐTD.
Đakrông, ngày 05 tháng 4 năm 2015
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
ĐƠN VỊ
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết SKKN
(Ký và ghi rõ họ tên)
Trương Quốc Tưởng
17
5. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Tony Buzan (2010), Lập bản đồ tư duy, NXB Lao động - Xã hội, Hà
Nội.
- Tony Buzan (2014), Bản Đồ Tư Duy Cho Trẻ Thông Minh - Các Kỹ
Năng Học Giỏi, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
- Trần Đình Châu (2009), Sử dụng bản đồ tư duy – một biện pháp hiệu
quả hỗ trợ học sinh học tập môn toán, Tạp chí Giáo dục, kì 2- tháng 9.
- Trần Đình Châu, Đặng Thị Thu Thủy (2009), Sử dụng bản đồ tư duy
góp phần tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh, Tạp chí Khoa học
giáo dục, số chuyên đề TBDH.
- Trần Đình Châu, Đặng Thị Thu Thủy (2010), Bản đồ tư duy - công cụ
hiệu quả hỗ trợ dạy học và công tác quản lý nhà trường, Báo Giáo dục &
Thời đại, số 147 ngày 14/9/2010.
18
- Xem thêm -