Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tin học Skkn nâng cao hiệu quả của hoạt động thảo luận nhóm trong dạy – học tin học...

Tài liệu Skkn nâng cao hiệu quả của hoạt động thảo luận nhóm trong dạy – học tin học

.PDF
22
152
88

Mô tả:

Tên SKKN: NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG THẢO LUẬN NHÓM TRONG DẠY – HỌC TIN HỌC I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong thời đại ngày nay, sự phát triển như vũ bão của Công nghệ thông tin và Truyền thông đóng vai trò không nhỏ trong sự phát triển chung của nhân loại. Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã xác định rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của Tin học, Công nghệ thông tin và Truyền thông cũng như yêu cầu đẩy mạnh của ứng dụng Công nghệ thông tin, đào tạo thế hệ trẻ năng động, sáng tạo, nắm vững tri thức khoa học công nghệ để làm chủ trong mọi hoàn cảnh công tác và hoạt động xã hội. Chính vì xác định được tầm quan trọng đó nên Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa môn Tin học vào trong nhà trường và ngay từ tiểu học học sinh được tiếp xúc tin học để làm quen dần với lĩnh vực công nghệ thông tin, tạo nền móng ban đầu để học những phần nâng cao tiếp theo. Theo đó, UBND tỉnh và Sở GD&ĐT trang bị phòng máy tính, máy chiếu (Projector) cho các trường để giảng dạy bộ môn Tin học. Sở thường xuyên tổ chức tập huấn CNTT cho lãnh đạo các trường, phòng GD&ĐT và giáo viên tỉnh nhà nhằm mục đích tiếp cận với công nghệ mới của CNTT. Hằng năm, Sở GD&ĐT tổ chức các cuộc thi: Hội thi Tin học trẻ không chuyên, thi học sinh giỏi Tin học lớp 12, giải Toán, Tiếng Anh qua Internet, ngày 16/09/2013 Sở GD&ĐT tỉnh Đồng Nai có công văn số:1992/SGD&ĐT-GDTrH V/v Tổ chức Hội thi chọn GVDG cấp THPT năm học: 2013-2014 trong đó có bộ môn Tin học, nhằm mục đích đưa người Đồng Nai tiếp cận, ứng dụng và theo kịp sự phát triển CNTT của đất nước và trên thế giới. Mặc dù vậy, việc học tin học ở trường THPT của học sinh vẫn chưa đạt hiệu quả, phần đông học sinh chưa phát huy tính tích cực, còn thụ động, ỷ lại. Để giúp học sinh tham gia một cách tích cực, tránh tính thụ động, ỷ lại, phương pháp dạy học trong nhà trường có một vai trò rất to lớn. Nhận thức được việc đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập là một trong những vấn đề bức thiết hiện nay ở nước ta, Đảng và Nhà nước cũng như Bộ GD&ĐT đã đưa ra 1 nhiều nghị quyết, chỉ thị nhằm thúc đẩy việc đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học, bậc học. “Đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực hành, thực nghiệm, ngoại khóa, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt, học chay”. Luật giáo dục nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005 (điều 5 khoản 2) đã ghi: “Phương pháp dạy học phải phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, tư duy sáng tạo của người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”. Là một giáo viên Tin học tôi luôn trăn trở làm thế nào để học sinh hiểu và yêu thích môn học, tích cực và hứng thú trong từng tiết học. Và tôi cho rằng, điều trăn trở đó chỉ được giải tỏa khi người giáo viên tự giác đổi mới cách thức tổ chức hoạt động học tập của học sinh. Việc tổ chức hoạt động dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh là một trong những nhiệm vụ của năm học. Trong quá trình giảng dạy bản thân tôi đã rút ra kinh nghiệm nhỏ trong việc tổ chức hoạt động dạy học theo nhóm. Đây không phải là một cách thức mới, tuy nhiên vấn đề là làm thế nào để nó đạt được hiệu quả tốt nhất. Dưới đây, tôi xin trình bày những kinh nghiệm mà mình đã rút ra được khi tổ chức hoạt động nhóm trên lớp để quý đồng nghiệp cùng tham khảo và có ý kiến xây dựng thông qua đề tài “Nâng cao hiệu quả của hoạt động thảo luận nhóm trong dạy - học tin học” và có thể coi đó là một vài kinh nghiệm trong dạy - học nhằm nâng cao nhận thức và chất lượng giáo dục của bộ môn Tin học hiện nay. Trong quá trình thực hiện, mặc dù rất cẩn trọng song đề tài không tránh khỏi những sơ sót. Kính mong nhận được sự góp ý của bạn bè đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! 2 II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Để học sinh thực sự tích cực trong học tập thì giáo viên phải giúp họ yêu thích cái mà mình đang học hay nói cách khác là tạo hứng thú cho học sinh. Tạo hứng thú cho người học luôn là một vấn đề quan trọng trong hoạt động dạy - học.Bởi vì, như chúng ta biết, dạy - học là một hoạt động phức tạp, trong đó chất lượng, hiệu quả cơ bản phụ thuộc vào người học. Và điều này lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như năng lực nhận thức, động cơ học tập, sự quyết tâm...; phụ thuộc vào môi trường học tập, người tổ chức quá trình dạy học, sự hứng thú trong học tập. Các nhà nghiên cứu tâm lý học cho rằng, hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, nó có ý nghĩa đối với cuộc sống và có khả năng mang lại khoái cảm cá nhân trong quá trình hoạt động.Sự hứng thú biểu hiện trước hết ở sự tập trung chú ý cao độ, sự say mê của chủ thể hoạt động. Sự hứng thú gắn liền với tình cảm con người. Trong bất cứ công việc gì, nếu có hứng thú làm việc, con người sẽ có cảm giác dễ chịu với hoạt động, làm nẩy sinh khát vọng hành động một cách có sáng tạo. Ngược lại, nếu không có hứng thú, dù là hoạt động gì cũng sẽ không đem lại hiệu quả cao. Đối với các hoạt động nhận thức, sáng tạo, hoạt động học tập, khi không có hứng thú, kết quả sẽ không là gì hết, thậm chí xuất hiện cảm xúc tiêu cực. Việc học có tính chất đối phó, miễn cưỡng, người học may lắm chỉ tiếp thu được một lượng kiến thức rất ít, không sâu, không bản chất và vì thế dễ quên. Khi có hứng thú, say mê trong nghiên cứu, học tập thìviệc lĩnh hội tri thức trở nên dễ dàng hơn; ngược lại, khi nắm bắt được vấn đề, tức là hiểu được bài thì người học lại có thêm hứng thú. Trên thực tế, những người không thích, không hứng thú khi học môn học nào đó thường là những người không học tốt môn học đó. Chính vì vậy, việc tạo hứng thú cho người học được xem là yêu cầu bắt buộc đối với bất cứ ai làm công tác giảng dạy, đối với bất cứ bộ môn khoa học nào. Để tạo được hứng thú cho người học thì hãy cho họ được làm chủ vấn đề, cho họ được tự mình suy nghĩ tìm tòi giải quyết và trình bày kết quả của mình. Khi 3 đó người học sẽ không còn bị thụ động, không cảm thấy nhàm chán mà luôn hào hứng. Một trong những cách thức giúp đạt được điều đó khi giảng dạy trên lớp là giáo viên tìm cách tổ chức lớp học thành các nhóm và đưa ra yêu cầu cho các nhóm suy nghĩ rồi trình bày kết quả, đó là phương pháp thảo luận nhóm.  Thực trạng vấn đề dạy học Tin học trong nhà trường hiện nay Tin học là một môn học mới so với các môn học khác tại trường Phổ thông.Hơn nữa đây là một môn học không thi tốt nghiệp và thi đại học nên không ít người còn xem nhẹ việc học Tin học. Những năm trở lại đây, mặc dù máy tính đã trở nên quen thuộc đối với người học, tuy nhiên việc lĩnh hội kiến thức môn Tin học trên lớp cũng không phải là một việc dễ dàng đối với học sinh bởi chương trình học ở ba khối lớp 10, 11 và 12 bao quát nhiều nội dung. Người học không phải chỉ được học cách sử dụng máy tính đơn thuần mà được tìm hiểu về nhiều khía cạnh khác nhau để biết về bản chất và những ứng dụng thực tế của máy vi tính. Do đó, việc lĩnh hội nội dung các tiết Tin học ở trên lớp cũng mang lại khó khăn cho nhiều học sinh. Có thể vì nhiều nguyên nhân khác nhau: kiến thức khó, mới lạ, phương pháp dạy đơn điệu, học sinh thụ động,… việc học không đạt được hiệu quả như mong muốn. Khi giảng dạy, bất kì giáo viên nào đều mong muốn kết quả đạt được là tốt nhất và đã áp dụng rất nhiều phương pháp khác nhau trong đó có phương pháp thảo luận nhóm. Điều đó có nghĩa là phương pháp này đã rất quen thuộc với chúng ta, tuy nhiên hiệu quả của việc thực hiện thì chưa cao Trong quá trình giảng dạy tại trường THPT Dầu Giây, tôi đã quan sát dự giờ nhiều thầy cô và cũng áp dụng phương pháp này trong việc dạy môn Tin học. Tuy nhiên tôi nhận thấy hiệu quả chưa tốt bởi nhiều nguyên nhân như: - Vấn đề được đưa ra thảo luận quá dễ hoặc kết quả đã có trong SGK khiến học sinh không có gì để thảo luận hay tranh cãi để giải quyết vấn đề. - Học sinh chưa chuẩn bị trước bài ở nhà nên còn chậm chạp trong quá trình thảo luận. - Câu hỏi quá dài, chứa đựng nhiều nội dung khó hiểu nên khi thảo luận học sinh vẫn còn chưa rõ vấn đề cần thảo luận. 4 - Học sinh vẫn còn chưa quen với việc thảo luận nhóm, vẫn chưa tự giác học tập. - Việc chia nhóm chưa hợp lí. - Trong quá trình thảo luận, giáo viên chưa bao quát được lớp, chưa phát hiện học sinh nào còn thụ động. - Học sinh làm việc một cách bỡ ngỡ, đối phó, thiếu nhiệt tình,… -Thời gian dành cho thảo luận khá nhiều, ảnh hưởng đến việc truyền đạt các nội dung khác. Trên thực tế đó, tôi đã tìm tòi nghiên cứu về phương pháp này nhằm nâng cao hiệu quả của nó trong quá trình giảng dạy môn Tin học. III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP Làm thế nào để đạt được hiệu quả dạy học tức là giúp học sinh lĩnh hội kiến thức nhanh nhất và nhiều nhất có thể? Đây là một vấn đề khó, không có một cách thức, con đường chung cho mọi người. Qua quá trình giảng dạy trên lớp tôi luôn kết hợp các phương pháp khác nhau tùy từng nội dung bài dạy. Và tôi nhận thấy rằng để kích thích tư duy và tính tích cực của người học thì tốt nhất là cho các em tự suy nghĩ và trình bày kết quả của mình trước bạn bè và thầy cô. Do đó tôi thường cho các em thảo luận nhóm ngay trên lớp. 1. Các hình thức thảo luận nhóm - Nhóm nhỏ thông thường: GV chia lớp học thành các nhóm (từ 5 đến 7 HS) để thảo luận một vấn đề cụ thể và nhanh chóng đưa ra kết luận của tập thể về vấn đề đó. Hình thức này thường được sử dụng kết hợp với các phương pháp dạy học khác trong một bài học, một tiết học, nội dung thảo luận của một nhóm nhỏ thông thường là các vấn đề ngắn, thời lượng ít (từ 10 đến 15 phút). - Nhóm nhỏ “rì rầm”: GV chia lớp thành các nhóm “cực nhỏ” từ 2 đến 3 HS (thường là cùng một bàn) để trao đổi (rì rầm) và thống nhất một câu hỏi trả lời, giải quyết một vấn đề nêu một ý tưởng, một thái độ… để nhóm rì rầm có hiệu quả, GV cần cung cấp đầy đủ, chính xác các dữ kiện, gợi ý và nêu rõ yêu cầu đối với các 5 câu trả lời để các thành viên tập trung vào giải quyết. - Nhóm kim tự tháp: Đây là hình thức mở rộng của nhóm “rì rầm”, sau khi thảo luận theo cặp (nhóm “rì rầm”), các cặp kết hợp thành một nhóm để hoàn thiện một vấn đề chung. Nếu cần thiết có thể kết hợp nhóm này thành nhóm lớn hơn (từ 816 HS). - Nhóm đồng tâm: GV chia lớp thành hai nhóm: nhóm thảo luận và nhóm quan sát (sau đó hoán vị cho nhau). Nhóm thảo luận là nhóm nhỏ (6 đến 12 HS) có nhiệm vụ thảo luận, trình bày vấn đề được giao, các thành viên khác trong lớp đóng vai trò là quan sát và phản biện. Hình thức nhóm này rất có hiệu quả, nó làm tăng ý thức trách nhiệm của cá nhân HS trước tập thể và tạo động cơ cho những HS ngại trình bày ý tưởng của mình trước tập thể. Tạo sự hứng thú trong hoạt động thảo luận nhóm là một hoạt động dạy học nhằm phát huy tính tích cực của người học, dạy học hướng về người học. Việc tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm là đặt học sinh vào môi trường hoạt động tích cực. Trong nhóm, học sinh được thảo luận và hợp tác làm việc với nhau. Học tập theo nhóm giúp học sinh học tập thông qua giao tiếp, trao đổi tranh luận với nhau, chia sẻ và có cơ hội diễn đạt ý nghĩ của mình, phát triển các kỹ năng giải quyết vấn đề. Giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn, kích thích hỗ trợ học sinh lĩnh hội kiến thức bằng kinh nghiệm giáo dục của mình. 2. Ưu điểm của phương pháp làm việc theo nhóm - Kiến thức của HS sẽ giảm bớt tính chủ quan, phiến diện làm tăng tính khách quan khoa học. - Kiến thức trở nên sâu sắc, bền vững dễ nhớ và nhớ nhanh hơn do được giao lưu học hỏi giữa các thành viên trong nhóm. HS được rèn luyện kĩ năng diễn đạt, phương pháp tư duy. - Nhờ không khí thảo luận sôi nổi, cởi mở, HS thoải mái, tự tin hơn trong việc trình bày ý kiến của mình và biết lắng nghe có phê phán ý kiến của những thành viên khác. Tạo yếu tố kích thích thi đua giữa các thành viên trong nhóm và giữa các nhóm với nhau, đặc biệt là trong những chủ đề có tính sáng tạo cao. - Tạo điều kiện cho GV nhận được nhiều thông tin phản hồi từ HS, thu 6 được những tri thức kinh nghiệm qua các ý kiến phát biểu có suy nghĩ và sáng tạo của HS. - Phương pháp thảo luận nhóm giúp các thành viên trong nhóm chia sẻ các băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức mới. Bằng cách nói ra điều mình nghĩ, mỗi người có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì.Bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp nhận thụ động từ GV.Thành công của bài học phụ thuộc vào sự tham gia nhiệt tình của các thành viên.Vì vậy phương pháp này còn gọi là phương pháp cùng tham gia. - Thảo luận nhóm được thực hiện tốt sẽ tăng cường tính tích cực, chủ động của HS, giúp HS tập trung vào bài học, phát triển được kĩ năng tư duy, óc phê phán, kĩ năng giao tiếp xã hội quan trọng khác. - Làm việc theo nhóm thỏa mãn nhu cầu học tập cá nhân, phù hợp với việc học hướng tới người học; khuyến khích sự độc lập tự chủ, người học có thể đưa ra những giải pháp, cách biểu đạt riêng cho vấn đề nào đó. Nếu trong phương pháp thuyết trình, người học chỉ có thể trao đổi với nhau được rất ít thì trong làm việc theo nhóm các thành viên tham gia có cơ hội đưa ra quan điểm của mình đối với chủ đề thảo luận, mặt khác ở đó cũng đòi hỏi tăng cường tư duy độc lập và trao đổi lẫn nhau trong nhóm - Trong khi thực hiện phương pháp làm việc theo nhóm, giáo viên đóng vai trò là người chuyển giao kiến thức và hiểu biết, chuẩn bị, tổ chức, theo dõi việc thực hiện và đánh giá tổng kết kết quả làm việc của các nhóm. Như vậy công việc của giáo viên trong làm việc theo nhóm không bao giờ là thừa, trái lại đó là một sự rất cần thiết để giúp cho các nhóm đạt được kết quả trong việc tìm ra những giải pháp, câu trả lời cho vấn đề được đưa ra. 3. Phương pháp thực hiện * Trước khi lên lớp cả giáo viên và học sinh đều phải chuẩn bị tốt: Giáo viên: - Lập kế hoạch bài dạy: + Đọc kỹ bài dạy nắm mục tiêu cần đạt. 7 + Kịch bản sư phạm. + Dự kiến các tình huống xảy ra trong khi thảo luận nhóm. - Dự kiến: + Cách chia nhóm, số lượng nhóm. + Nhiệm vụ của các nhóm. + Thời gian thảo luận, trình bày. - Thiết kế bài giảng: Chuẩn bị hệ thống câu hỏi nhằm khuyến khích học sinh tích cực, hào hứng suy nghĩ ở mức độ cao và sâu hơn. - Chuẩn bị: chuẩn bị chu đáo đồ dùng và thiết bị dạy học. - Thực hiện kế hoạch dạy học. Học sinh: - Chuẩn bị những thứ cần thiết mà giáo viên đã dặn dò. - Thuộc bài cũ và chuẩn bị bài mới (xem SGK). - Làm những bài tập của giờ học lần trước… - Chuẩn bị bài thuyết trình về vấn đề mà giáo viên đã dặn trước (đối với trưởng nhóm) - học sinh làm việc này chỉ khi nội dung thảo luận xoay quanh vấn đề lớn cần nhiều thời gian. * Các bước tổ chức: - Bước 1: Giáo viên giao nhiệm vụ + Nêu và giải thích rõ ràng mục tiêu làm việc, giao nhiệm vụ một cách rõ ràng cho từng nhóm làm việc để mỗi thành viên trong nhóm hiểu được công việc cần phải làm và mô tả một cách cụ thể cách thực hiện các nhiệm vụ đó. Cần lưu ý là nếu không đề ra nhiệm vụ rõ ràng thì không có được kết quả thuyết phục. Những mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung làm việc theo nhóm có thể được viết ra giấy và phát cho mỗi nhóm. + Định thời gian làm việc của mỗi nhóm kể cả giờ giải lao. + Ấn định thời gian họp lại sau khi thảo luận nhóm (để báo cáo kết quả làm việc ở nhóm). + Nêu cách thức làm việc của nhóm. + Cung cấp các thông tin liên quan với chủ đề. 8 + Thông báo công việc của giáo viên trong thời gian các nhóm làm việc. + Giáo viên hướng dẫn học sinh cách thảo luận. - Bước 2: Chia nhóm + Xác định số lượng người của mỗi nhóm phù hợp với yêu cầu làm việc. Thực hiện việc chia nhóm theo những cách: ngẫu nhiên (phát bìa, thẻ, điểm số…), theo sự chỉ định của giáo viên hoặc theo sở thích của người học. + Cung cấp những câu hỏi định hướng quá trình làm việc của nhóm. - Bước 3: Thảo luận nhóm + Các nhóm tiến hành làm việc theo nhóm. + Giáo viên tham gia quản lý và định hướng làm việc cùng các nhóm, hỗ trợ cho các nhóm khi cần thiết. + Giáo viên tổ chức hướng dẫn các hoạt động, gợi mở, khuyến khích học sinh tích cực hoạt động. + Giáo viên quản lí, giám sát học sinh thảo luận nhóm  Trong quá trình học sinh thảo luận giáo viên theo dõi, quan sát và bổ sung khi cần. Phát hiện các nhóm hoạt động không có hiệu quả, uốn nắn điều chỉnh. Nắm chắc đặc điểm tâm lý của từng học sinh để kịp thời động viên khuyến khích nhằm tạo không khí phấn khởi tự tin trong học tập.  Luôn có ý thức trách nhiệm trợ giúp tránh can thiệp sâu làm hạn chế khả năng độc lập, sáng tạo của học sinh. Xây dựng mối quan hệ thân thiện giữa thầy và trò, giữa trò với trò. - Bước 4: Tiếp nhận thông tin phản hồi từ phía học sinh + Học sinh đại diện nhóm trình bày kết quả, thành viên nhóm bổ sung. + Nhóm khác đặt câu hỏi với sự gợi mở của giáo viên để các nhóm có cơ hội trao đổi, tranh cãi, cải chính kiến thức của mình, đồng tình kiến thức đúng, sửa chữa kiến thức sai, bổ sung kiến thức còn thiếu từ đó làm nảy sinh ý thức vươn lên trước bạn bè của mỗi thành viên trong nhóm nhằm phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập của học sinh. + Giáo viên tổng kết ngắn gọn theo từng nội dung thảo luận. 9 - Bước 5: Tổng kết rút kinh nghiệm thảo luận nhóm Khen thưởng các nhóm, các thành viên hoạt động tích cực, sáng tạo, nhắc nhở tinh thần, thái độ cộng tác trong việc thảo luận nhóm. 4. Một số tình huống cụ thể Qua quá trình giảng dạy trên lớp tôi đã áp dụng phương pháp thảo luận nhóm trong nhiều trường hợp nhằm phát huy tính tích cực của người học.Tuy nhiên hiện nay, không nên cho rằng bất cứ bài nào cũng cần phải có thảo luận nhóm để chứng tỏ là có quan tâm đến đổi mới phương pháp giảng dạy.Trên thực tế, chỉ những bài mà có phần có tình huống cần thảo luận thì mới nên chia nhóm thảo luận.Nếu không, không nhất thiết phải có thảo luận nhóm. Sau đây tôi xin trình bày một số trường hợp cụ thể: a) Ví dụ 1 Thảo luận nhóm khi dạy bài “Cấu trúc lặp”, phần 3: “Lặp với số lần chưa biết trước và câu lệnh while-do” để giải quyết vấn đề: Có thể dùng câu lệnh while-do để thay cho câu lệnh for-do được không? - Bước 1: + Giáo viên thông báo rằng cả lớp sẽ tiến hành thảo luận nhóm để trả lời câu hỏi “Có thể dùng câu lệnh while-do để thay cho câu lệnh for-do được không?”. + Thời gian thảo luận là 10 phút. + Trong thời gian thảo luận, tất cả các thành viên đều phải tham gia tìm hiểu vấn đề, giáo viên đóng vai trò giám sát, định hướng. + Sau khi thảo luận xong đại diện các nhóm sẽ báo cáo kết quả - Bước 2: Chia lớp thành hai nhóm tương ứng với hai dãy bàn, để các nhóm tự bầu ra nhóm trưởng hoặc trong trường hợp này giáo viên có thể chỉ định nhóm trưởng. Yêu cầu các nhóm thảo luận để trả lời các câu hỏi:  Câu hỏi 1: “So sánh sự giống nhau và khác nhau của câu lệnh For-do và câu lệnh While-do?”.  Câu hỏi 2: “Trong câu lệnh For-do, đại lượng nào có giá trị thay đổi sau mỗi 10 lần lặp? Trong câu lệnh While-do, đại lượng nào có giá trị thay đổi sau mỗi lần lặp?”.  Câu hỏi 3: “Trong câu lệnh For-do, khi nào việc lặp kết thúc? Trong câu lệnh While-do, khi nào việc lặp kết thúc?”. - Bước 3: Các nhóm tiến hành làm việc theo nhóm: Các nhóm nhỏ thảo luận theo từng bàn. Thư ký của nhóm lớn ghi ý kiến thảo luận của các nhóm nhỏ. Nhóm trưởng và thư ký nhóm lớn tổng hợp, chọn lọc ý kiến. Giáo viên tham gia quản lý và định hướng làm việc cùng các nhóm, hỗ trợ cho các nhóm khi cần thiết. - Bước 4: + Học sinh đại diện nhóm trình bày kết quả. Các nhóm khác có thể đặt câu hỏi. + Giáo viên tổng kết ngắn gọn theo từng nội dung thảo luận: Nhận xét câu trả lời và thống nhất câu trả lời chính xác:  Trả lời câu 1: So sánh sự giống nhau và khác nhau của câu lệnh For-do và câu lệnh While-do. Giống nhau: Cùng là câu lệnh để mô tả cấu trúc lặp Khác nhau: Câu lệnh For-do Ý nghĩa Câu lệnh while-do Thể hiện cấu trúc lặp với số lần Thể hiện cấu trúc lặp với số lần biết trước Câu lệnh chưa biết trước For:= While <điều kiện> Do Do ; lệnh>; Hoạt động Câu lệnh viết sau từ khóa Do được Khi điều kiện còn đúng thì còn thực hiện tuần tự, với biến đếm lần thực hiện câu lệnh sau Do sau lượt nhận các giá trị liên tiếp tăng đó quay lại kiểm tra điều kiện từ giá trị đầu đến giá trị cuối  Trả lời câu 2: Trong câu lệnh For-do, đại lượng có giá trị thay đổi sau mỗi lần lặp Trong câu lệnh While-do, biểu thức <điều kiện> có thể có giá trị thay đổi sau mỗi lần lặp? 11  Trả lời câu 3: Trong câu lệnh For-do, việc lặp kết thúc khi biến đếm lớn hơn giá trị cuối? Trong câu lệnh While-do, việc lặp kết thúc khi điều kiện cho giá trị sai (false)? Sau khi đưa ra các câu trả lời hoàn chỉnh, giáo viên đưa ra vấn đề chính: Vậy có thể dùng câu lệnh while-do để thay cho câu lệnh for-do được không? – Chúng ta muốn làm được việc này thì phải tìm ra biểu thức điều kiện. Kết quả là có thể, với cấu trúc như sau: :=; While <= do Begin ; := + 1; End; - Bước 5: Tổng kết rút kinh nghiệm thảo luận nhóm: khen thưởng các nhóm, các thành viên hoạt động tích cực, sáng tạo, nhắc nhở tinh thần, thái độ cộng tác trong việc thảo luận nhóm. b) Ví dụ 2 Thảo luận nhóm khi dạy bài “Ví dụ về cách viết và sử dụng chương trình con” với vấn đề thảo luận là: Trường hợp nào nên khai báo tham số hình thức dưới dạng tham biến và trường hợp nào nên khai báo tham số hình thức dưới dạng tham trị? - Bước 1: Sau khi tìm hiểu xong ví dụ về thủ tục, giáo viên nêu lên một số khái niệm mới là tham biến, tham trị và ý nghĩa của chúng. Vậy vấn đề cần thảo luận là Trường hợp nào nên khai báo tham số hình thức dưới dạng tham biến và trường hợp nào nên khai báo tham số hình thức dưới dạng tham trị?. - Bước 2: Chia lớp thành 2 nhóm Nêu một số câu hỏi gợi ý thảo luận để học sinh dễ tìm ra câu trả lời: - Câu hỏi 1: “Dựa vào đặc điểm nào mà em nhận biết được tham số hình thức được khai báo dưới dạng tham biến hay tham trị?”. 12 - Câu hỏi 2: “Hãy quan sát một ví dụ cụ thể (trang 99) và cho biết kết quả sẽ thay đổi thế nào khi thay đổi cách khai báo tham số hình thức từ dạng tham biến sang tham trị?”. - Bước 3: Trước hết học sinh thảo luận theo các nhóm nhỏ (từng bàn một) sau đó các nhóm nhỏ sẽ tổng hợp kết quả lại thành kết quả của nhóm lớn. Giáo viên quan sát và chỉ dẫn khi cần thiết. - Bước 4: Các nhóm lớn trình bày kết quả, các em trả lời các câu hỏi gợi ý từ đó nêu lên câu trả lời cho vấn đề cần thảo luận. Giáo viên tổng kết ngắn gọn theo từng nội dung thảo luận. Nhận xét câu trả lời và thống nhất câu trả lời chính xác: Câu 1: Tham biến được khai báo kèm từ khóa var, tham trị được khai báo không kèm từ khóa nào cả. Câu 2: Cho các em theo dõi ví dụ trong SGK và đưa ra các tình huống: Khi x và y được khai báo kèm từ khóa var thì kết quả thế nào, nếu không có từ khóa var thì kết quả thế nào. Từ đó kết luận lại vấn đề: + Khai báo tham số hình thức dạng tham biến khi chúng tương ứng với các biến chứa dữ liệu ra. + Khai báo tham số hình thức dạng tham trị khi chúng chỉ được đưa vào để lấy giá trị tính toán mà không cần lưu dữ liệu ra. Ví dụ:  Khai báo dạng tham biến cho các chương trình con sau: Hoán đổi vị trí hai số nguyên: Procedure HoanDoi(var a,b:integer), chèn thêm vào mảng A một số nguyên x: Procedure Chen(x: integer; var A: MangSoNguyen), xóa các kí tự ‘X’ trong một xâu: Procedure Xoa(var S: string); xóa các dấu cách thừa trong một xâu: Procedure XoaDauCach(var S: string);  Khai báo dạng tham trị cho các chương trình con: Tính tổng hai số Function Tong (a,b:integer), Tính lũy thừa Function LuyThua(a:real; x: integer), tìm kiếm xem một phần tử x có xuất hiện trong mảng A không: Function 13 TimKiem(x:integer; A: MangSoNguyen), tìm ước chung lớn nhất của hai số: UCLN(a,b:integer), đếm số lượng chữ số xuất hiện trong một xâu: Function Dem(S:String), … c) Ví dụ 3 Thảo luận nhóm khi dạy bài “Ngôn ngữ lập trình” để giải thích: Tại sao phải phát triển các ngôn ngữ bậc cao?. - Bước 1: Sau khi đã tìm hiểu xong đặc điểm của ba loại ngôn ngữ lập trình, giáo viên đưa ra vấn đề cần thảo luận. Yêu cầu các nhóm phải trả lời tất cả các câu hỏi và đưa ra đáp án cho vấn đề cần thảo luận. - Bước 2: Chia lớp thành 3 nhóm Giáo viên đưa ra câu hỏi gợi ý thảo luận: Để giải đáp được vấn đề cần thảo luận thì các nhóm phải trả lời được: + Đặc điểm của ngôn ngữ máy?Hạn chế của ngôn ngữ này là gì? + Đặc điểm của hợp ngữ?So với ngôn ngữ máy thì việc dùng hợp ngữ để viết chương trình có lợi ích gì? + Đặc điểm của ngôn ngữ bậc cao?So với hợp ngữ thì việc dùng ngôn ngữ bậc cao để viết chương trình có lợi ích gì? - Bước 3: Các nhóm tiến hành thảo luận. Giáo viên đóng vai trò giám sát và hướng dẫn. - Bước 4: Học sinh đại diện của từng nhóm trình bày kết quả.Giáo viên nhận xét câu trả lời của học sinh và khẳng định lại câu trả lời đầy đủ và chính xác nhất. - Bước 5: Tổng kết rút kinh nghiệm thảo luận nhóm: khen thưởng các nhóm, các thành viên hoạt động tích cực, sáng tạo, nhắc nhở tinh thần, thái độ cộng tác trong việc thảo luận nhóm. d) Ví dụ 4 Khi dạy bài “Giao tiếp với hệ điều hành”, phần 2 “Cách làm việc với hệ điều 14 hành”, giáo viên có thể cho thảo luận nhóm để trả lời câu hỏi: “Nêu ưu nhược điểm của hai cách giao tiếp với hệ điều hành? Trong hai cách giao tiếp đó thì hiện nay chủ yếu người dùng sử dụng cách nào?”. - Bước 1: Sau khi tìm hiểu xong đặc điểm của hai cách giao tiếp với hệ điều hành, giáo viên có thể đưa ra vấn đề cần thảo luận. - Bước 2: Chia lớp thành hai nhóm lớn và đưa ra các câu hỏi gợi ý: + Nêu đặc điểm của cách thứ nhất? Người dùng đưa ra yêu cầu cho máy tính bằng cách làm thế nào?Sử dụng thiết bị gì? + Nêu đặc điểm của cách thứ hai? Người dùng đưa ra yêu cầu cho máy tính bằng cách làm thế nào?Sử dụng thiết bị gì? - Bước 3: Giáo viên đóng vai trò giám sát và hướng dẫn. Sau khi trả lời được các câu hỏi gợi ý của giáo viên thì học sinh có thể suy luận ra vấn đề cần giải quyết. - Bước 4: Các nhóm trình bày kết quả. Giáo viên nhận xét và tổng kết lại. + Cách 1 (Sử dụng câu lệnh):  Ưu điểm: Hệ thống biết chính xác công việc cần làm, do đó lệnh được thực hiện ngay.  Nhược điểm: Người dùng phải nhớ câu lệnh và phải thao tác nhiều trên bàn phím để gõ câu lệnh. + Cách 2 (Sử dụng các đề xuất do hệ thống đưa ra) Ưu điểm: Thuận tiện và người dùng không cần biết quy cách câu lệnh cụ thể. Người dùng có thể dùng bàn phím hoặc chuột để xác định mục hoặc biểu tượng, nhờ đó dễ khai thác hệ thống hơn. Có nhiều cách khác nhau để thực hiện cùng một công việc. - Bước 5: Tổng kết rút kinh nghiệm thảo luận nhóm: khen thưởng các nhóm, các thành viên hoạt động tích cực, sáng tạo, nhắc nhở tinh thần, thái độ cộng tác trong việc thảo luận nhóm. e) Ví dụ 5 15 Khi dạy chương 3 soạn thảo văn bản, giáo viên phải tổ chức cho học sinh thực hành rất nhiều. Giáo viên có thể cho học sinh thực hành theo nhiều nhóm nhỏ. Ví dụ Bài tập và thực hành 7 “Định dạng văn bản” yêu cầu soạn thảo “Đơn xin nhập học” như theo định dạng trong Sách giáo khoa trang 113. Đối với học sinh chỉ sử dụng máy tính khi được học tại trường thì để soạn thảo được một văn bản như vậy theo đúng cách không phải là việc dễ. Do đó để đảm bảo trình tự làm việc của các em là đúng, giáo viên nên cho học sinh thảo luận để tìm ra quy trình và cách thức soạn thảo được văn bản như vậy trước khi thực hành trên máy. - Bước 1: Đưa ra nhiệm vụ: Sau khi đã gõ được đầy đủ nội dung đơn xin nhập học (chưa định dạng theo yêu cầu), học sinh phải áp dụng các thuộc tính định dạng đã biết để trình bày lại theo đúng mẫu. - Bước 2: Chia mỗi bàn một nhóm Giáo viên nêu vấn đề cần thảo luận: + Để lùi dòng đầu tiên của mỗi đoạn cách lề khoảng 1cm, chúng ta có nên dùng dấu cách trên bàn phím để gõ vào các kí tự trắng không? Trong Word, thuộc tính nào hỗ trợ làm việc này? + Giữa các đoạn có khoảng cách lớn hơn khoảng cách giữa các dòng, làm thế nào để được như vậy? + Dòng đầu các đoạn cùng có kí tự gạch đầu dòng (-), làm thế nào để được như vậy, có phải là gõ kí tự đó trên bàn phím không hay có thể thực hiện theo một cách khác. … Nói tóm lại học sinh phải định hướng trước các thao tác cần thực hiện trong đầu rồi mới tiến hành thực hành trên máy, như vậy vừa nhanh, vừa chính xác, vừa có tính chuyên nghiệp, văn bản sẽ được trình bày một cách thống nhất, đẹp mắt. - Bước 3: Các nhóm tiến hành thảo luận. Giáo viên đóng vai trò giám sát và hướng dẫn. - Bước 4: Đại diện một số nhóm trình bày ý tưởng. Giáo viên nhận xét và đưa ra cách làm đúng. - Bước 5: Tổng kết rút kinh nghiệm thảo luận nhóm: khen thưởng các nhóm, 16 các thành viên hoạt động tích cực, sáng tạo, nhắc nhở tinh thần, thái độ cộng tác trong việc thảo luận nhóm. Ngoài những ví dụ được trình bày ở trên, khi dạy học Tin học chúng ta còn có thể áp dụng phương pháp thảo luận nhóm cho rất nhiều nội dung khác nữa. Việc này sẽ đem lại rất nhiều hiệu quả trong giảng dạy. IV. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI Sau hai năm vận dụng quá trình tổ chức thảo luận nhóm, tuy chưa được hoàn toàn như mong muốn, nhưng tôi nhận thấy phần đông học sinh hứng thú, tích cực tham gia ý kiến, thoải mái, vui vẻ mỗi khi đến tiết, thao tác hoạt động của học sinh nhanh nhẹn hơn, ý thức tập trung hơn. Qua thảo luận nhóm, học sinh thật sự mạnh dạn hơn, kỹ năng diễn đạt tốt hơn, phá tan được bầu không khí yên lặng của các học sinh mệt mỏi, nhút nhát. Cùng một đối tượng học sinh nhưng khi được giáo viên quan tâm tổ chức thảo luận chu đáo thì chất lượng bộ môn nâng lên rõ rệt, phần đông học sinh hứng thú trong học tập, thoải mái mỗi lúc đến tiết học. Điều đó một lần nữa khẳng định vai trò của việc tổ chức thảo luận theo nhóm là cần thiết đối với môn tin học nói riêng và môn học khác nói chung. Điều đặc biệt quan trọng là học sinh yêu thích và hứng thú tìm hiểu sâu sắc hơn môn học này. Sau đây là một số kết quả tôi thực hiện tại các lớp áp dụng trong 2 năm học 2012-2013 và 2013-2014: Kết quả thực hiện được tại lớp 10A5 năm học 2012-2013: Sau khi dạy tại hai lớp 10A5 và 10A6 (học sinh tại hai lớp này có khả năng tiếp thu và ý thức học tập tương đương nhau) với hai phương pháp khác nhau: lớp 10A6 dùng phương pháp thuyết trình, lớp 10A5 dùng phương pháp thảo luận nhóm, tôi cho hai lớp làm một bài kiểm tra và kết quả thu được như sau: Kết quả Xếp loại Giỏi Lớp 10A6 Lớp 10A5 (Phương pháp thuyết trình) (Phương pháp thảo luận nhóm) 2.1% 9.8% 17 Khá 29.8% 50.7% Trung bình 68.1% 39.5% Yếu 0% 0% Tổng 100% 100% Kết quả thực hiện được tại lớp 10B13 năm học 2013-2014: Sau khi dạy tại hai lớp 10B12 và 10B13 (học sinh tại hai lớp này có khả năng tiếp thu và ý thức học tập tương đương nhau) với hai phương pháp khác nhau: lớp 10B12 dùng phương pháp thuyết trình, lớp 10B13 dùng phương pháp thảo luận nhóm, kết quả thu được sau khi kết thúc năm học như sau: Kết quả Lớp 10B12 Lớp 10B13 (Phương pháp thuyết trình) (Phương pháp thảo luận nhóm) Giỏi 5.3% 14.3% Khá 60.4% 77% Trung bình 34.3% 8.7% Yếu 0% 0% Tổng 100% 100% Xếp loại Từ kết quả trên chúng ta nhận thấy nếu chỉ dùng phương pháp thuyết trình để giảng dạy thì kết quả là khả năng tiếp thu kiến thức của học sinh thấp hơn so với việc kết hợp sử dụng hoạt động thảo luận nhóm rất nhiều. Đây chỉ là một ví dụ về hiệu quả của việc sử dụng hoạt động nhóm trên lớp. Tôi chắc chắn rằng khi chúng ta biết sử dụng và kết hợp linh hoạt phương pháp này với các phương pháp khác thì chúng ta sẽ thu được kết quả tốt trong việc dạyhọc tin học nói riêng và các môn học khác nói chung. V. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG Đề tài đã đưa ra một cách chi tiết về công tác chuẩn bị, các bước thực hiện của phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học. Thảo luận nhóm là phương 18 pháp dạy học tích cực, phát huy tính chủ động, sáng tạo, năng lực diễn đạt, hợp tác, làm việc theo nhóm của HS - một phẩm chất quan trọng của người công dân trong xu thế hội nhập, toàn cầu hoá ngày nay. Nếu áp dụng phương pháp một cách nghiêm túc theo những nội dung trình bày ở trên, chắc chắn người dạy sẽ thu được những kết quả rất hữu ích. Tuy nhiên, đây là một phương pháp khó.Để vận dụng thành công phương pháp này, GV cần nắm vững kiến thức, có quy trình thảo luận khoa học cùng với nghệ thuật sư phạm.Bên cạnh đó, cần phải có điều kiện cơ sở vật chất thuận lợi và sự kết hợp linh hoạt thảo luận nhóm với các phương pháp dạy học khác. Trong thực tế, việc thảo luận nhóm còn gặp khó khăn. - Về thời gian: một tiết học 45 phút người thầy phải truyền tải nhiều nội dung của bài học, nếu dành nhiều thời gian cho việc thảo luận, giáo viên không dạy hết bài. - Về việc chia nhóm: số học sinh mỗi lớp hiện nay khoảng 45 em, nếu chia lớp thành 2 nhóm thì sẽ quá đông còn nếu chia làm nhiều nhóm thì không đủ không gian để thảo luận, hoặc chia nhóm như hiện nay có thể chấp nhận được nhưng giáo viên khó bao quát được lớp, khó phát hiện học sinh nào còn thụ động. - Về tâm lí: Một số học sinh sẽ ỷ lại vào nhóm trưởng, nếu giáo viên không bao quát lớp tốt sẽ có nhiều em thụ động, không tích cực - Về việc đánh giá kết quả học nhóm còn gặp khó khăn. - Hiện nay cũng chưa có văn bản nào quy định cho việc đánh giá thảo luận nhóm (hoặc làm việc theo nhóm học tập ở trường và ở nhà). Đây cũng là một hạn chế bởi lẽ nếu có điểm số đánh giá, thì chất lượng thảo luận nhóm chắc là sẽ khác vì nó bắt buộc học sinh phải cố gắng tối đa. Mặc dù phương pháp này vẫn còn gặp nhiều khó khăn khi thực hiện nhưng nó cũng tạo ra những chuyển biến tích cực trong việc dạy và học. Vậy nên, tôi mong muốn Ban giám hiệu trường THPT Dầu Giây nói riêng, các trường THPT khác nói chung cùng quý thầy cô sẽ tiếp tục nghiên cứu, xem xét và đề ra biện pháp hay một tiêu chí nào đó cho việc đánh giá kết quả hoạt động nhóm ngày càng khoa học, công bằng và khách quan hơn. 19 Tôi mong rằng trong năm học tới, phương pháp này vẫn được Ban Giám hiệu quan tâm chỉ đạo, tổ chức để cho giáo viên có điều kiện trao đổi và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong giảng dạy, nâng cao tay nghề phục vụ giảng dạy tốt hơn. Đặc biệt đối với môn Tin học, hy vọng hình thức đổi mới phương pháp giảng dạy “thảo luận nhóm” sẽ ngày càng được áp dụng phổ biến và càng nhiều người hưởng ứng hơn. Phạm vi đề tài này nhằm nghiên cứu giải pháp để nâng cao hiệu quả của phương pháp thảo luận nhóm khi giảng dạy trên lớp. Đề tài hoàn thành tháng 12 năm 2014. Trong tương lai tôi sẽ cố gắng thực hiện phương pháp này tốt hơn, đồng thời cũng tập trung nghiên cứu sâu về các phương pháp dạy học khác với mong muốn đạt được mục tiêu theo yêu cầu của Nhà nước về giáo dục. /. NGƯỜI THỰC HIỆN Lê Quốc Dũng 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan