Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Lớp 5 Skkn một số biện pháp phát triển phẩm chất cho học sinh lớp 5...

Tài liệu Skkn một số biện pháp phát triển phẩm chất cho học sinh lớp 5

.DOC
22
186
88

Mô tả:

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: "MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN PHẨM CHẤT CHO HỌC SINH LỚP 5" Lệ Thuỷ, tháng 3 năm 2019 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: "MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN PHẨM CHẤT CHO HỌC SINH LỚP 5 " Họ và tên: Lê Thị Mĩ Lệ Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Phú Thủy Lệ Thuỷ, tháng 3 năm 2019 A. PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn sáng kiến: “Giáo dục là nghệ thuật biến con người thành có đạo đức.” (Danh ngôn khuyết danh). Qua đó ta có thể hiểu tầm quan trọng của Giáo dục trong việc hình thành phẩm chất đạo đức cho học sinh. Dù có trong quá khứ hay thế kỉ XXI, thì sứ mạng thiêng liêng và không bao giờ thay đổi của giáo viên nói chung và giáo viên tiểu học nói riêng vẫn là người giáo dục kiến thức và nhân cách làm người cho học sinh. Giáo dục hiện nay đòi hỏi cao hơn nữa đó là hình thành được phẩm chất cho học sinh. Giáo dục phẩm chất, nhân cách cho học sinh tiểu học là một trong những hoạt động quan trọng của nhà trường, nhằm hình thành cho học sinh có lòng nhân ái, mang bản sắc của con người Việt Nam, biết chăm học, chăm làm, tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm, trung thực, kỉ luật, đoàn kết, yêu thương,... Có ý thức đầy đủ về bổn phận của mình đối với mọi người, đối với cộng đồng và môi trường cuộc sống, tôn trọng và thực hiện đúng pháp luật, các quy định của nhà trường. Bởi các em học sinh Tiểu học như những tờ giấy trắng, chúng ta phải hình thành phẩm chất cho các em sớm nhất có thể để khi lớn lên, hoà nhập vào cuộc sống mới, các em trở thành những con người có đủ “ chân, thiện, mĩ” làm đẹp thêm nền văn hoá người Việt Nam. Hiện nay, xã hội đang phát triển từng giây, từng phút. Đặc biệt, mạng internet được phổ biến rộng rãi và rất khó kiểm soát được nên một bộ phận giới trẻ, trong đó có học sinh Tiểu học đang phải chịu ảnh hưởng của những nét văn hoá không chính thống. Đặc biệt là học sinh lớp 5, nhiều em đang đứng giữa sự thay đổi tâm sinh lí, bản thân chưa xác định rõ về suy nghĩ cũng như hành động của mình. Điều quan trọng là phải luôn có người lớn bên cạnh để hướng dẫn, hỗ trợ kịp thời hoặc là chính bản thân các em phải hình thành và phát triển được những phẩm chất tốt đẹp để nhận biết được việc làm đúng - sai của mình. Là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy học sinh lớp 5, qua thực tế tình hình học sinh lớp tôi chủ nhiệm, bố mẹ đa số đầu tắt mặt tối với đồng áng, ít có thời gian theo sát con cái của mình. Vì vậy, tôi muốn đi sâu tìm hiểu và thực hiện những biện pháp giáo dục phẩm chất cho học sinh, giúp các em có nền tảng đạo đức, luôn vững vàng trước những khó khăn, thử thách của cuộc sống, trở thành những công dân có ích cho đất nước. Đồng thời, bản thân tôi cũng có được những kinh nghiệm cho năng lực chuyên môn nghiệp vụ của mình để ngày càng nâng cao chất lượng giáo dục. Qua gần một năm thử nghiệm có hiệu quả, tôi mạnh dạn đưa ra sáng kiến “ Một số biện pháp phát triển phẩm chất cho học sinh lớp 5.” II. Điểm mới của sáng kiến: Điểm mới của đề tài chính là không hình thành cả năng lực lẫn phẩm chất như một số tài liệu tôi đã tham khảo mà chỉ hình thành riêng phẩm chất để các nghiên cứu, thử nghiệm được chi tiết, sâu sát hơn. III. Phạm vi áp dụng sáng kiến: Sáng kiến “Một số biện pháp phát triển phẩm chất cho học sinh lớp 5.” được áp dụng đối với học sinh lớp 5 trong trường Tiểu học. B. PHẦN NỘI DUNG I. Thực trạng của việc giáo dục phẩm chất, kĩ năng sống cho học sinh 1. Về gia đình, nhà trường và địa phương 1.1. Thuận lợi: Địa phương và các cấp giáo dục luôn quan tâm chỉ đạo việc nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc giáo dục phẩm chất cho học sinh. Nhà trường và phụ trách chuyên môn luôn chú trọng, nhấn mạnh việc hình thành và phát triển phẩm chất cho học sinh thông qua các buổi họp, các buổi sinh hoạt chuyên môn. Nhà trường áp dụng dạy học theo mô hình VNEN nên đây là một trong những thuận lợi để giáo viên phát huy hết khả năng của mình trong việc hình thành phẩm chất cho học sinh. Bởi các hình thức tổ chức của mô hình VNEN có tác dụng cao trong việc hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh. Giáo viên chủ nhiệm cũng như các giáo viên bộ môn trẻ, nhiệt tình, luôn nỗ lực học hỏi để tìm kiếm, sáng tạo các biện pháp nhằm phát triển toàn diện cho học sinh. Đời sống kinh tế của người dân ngày một được cải thiện, do đó nhiều gia đình luôn chăm lo đến việc học tập và giáo dục con em mình. 1.2. Khó khăn Địa phương với đặc thù là vùng bán sơn địa, kinh tế còn tương đối khó khăn nên các khu vui chơi giải trí dành riêng cho trẻ em chưa có. Hiện tượng trộm cắp, cờ bạc,... vẫn còn khá nhiều. Thậm chí diễn ra ngay trong gia đình một số em. Trong thời kỳ công nghệ 4.0 mạng Internet phát triển mạnh mẽ, ở địa phương có nhiều quán Internet mọc lên thu hút nhiều em trốn gia đình tham gia chơi điện tử. Phần đông dân số là dân lao động, một bộ phận ăn nói tuỳ tiện, đạo đức lối sống chưa lành mạnh, chưa nêu gương được cho con trẻ. Một bộ phận không nhỏ phụ huynh khoán trắng việc nuôi dạy con cho thầy cô, thậm chí cả giáo dục về phẩm chất. Hoặc nếu có quan tâm thì chỉ mới quan tâm đến việc tiếp thu kiến thức hay điểm số của học sinh. Một số gia đình bố mẹ trẻ, đi làm ăn xa, ít có thời gian quan tâm thường xuyên đến các em. 2. Đặc điểm, tình hình lớp 5A đầu năm 2018-2019: 2.1. Đặc điểm tình hình lớp: Tổng số học sinh là 29 em ( nam: 12 em, nữ: 17 em). Không có học sinh khuyết tật, có 2 em tiếp thu quá chậm. Số học sinh con gia đình cán bộ là 3 em, con gia đình công nhân cao su là 2 em, con gia đình nông dân là 18 em và 6 em còn lại là con gia đình làm ăn tự do. Con gia đình hộ nghèo và cận nghèo là 4 em; phần đông số học sinh còn lại là con gia đình đông con, có hoàn cảnh kinh tế thấp; 1 em có bố mẹ li hôn, nhiều em có bố thường xuyên rượu chè, cờ bạc,... 2.2. Ưu điểm nổi bật về phẩm chất: Các em phần lớn ngoan, hiền, nghe lời cô giáo và cha mẹ, hồn nhiên, trong sáng, trung thực, đoàn kết với bạn bè. Tích cực trong các hoạt động tập thể. Thực hiện tương đối đầy đủ nội quy nhà trường. 2.3. Một số tồn tại về phẩm chất: Nhiều em vẫn còn nhút nhát, chưa mạnh dạn, tự tin, ngại giao tiếp, ít chia sẻ bài cùng các bạn, trình bày ý kiến còn rụt rè. Một số em ý thức kỉ luật chưa cao, thường xuyên đi học muộn, quên đồng phục, khăn quàng,... Một vài em thường gây gỗ với bạn, đôi khi còn nói tục, chửi thề. Vẫn có hiện tượng nói dối và mất đồ dùng học tập. Một số ít các em chưa tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình như làm rơi cặp bạn, làm gãy hoa, gãy bảng nhóm nhưng chưa tự nhận,... 2.4. Kết quả đánh giá phẩm chất lớp 5A đầu năm như sau: Phẩm chất Tổng số học sinh Tốt Đạt Cần cố gắng SL % SL % SL % Chăm học, chăm làm 29 12 41.4 12 41.4 5 17.2 Tự tin, trách nhiệm 29 10 34.5 13 44.8 6 20.7 Trung thực, kỉ luật 29 11 37.9 13 44.8 5 17.2 Đoàn kết , yêu thương 29 14 48.3 10 34.5 5 17.2 2.5. Nguyên nhân: * Nguyên nhân về phía gia đình Một số gia đình coi trọng kết quả học tập về kiến thức mà xem nhẹ việc uốn nắn giáo dục phẩm chất đạo đức cho các em, đáp ứng mọi nhu cầu về vật chất, những đòi hỏi của các em, các em không phải làm bất cứ việc gì ở gia đình dù là việc nhỏ vừa sức với lứa tuổi như quét nhà, rửa bát, nhặt rau,...khiến các em ích kỉ, chỉ biết đòi hỏi cho bản thân mình, thờ ơ, vô tâm với những gì xảy ra xung quanh, lười làm việc nhà. Một số phụ huynh quá thương con nên dẫn đến bao bọc, nuông chiều con, làm thay mọi việc cho con chuẩn bị áo quần đến sách vở trước khi con đi học. Một số gia đình cha mẹ chưa gương mẫu về đạo đức lối sống ảnh hưởng tiêu cực đến tư tưởng, tình cảm và phẩm chất của con em. Nhiều gia đình gây áp lực cho con, yêu cầu con phải đạt được thành tích, danh hiệu, trách phạt con khi con mắc lỗi khiến các em sợ sệt, thiếu tự tin, nói dối, làm đối phó,... Một số gia đình bố mẹ đi làm tối ngày, phó mặc việc giáo dục con cái cho thầy cô, tí quan tâm tới việc giáo dục con em mình, chưa chuẩn bị đầy đủ đồ dùng cho các em,... Một số gia đình để các em sử dụng máy tính, điện thoại, ti vi dẫn đến say mê điện tử, bắt chước các hiện tượng tiêu cực, bạo lực, chăm học, ngại học, ngại làm công việc nhà, làm vệ sinh lớp học, uể oải, mệt mỏi,... Một số học sinh tính tự quản, tự thực hiện các nhiệm vụ cá nhân còn hạn chế, chưa phân biệt được tốt xấu, ... *Nguyên nhân về phía giáo viên: Trước áp lực đổi mới toàn diện về giáo dục, một số giáo viên đôi khi không làm chủ được hành vi, dễ nổi nóng, quát nạt, la mắng khi học sinh phạm lỗi. Một số giáo viên do quỹ thời gian eo hẹp, kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ nên chưa quan tâm đúng mức trong việc phát hiện những hành vi sai trái và kịp thời uốn nắn cho học sinh. Việc kết hợp, lồng ghép, liên hệ trong giảng dạy giữa các phân môn nhằm nâng cao nhận thức và rèn luyện phẩm chất cho học sinh còn lúng túng và hạn chế. Bên cạnh đó, nhà trường do điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học còn thiếu thốn, kinh phí hạn hẹp nên ở trong các giờ học thì giáo viên ít có điều kiện tổ chức các trò chơi học tập, nhà trường không thường xuyên cho các em tham gia các buổi sinh hoạt ngoại khoá. *Nguyên nhân về phía xã hội: Ngoài môi trường gia đình và nhà trường, sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh còn phụ thuộc rất lớn vào môi trường xã hội. Hiện nay do sự phát triển kinh tế - xã hội, sự phát triển của mạng lưới thông tin hiện đại, sự du nhập của nhiều loại hình văn hoá khác nhau đã ảnh hưởng không ít đến tầng lớp thanh thiếu niên. Hiện tượng học sinh nghiện Net, nghiện game... ngày một gia tăng, đây là nguyên nhân tiền đề của hành vi trộm cắp. Nổi trội hiện nay là tình trạng sử dụng facebook để làm quen, kết bạn và nảy sinh tình cảm yêu đương quá sớm… Do còn quá non dại nên các em dễ bị rủ rê, lôi kéo vào các tệ nạn xã hội, gây nên những hệ lụy nghiêm trọng về nhân cách và đạo đức lối sống của tuổi học trò. * Nguyên nhân chủ quan về nhận thức của các em Do đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, lứa tuổi mà nhiều người cho rằng các em "Ăn chưa no, lo chưa đến", suy nghĩ còn non nớt, nhận thức chưa cao chính vì thế các em có những hành vi thiếu chuẩn xác là điều không thể tránh khỏi. Thêm vào đó, do suy nghĩ chưa thấu đáo, khi phạm phải sai lầm các em chưa biết lắng nghe, tiếp thu và sửa chữa để tiến bộ. Chính suy nghĩ ương bướng, cố chấp, luôn cho rằng người lớn áp đặt mình đã khiến các em khó sửa sai và tiến bộ. II. Một số biện pháp phát triển phẩm chất cho học sinh: Theo Thông tư 22/2016/TT-BGDĐT ban hành ngày 22 tháng 9 năm 2016 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định: Học sinh được đánh giá sự hình thành và phát triển một số phẩm chất của học sinh thông qua các biểu hiện hoặc hành vi sau: Chăm học, chăm làm; Tự tin, trách nhiệm; Trung thực, kỉ luật; Đoàn kết, yêu thương. Đánh giá bằng các mức độ: + Tốt: đáp ứng tốt yêu cầu giáo dục, biểu hiện rõ và thường xuyên; + Đạt: đáp ứng được yêu cầu giáo dục, biểu hiện nhưng chưa thường xuyên; + Cần cố gắng: chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu giáo dục, biểu hiện chưa rõ.” Dựa trên các biểu hiện về sự hình thành và phát triển phẩm chất của học sinh, tôi đưa ra một số biện pháp giáo dục phẩm chất của học sinh như sau: Biện pháp 1: Giáo viên cần nắm vững đặc điểm tâm sinh lí của học sinh: Giai đoạn tiểu học là giai đoạn phát triển tâm sinh lý quan trọng nhất của trẻ. Rất nhiều nghiên cứu khoa học đã chứng minh, học sinh trung học thậm chí là sinh viên đại học có những vấn đề tâm lý được bắt nguồn từ thời học tiểu học. Trong đó, lớp 5 là giai đoạn cuối của cấp tiểu học, lúc này trẻ đã khá vững vàng, tự tin và kiến thức được trang bị đầy đủ để chuẩn bị vào cấp học mới. * Xét về mặt tâm lí: Ở lứa tuổi này, tình cảm của các em không bền vững, các em dễ thay đổi, dễ bị kích động bởi những kích thích và tác động bên ngoài, khó kiềm chế. Hay bắt chước, thích được khen và được nêu gương trước mọi người. Các em bắt đầu bước vào giai đoạn đầu của lứa tuổi dậy thì nên rất muốn khẳng định mình, thích thể hiện bản thân, hồn nhiên, dễ tin và dễ có hành vi bột phát thiếu suy nghĩ. Học sinh tiểu học dễ thích nghi và tiếp nhận cái mới và luôn hướng tới tương lai. Nhưng cũng thiếu sự tập trung cao độ, khả năng ghi nhớ và chú ý có chủ định chưa được phát triển mạnh, tính hiếu động, dễ xúc động còn bộc lộ rõ nét. Trẻ nhớ rất nhanh và quên cũng nhanh. Học sinh ở giai đoạn này thường có nhiều nét tính cách tốt như ham hiểu biết, lòng thương người, lòng vị tha. Giáo viên nên tận dụng đặc tính này để giáo dục học sinh của mình nhưng cần phải đúng, phải chính xác, đi học đúng giờ, làm việc theo hướng dẫn của giáo viên. Tình cảm là một mặt rất quan trọng trong đời sống tâm lý, nhân cách của mỗi người. Đối với học sinh tiểu học, tình cảm có vị trí đặc biệt vì nó là khâu trọng yếu gắn nhận thức với hoạt động của trẻ em. Tình cảm tích cực sẽ kích thích trẻ em nhận thức và thúc đẩy trẻ em hoạt động. Tình cảm học sinh tiểu học được hình thành trong đời sống và trong quá trình học tập của các em. Vì vậy giáo viên cần quan tâm xây dựng môi trường học tập nhằm tạo ra xúc cảm, tình cảm tích cực ở trẻ để kích thích trẻ tích cực trong học tập. Ngoài ra tâm lí của học sinh còn bộc lộ ở việc thiếu cố gắng, thiếu khả năng phê phán và cứng nhắc trong hoạt động nhận thức. Học sinh có thể học được tính cách hành động trong điều kiện này nhưng lại không biết vận dụng kiến thức đã học vào trong điều kiện hoàn cảnh mới. Vì vậy giáo viên cần quan tâm tới việc việc phát triển tư duy và kỹ năng học tập cho học sinh trong môi trường nhóm, lớp. Việc học tập của các em còn bị chi phối bởi yếu tố gia đình, điều kiện địa lý và các yếu tố xã hội khác đòi hỏi nhà trường, gia đình, xã hội cần có sự kết hợp chặt chẽ để tạo động lực học tập cho học sinh. * Xét về mặt sinh lí: Theo một nghiên cứu chỉ ra rằng trẻ thường có các loại hành động thần kinh như: + Loại thần kinh mạnh, cân bằng, hưng phấn, tối ưu, nhanh, linh hoạt. + Loại thần kinh mạnh, không cân bằng, hưng phấn tăng, kiềm chế kém. + Loại thần kinh mạnh, cân bằng, chậm chạp, nói chậm. + Loại yếu , quá trình hưng phấn giảm Nắm vững được đặc điểm của các loại thần kinh, ta có thể xếp trẻ theo nhóm để có hướng giáo dục, uốn nắn hiệu quả hơn. Đối với trẻ em ở lứa tuổi tiểu học thì tri giác của học sinh tiểu học phản ánh những thuộc tính trực quan, cụ thể của sự vật, hiện tượng và xảy ra khi chúng trực tiếp tác động lên giác quan. Tri giác giúp cho trẻ định hướng nhanh chóng và chính xác hơn trong thế giới. Tri giác còn giúp cho trẻ điều chỉnh hoạt động một cách hợp lý. Trong sự phát triển tri giác của học sinh, giáo viên tiểu học có vai trò rất lớn trong việc chỉ dạy cách nhìn, hình thành kỹ năng nhìn cho học sinh, hướng dẫn các em biết xem xét, biết lắng nghe. Bên cạnh sự phát triển của tri giác, chú ý có chủ định của học sinh tiểu học còn yếu, khả năng điều chỉnh chú ý có ý chí chưa mạnh. Vì vậy, việc sử dụng đồ dùng dạy học là phương tiện quan trọng để tổ chức sự chú ý cho học sinh. Nhu cầu hứng thú có thể kích thích và duy trì chú ý không chủ định cho nên giáo viên cần tìm cách làm cho giờ học hấp dẫn để lôi cuốn sự chú ý của học sinh. Trí nhớ có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống và hoạt động của con người, nhờ có trí nhớ mà con người tích lũy vốn kinh nghiệm đó vận dụng vào cuộc sống. Đối với học sinh tiểu học có trí nhớ trực quan – hình tượng phát triển chiếm ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ – logíc. Tư duy của trẻ em mới đến trường là tư duy cụ thể, dựa vào những đặc điểm trực quan của đối tượng và hiện tượng cụ thể. Trong sự phát triển tư duy ở học sinh tiểu học, tính trực quan cụ thể vẫn còn thể hiện ở các lớp đầu cấp và sau đó chuyển dần sang tính khái quát ở các lớp cuối cấp. Trong quá trình dạy học và giáo dục, giáo viên cần nắm chắc đặc điểm này. Vì vậy, trong dạy học , giáo viên cần đảm bảo tính trực quan thể hiện qua dùng người thực, việc thực, qua dạy học hợp tác hành động để phát triển tư duy cho học sinh. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh phát triển khả năng phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa, khả năng phán đoán và suy luận qua hoạt động với thầy, với bạn. Trẻ em ở lứa tuổi tiểu học là thực thể đang hình thành và phát triển cả về mặt sinh lý, tâm lý, xã hội các em đang từng bước gia nhập vào xã hội thế giới của mọi mối quan hệ. Do đó, học sinh tiểu học chưa đủ ý thức, chưa đủ phẩm chất và năng lực như một công dân trong xã hội, mà các em luôn cần sự bảo trợ, giúp đỡ của người lớn, của gia đình, nhà trường và xã hội. Biện pháp 2: Giáo viên cần hoàn thành tốt công tác chủ nhiệm lớp Theo Điều lệ trường Tiểu học quy định: Giáo viên làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục học sinh trong trường Tiểu học và cơ sở giáo dục khác thực hiện chương trình giáo dục Tiểu học. Tuy nhiên bên cạnh đó, việc giáo dục nhân cách, phẩm chất cho học sinh cũng không kém phần quan trọng. Vì thế giáo dục phẩm chất cho học sinh một cách có hiệu quả là trách nhiệm của giáo viên. Như vậy, người giáo viên chủ nhiệm giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc giáo dục học sinh phát triển toàn diện. Để giáo dục học sinh có phẩm chất tốt thì người giáo viên phải gương mẫu để làm tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Bên cạnh đó, người giáo viên chủ nhiệm phải là người hiểu rõ hoàn cảnh, tính cách của từng học sinh. Qua thực tế kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp, để làm được điều đó, bản thân tôi thường tìm hiểu về học sinh như: Đầu năm tôi xem qua lí lịch, học bạ và tìm hiểu thêm thông tin thông qua các thầy cô giáo cũ, các bậc phụ huynh, học sinh để nắm được hoàn cảnh gia đình và học lực của các em. Cách tìm hiểu này theo tôi thì đạt hiệu quả rất tốt. Ngoài ra tôi còn tìm hiểu học sinh qua từng thói quen, hoạt động của các em ở lớp như: sinh hoạt lớp, giờ ra chơi, những buổi lao động, sinh hoạt sao, sinh hoạt ngoại khóa... trong cách tìm hiểu này tôi đã giúp đỡ được một số học sinh. Chẳng hạn như: Em Phan Trọng Phúc: khả năng tiếp thu nhanh song còn lười học, hoang nghịch, hay trêu chọc các bạn, thậm chí đùa nghịch ngoài giới hạn cho phép, đôi khi xảy ra ẩu đả, thương tích với các bạn. Bị cô giáo nhắc nhở, em hứa sẽ sửa chữa và không tái phạm nhưng rồi vẫn chứng nào tật đó. Trao đổi với phụ huynh, tôi nhận được thông tin phản hồi: Bố mẹ cháu đã li hôn, mẹ đi làm ăn xa, còn em sống với bà ngoại đã già, không theo sát được cháu hằng ngày. Trao đổi với giáo viên chủ nhiệm năm học trước tôi được biết em Phúc bề ngoài hiếu động, dễ nổi nóng song là cậu bé vô tư, hồn nhiên và sống tình cảm, thường hay kể cho cô giáo nghe về chuyện cá nhân mình. Đôi lúc cáu gắt với bạn, một lúc hết giận rồi lại thôi. Tôi nhận ra, em đang thiếu sự quan tâm, chia sẻ từ mọi người. Chính vì vậy, những giờ ra chơi, cuối giờ học, tôi thường ngồi nói chuyện cùng em và được biết thêm em còn sống cùng một người cậu và rất nghe lời của cậu. Tuy nhiên, do bận công việc và cậu cũng có gia đình riêng nên cậu ít khi để mắt tới cháu. Tôi liên lạc, trao đổi cùng cậu của em. Lên lớp có cô giáo kèm cặp, về nhà chịu sự “kiểm soát” của cậu. Bạn bè xung quanh cũng thường xuyên quan sát, phát hiện những hành vi, lời nói, cử chỉ chưa chuẩn mực và báo với cô giáo. Nhờ làm tốt mối quan hệ phối kết hợp đó mà những hành vi sai lệch của em Phúc được uốn nắn và sửa chữa kịp thời. Nhờ đó em tiến bộ hơn trong giao tiếp và ứng xử. Khi Phúc hòa đồng hơn cùng các bạn trong lớp, em biết quan tâm và giúp đỡ các bạn; biết nhận lỗi và sửa lỗi. Những việc làm tốt của em được tôi tuyên dương trước lớp và được cả lớp ghi nhận. Dần dần Phúc trở nên ngoan ngoãn và học ngày càng tiến bộ hơn. Biện pháp 3: Giáo dục phẩm chất cho học sinh thông qua các môn học Trong chương trình tiểu học, các môn học như Đạo đức, Tiếng Việt, Khoa học, Lịch sử, Địa lí, Âm nhạc,....đều có tác dụng giáo dục phẩm chất cho học sinh. Trong đó, môn Đạo đức là môn học chính để giáo dục phẩm chất cho học sinh. Thông qua môn Đạo đức, các em bước đầu có khái niệm về các hành vi đạo đức và các chuẩn mực đạo đức. Các em biết phân biệt tốt - xấu, đúng - sai, lễ phép - vô lễ… Từ đó có cái nhìn đúng đắn trong nhận thức và suy nghĩ; ý thức được việc nên và không nên làm. Đối với môn Đạo đức tôi có thể xem là một phương tiện quan trọng để thực hiện nhiệm vụ giáo dục tư tưởng, tình cảm, và những hiểu biết trong cuộc sống cho học sinh một cách trực tiếp, hoàn chỉnh và sâu sắc. Cần phải trang bị cho học sinh những tri thức đạo đức, các chuẩn mực về hành vi đạo đức có trong nội dung của mỗi bài học để trở thành kĩ năng sống, thói quen hàng ngày của mỗi học sinh. Muốn vậy giáo viên phải đi sâu tìm hiểu đặc trưng bộ môn vì ở đây đòi hỏi khả năng tự trao dồi của giáo viên rất lớn. Nên cần dạy nghiêm túc không qua loa, không xem nhẹ môn này. Đưa ra các phương pháp dạy học theo hướng tích cực nhằm gây hứng thú cho học sinh như thảo luận nhóm, đóng vai, phỏng vấn, diễn kịch ... Ví dụ: Khi dạy Đạo đức, bài 2: Có trách nhiệm về việc làm của mình, ở bài tập 3, tôi đã cho học sinh đóng vai xử lí tình huống như: “ Khi xin phép mẹ đi dự sinh nhật, em hứa sẽ về sớm nấu cơm. Nhưng mải vui, em về muộn.” Các em đã có những cách xử lí của riêng mình thông qua hành động lời nói cụ thể ở tình huống. Từ đó, các em nhớ lâu và kĩ hơn về cách ứng xử của mình để biết sống có trách nhiệm là gì? và phải chịu trách nhiệm về việc làm của mình ra sao? Ngoài môn Đạo đức, các môn học khác đều có nội dung tích hợp về giáo dục phẩm chất cho các em. Chính vì vậy, giáo viên chủ nhiệm cần phối hợp chặt chẽ với các giáo viên bộ môn để lồng ghép nội dung giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả và tích cực rèn luyện các phẩm chất đạo đức cho học sinh. Mặt khác, giáo viên chủ nhiệm cần giữ mối liên hệ thường xuyên với giáo viên bộ môn trong việc quản lí học sinh. Cần trình bày kế hoạch của mình, tìm biện pháp phối kết hợp để cùng giáo dục. Đề nghị giáo viên bộ môn nghiêm khắc với những trường hợp sai phạm để các em quyết tâm sửa chữa. Đặc biệt, luôn lưu ý với các thầy cô bộ môn giúp đỡ các em có thái độ trung thực trong học tập, tuyệt đối không để học sinh vi phạm trong thi cử. Khi làm bài trong các giờ kiểm tra phải thực sự nghiêm túc, không quay cóp, không giở sách, giở vở để phản ánh đúng thực chất của các em nhằm giúp thầy cô đánh giá đúng, chính xác và có cách uốn nắn kịp thời cho các em. Trong quá trình giảng dạy các môn học, tôi đặc biệt chú ý đến việc rèn kĩ năng giao tiếp, ứng xử cho học sinh: giao tiếp với thầy cô giáo, bạn bè và những người xung quanh. Tôi luôn nhắc nhở các em khi giao tiếp với thầy cô giáo và người lớn tuổi cần thể hiện thái độ lễ phép bằng các từ: “dạ thưa”, “vâng ạ”... Phải nói có đầu có đuôi, tránh nói trống không, cộc lốc. Khi học sinh nói, giáo viên cần chú ý lắng nghe, phát hiện và sửa sai kịp thời. Trường bản thân tôi đang công tác, thực hiện dạy học theo tài liệu dạy học VNEN, đây cũng là một thuận lợi cho các em phát triển phẩm chất tốt hơn. Ví dụ: Thông qua môn Tiếng Việt, khi hướng dẫn các em đặt câu thì phải đủ chủ ngữ, vị ngữ. Cũng như khi nói thì phải có đầu, có đuôi. Hoặc khi dạy Tiếng Việt bài 11A, hoạt động 6 về đại từ xưng hô, các em được thực hành kĩ ở phần đặt câu có sử dụng đại từ xưng hô để nắm chắc: khi xưng hô, cần chọn từ cho lịch sự, thể hiện đúng mối quan hệ giữa mình với người nghe và người được nhắc tới. Hoặc ở bài 29B, học sinh được diễn lại cảnh của câu chuyện "Một vụ đắm tàu", thông qua đó, các em biết phải yêu quý, giúp đỡ bạn như thế nào,... Học sinh diễn lại đoạn kịch “ Một vụ đắm tàu” trong giờ Tiếng Việt. Ở môn Tiếng Việt cũng có một nội dung giáo dục phẩm chất rất hay mà lại dễ nhớ đó chính là các câu ca dao, tục ngữ. Những câu ca dao, tục ngữ thường có nội dung giáo dục rất gần gũi, chân thực mà lại dễ nhớ, dễ hiểu. Vì vậy, tôi thường vận dụng các câu tục ngữ đó không chỉ trong giờ Tiếng Việt mà còn thường xuyên dùng trong tất cả các môn học. Ví dụ: Ở hiền gặp lành; Đói cho sạch, rách cho thơm; Tôn sư trọng đạo; Uống nước nhớ nhuồn;..... Đối với một số bài học không có nội dung về giáo dục phẩm chất, thì giáo viên vẫn có thể giáo dục cho các em về phẩm chất, thông qua chính các hoạt động trong tiết học. Ví dụ: cần đoàn kết với bạn bè trong quá trình hoạt động nhóm để thống nhất được kết quả thảo luận hay phải trung thực trong giờ kiểm tra,.... Biện pháp 4: Giáo dục phẩm chất cho học sinh thông qua tiết sinh hoạt lớp Tiết sinh hoạt lớp là thời gian trao đổi giữa giáo viên và học sinh, học sinh với học sinh về tất cả các mặt trong một tuần học. Để có được tiết sinh hoạt mang tính tích cực, ngay từ đầu năm, giáo viên phải đặt ra các nội quy và hướng dẫn rõ cách thực hiện các nội quy đó. Đồng thời, thiết kế sổ theo dõi cho các ban, các nhóm trưởng và Hội đồng tự quản về việc theo dõi thực hiện các nội quy đã đặt ra. Trong tiết sinh hoạt lớp, các em được thể hiện sự tự tin của mình, đưa ra những ý kiến của riêng mình trước các bạn, cô giáo và cả đại diện chi hội phụ huynh. Qua đó, các em ý thức được những hành động đúng sai của mình để có biện pháp khắc phục trong tuần tới. Thêm vào đó, giáo viên và phụ huynh cũng nắm bắt được kịp thời những mong muốn của học sinh để có biện pháp hỗ trợ kịp thời. Ở các buổi sinh hoạt, các em sẽ bầu chọn những gương mặt xuất sắc trong tuần để được cô giáo khen thưởng và tặng quà. Món quà tuy nhỏ, nhưng đó là sự khích lệ, động viên mang tính hứng thú đối với các em. Hiện nay, ở chương trình tiết sinh hoạt còn có thêm nội dung tích hợp Kể chuyện về Bác Hồ. Đây cũng là một nội dung có tác dụng cao trong việc phát triển phẩm chất cho học sinh. Bởi những câu chuyện về Bác Hồ mang tính giáo dục nhân cách, đạo đức rất lớn. Ví dụ: Ở tuần 15, các em được nghe câu chuyện “Không có việc gì khó”. Thông qua câu chuyện, các em sẽ học tập được đức tính kiên trì, nhẫn nại ở Bác Hồ. Từ đó liên hệ cho các em phải biết vượt qua khó khăn, cố gắng học hành sẽ có ngày thành tài. Một số tuần khác, ở cuối buổi sinh hoạt, tôi thường vận dụng công nghệ thông tin để lồng ghép giáo dục phẩm chất cho các em thông qua người thật, việc thật, các điển hình gương mẫu từ các chương trình như: Quà tặng cuộc sống, Cặp lá yêu thương, Việc tử tế,.... Giáo viên thường xuyên sưu tầm các nội dung hấp dẫn, dễ hiểu, dễ cảm nhận, phù hợp với lứa tuổi học sinh rồi cho các em xem và cùng nêu cảm nhận, suy nghĩ của em về nội dung chương trình và rút ra bài học cho bản thân. Đồng thời, khuyến khích các em nên giải trí ở nhà bằng cách xem các chương trình đó và đến lớp chia sẻ cho các bạn cùng nghe vào các buổi sinh hoạt đầu buổi. Học sinh xem chương trình “ Quà tặng cuộc sống” trong giờ Sinh hoạt lớp. Bên cạnh đó, tôi cũng cho các em tự kể về những tấm gương người tốt, việc tốt mà các em gặp hằng ngày, chỉ ra những việc làm xấu mà các em bắt gặp và nêu được lí do vì sao em cho đó là việc tốt hay việc xấu. Từ đó, các em dần dần nhận thức được những việc làm gì mình cần học hỏi và những việc nào mình cần lên án, không nên làm theo. Biện pháp 5: Giáo dục phẩm chất cho học sinh thông qua các hoạt động Đội trong và ngoài nhà trường Đây là tổ chức chuyên về mảng giáo dục phẩm chất học sinh. Tổ chức này có ban chỉ huy liên chi đội, có đội cờ đỏ thường xuyên theo dõi các hoạt động của toàn trường và từng lớp học, có một tổng phụ trách Đội chuyên trách tổ chức các hoạt động Đội và kịp thời xử lý những vi phạm của học sinh, hơn thế nữa có phong trào thi đua làm đòn bẩy nên thường các biện pháp luôn đạt hiệu quả giáo dục cao. Một số giáo viên chủ nhiệm lớp ngại trong việc khai báo những sai phạm của học sinh lớp mình vì sợ ảnh hưởng đến kết quả thi đua của lớp, nhưng với tôi việc kết hợp với tổ chức Đội là một biện pháp giáo dục có hiệu quả rất cao trong công tác giáo dục đạo đức học sinh. Đối với đội cờ đỏ: tôi yêu cầu các em ghi lại tên của tất cả những em vi phạm. Có như vậy thì tôi mới kịp thời có được thông tin và xử lý dứt điểm những vi phạm. Đối với các em ban chỉ huy liên chi đội - đội phát thanh măng non: Tôi thường xuyên cung cấp những cá nhân điển hình của lớp đưa vào các bản tin hằng ngày để tuyên dương khen ngợi, khích lệ tinh thần các em. Với tổng phụ trách Đội: tôi thường xuyên giữ mối quan hệ chặt chẽ. Tôi thường xuyên kết hợp các biện pháp giáo dục theo kiểu vừa đấm vừa xoa: đối với những đối tượng học sinh cá biệt tôi sử dụng biện pháp cứng rắn bên cạnh đó tôi nhờ tổng phụ trách đội động viên, những em tôi dùng biện pháp mềm mỏng thuyết phục tôi lại nhờ TPT Đội có biện pháp cứng rắn hơn, cũng có lúc kết hợp cả hai cùng chung biện pháp, ở những lúc này thì chúng tôi kết hợp chặt chẽ hơn về khâu theo dõi và các luồng thông tin về đối tượng học sinh vi phạm. Đề nghị TPT Đội tham mưu với chính quyền địa phương phối hợp tổ chức giáo dục các đối tượng học sinh có những hành động sai lệch: trộm cắp vặt, nghiện game, nghiện Internet, đánh nhau... Tổ chức Đội trong nhà trường là một tổ chức quần chúng rộng rãi tập hợp tất cả các em học sinh ở độ tuổi thiếu niên, nhi đồng ưu tú. Vì thế, nhu cầu mở rộng phạm vi, môi trường hoạt động tập thể đa dạng hơn, phong phú hơn và sinh động lý thú hơn là rất cần thiết. Tổ chức Đội với những hoạt động bổ ích đã thực sự đáp ứng được nhu cầu chính đáng đó của các em. Với các chủ đề, chủ điểm thi đua phù hợp với lứa tuổi, sinh động và hấp dẫn cho các em, phong trào hoạt động Đội trong và ngoài nhà trường đã thu hút và lôi cuốn các em một cách lành mạnh, có tác dụng tích cực cho việc hình thành nhân cách của các em. Chính vì vậy, giáo viên chủ nhiệm cần phải “trẻ hoá”, phải trở thành một người bạn lớn để cùng am hiểu tường tận về tổ chức Đội, cùng tham gia hoạt động vui chơi với các em, cùng hoà nhập để hiểu hơn tâm tư, tình cảm và nguyện vọng của các em và từ đó thông cảm hơn, yêu thương hơn, hiểu hơn và có trách nhiệm hơn với các em học sinh lớp mình phụ trách, mới thực sự trở thành người mẹ, người cha, người chị, người anh gần gũi thân thiết của các em để công tác giáo dục đạo đức học sinh đạt hiệu quả hơn. Ngoài ra, giáo viên chủ nhiệm có thể tham mưu cho TPT Đội để hàng tháng liên đội phải tổ chức các hoạt động giáo dục truyền thống đạo đức thông qua các tiết sinh hoạt dưới cờ, các buổi sinh hoạt tập thể theo các chủ điểm; các hoạt động vui chơi nhằm thu hút các em tham gia và tạo luồng sinh khí mới trong học tập như: Hội khỏe Phù Đổng, mâm cỗ trung thu, hội thi văn nghệ, tổ chức đố vui để học, rung chuông vàng, tổ chức các trò chơi dân gian, các hoạt động thể thao, các hoạt động hướng về cội nguồn, Thắp hương tại bia tưởng niệm,... Qua đó, rèn luyện cho các em ý thức tự giác, chấp hành kỉ luật, tự chịu trách nhiệm về các việc làm, trung thực nhận lỗi, biết sửa lỗi khi làm sai, biết sống có ích, biết đoàn kết, nhường nhịn bạn bè, biết nhớ ơn người có công, biết yêu quê hương đất nước,... Học sinh tham gia Hội khoẻ Phù Đổng Tham gia cuộc thi Rung chuông vàng. Nhà trường lên kế hoạch chỉ đạo phân công trách nhiệm cụ thể cho từng thành viên trong nhà trường về vấn đề giáo dục phẩm chất cho học sinh. Cần ý thức được rằng việc giáo dục phẩm chất, rèn luyện tác phong cho học sinh để trở thành người tốt là nhiệm vụ của tất cả các cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường chứ không phải của một ai. Mỗi cán bộ quản lí và giáo viên đều phải có trách nhiệm theo dõi, nhắc nhở, chấn chỉnh từng hành vi của học sinh, có trách nhiệm xử lí ngay lập tức khi có tình huống xảy ra. Biện pháp 6: Giáo dục phẩm chất cho học sinh thông qua các buổi hoạt động tập thể, hoạt động ngoài giờ lên lớp, lao động. Các hoạt động tập thể như sinh hoạt dưới cờ đầu tuần, sinh hoạt tập thể, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, lao động công ích, các hoạt động tình nghĩa,… đều góp phần quan trọng vào sự hình thành và phát triển phẩm chất cho học sinh. Trong đó đặc biệt chú trọng đến vấn đề giáo dục đạo đức, các hành vi ứng xử, giao tiếp và rèn các kĩ năng sống cho học sinh. Do đó, giáo viên cần tận dụng tối đa hiệu quả của phân môn này để hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh bằng cách liên hệ thực tế. Để giáo dục phẩm chất cho học sinh thông qua các buổi sinh hoạt tập thể, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, tôi luôn lồng ghép thông qua: kể chuyện tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, gương “người tốt, việc tốt”, tuyên dương những học sinh ngoan, chăm học, lễ phép; tuyên dương những hành động có ý nghĩa lớn: giúp đỡ bạn có hoàn cảnh khó khăn, giúp đỡ bạn tiến bộ trong học tập... Đặc biệt giáo viên cần chú trọng khâu rèn ý thức cho học sinh khi tham gia các hoạt động tập thể. Tính tích cực, tự giác; tinh thần đoàn kết, tự quản… là những yêu cầu quan trọng hàng đầu. Học sinh thắp hương tại nhà bia tưởng niệm Tham gia vẽ tranh về An toàn giao thông Như vậy, bằng cách lồng ghép giáo dục phẩm chất cho học sinh thông qua các buổi sinh hoạt tập thể ý thức tự quản, tự giác, mạnh dạn, tự tin… của học sinh tiến bộ rõ rệt. Các em biết quan tâm, giúp đỡ nhau trong học tập và lao động. Sự giao khoán về chất lượng, thi đua giữa các nhóm, các tổ trong tất cả mọi hoạt động đã giúp học sinh đoàn kết, tương trợ lẫn nhau cùng hoàn thành công việc. Chính những điều đó đã hình thành nên những nét tính cách tốt trong nhân cách của các em. Biện pháp 7: Giáo dục phẩm chất cho học sinh thông qua phối hợp tốt mối quan hệ giữa “gia đình – nhà trường – xã hội” Đây là mối quan hệ mật thiết và không thể thiếu được bởi giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức tác phong học sinh không chỉ là công tác của giáo viên chủ nhiệm mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội đối với thế hệ trẻ, mầm non tương lai của đất nước. Vì vậy, trong quá trình làm công tác của nhiệm của mình, tôi luôn ý thức được sự cần thiết và tầm quan trọng trong mối quan hệ chặt chẽ giữa giáo viên chủ nhiệm với giáo viên bộ môn và gia đình học sinh với các tổ chức đoàn thể trong xã hội là rất cần thiết. Bên cạnh việc giữ vững mối quan hệ với giáo viên bộ môn thì việc hình thành nhân cách cho các em không thể không có vai trò của phụ huynh học sinh tham gia. Hằng ngày ngoài thời gian các em đến trường, số thời gian còn lại hầu như các em không có sự kiểm soát của thầy cô giáo, của nhà trường mà các em ở trong sự kiểm soát của gia đình và xã hội. Vì vậy giáo dục phẩm chất cho các em cần phải có sự phối hợp chặt chẽ của phụ huynh. Tuy nhiên, trong thực tế tiếp xúc với các bậc phụ huynh, tôi nhận thấy rõ một điều là: Không phải quý vị phụ huynh nào cũng nhiệt tình, tận tâm với công việc phối hợp này, họ có đủ muôn vàn lí do để “xin lỗi “hoặc “phó thác” cho giáo viên chủ nhiệm với phương châm: “Trăm sự nhờ thầy cô giúp đỡ”. Bên cạnh đó, theo như tìm hiểu, lớp tôi chủ nhiệm có nhiều học sinh sống với ông bà, bố mẹ đi làm ăn xa; hoặc nếu có sống với bố mẹ thì bố mẹ cũng đi làm việc từ sáng đến tối. Thời gian chăm con, quan tâm, kèm cặp việc học của con cái là hoàn toàn không có. Thêm vào đó, phụ huynh học sinh đa số làm nghề nông. Kiến thức văn hóa còn hạn chế. Do đó, việc bày vẽ cho con em gặp nhiều khó khăn. Vì vậy mà đa phần học sinh có sai phạm đều do giáo viên chủ nhiệm phát hiện rồi tìm cách tháo gỡ chứ không phải do gia đình nhận biết để nhờ nhà trường quan tâm giúp đỡ cùng giáo dục con em mình. Đây cũng là một khó khăn lớn mà chúng ta phải luôn trăn trở để tìm giải pháp khắc phục tốt nhất nhằm nâng cao không ngừng chất lương toàn diện cho các em học sinh. Việc phối kết hợp giữa giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh học sinh nhằm mục đích cùng chăm lo giáo dục học sinh chưa ngoan về đạo đức, chưa ngoan về học tập. Đặc biệt đối với diện học sinh chưa ngoan, mối quan hệ này lại cần thiết hơn bao giờ hết. Ví dụ: Ở lớp 5A, có em Hoàng Thị Tuyết, gia đình không thuộc diện chính sách nhưng cũng khá khó khăn, bố mẹ thì ít chữ, lại đầu tắt mặt tối suốt ngày, ở nhà lại có em nhỏ. Có khi, Tuyết phải bỏ học ở nhà giữ em. Nên kết quả học tập thường không cao. Chính vì vậy, tôi phải gặp gỡ phụ huynh của em, ttrao đổi với mẹ của em, nên dành thời gian ở nhà cho em học bài. Bên cạnh đó, vào cuối giờ học hoặc các ngày thứ bảy, chủ nhật, tôi phụ đạo thêm. Tôi cũng dặn dò học sinh trong lớp, nhất là những em ở gần nhà thường xuyên quan tâm, giúp đỡ bạn. Với tinh thần đoàn kết, các bạn trong lớp thường xuyên quan tâm, hỏi han, động viên tinh thần, thỉnh thoảng còn luân phiên hỗ trợ việc học ở nhà cùng bạn. Nhờ bù đắp kiến thức bị hỏng kịp thời nên em theo kịp bài, năng lực tiếp thu, vận dụng cũng thành thạo hơn. Bên cạnh đó, trong nhà trường học sinh thường mắc những sai lệch mà chúng ta cùng với phụ huynh phải lo toan cần giáo dục như: Ý thức tự giác học tập chưa cao. Không học bài, làm bài trước khi đến lớp; Nói chuyện trong giờ học; Thiếu trung thực, vô lễ với mọi người; Gây gỗ đánh nhau, nói tục, nói dối;....Vì vậy ngay từ đầu năm học giáo viên chủ nhiệm phải tìm hiểu kỹ học sinh lớp của mình thông qua thầy cô dạy lớp trước, tìm hiểu qua học sinh để báo phụ huynh biết ngay buổi họp phụ huynh đầu tiên tất cả những sai lệch, những biểu hiện tiêu cực mà học sinh dễ mắc phải để họ soi vào con em mình mà có giải pháp kịp thời ngăn chặn, sửa chữa. Một sự phối hợp lớn nữa mà bất kỳ một giáo viên nào muốn làm tốt công tác giáo dục phẩm chất cho học sinh lớp của mình là phải coi trọng và biết kết hợp chặt chẽ với tổ chức Đội trong nhà trường để quản lý và giáo dục học sinh. Giáo viên chủ nhiệm cần phối hợp chặt chẽ với giáo viên TPT Đội trong việc quản lí học sinh thực hiện tốt nội quy của lớp, của trường; chấp hành nghiêm túc các quy định của người học sinh; thực hiện tốt 5 điều Bác Hồ dạy; đặc biệt cần chú trọng đến việc nêu “gương tốt” (Ví dụ: giúp đỡ bạn cùng tiến bộ, nhặt được của rơi trả lại cho người đánh mất, giữ gìn và bảo vệ môi trường, làm kế hoạch nhỏ…), phê bình, nhắc nhở những hành vi không tốt (Ví dụ: gây gổ đánh đập nhau, ăn cắp vặt, vi phạm luật giao thông, xả rác không đúng quy định…) để vừa có tác dụng làm gương cho học sinh noi theo vừa răn đe, giáo dục các em. Ngoài ra, giáo viên cũng cần phối hợp với địa phương, các tổ chức đoàn thể, nhất là cơ sở Đoàn ở địa phương để thống nhất nội dung giáo dục, ngăn chặn kịp thời các hành vi có chiều hướng xấu khi các em không có ở trong nhà trường. Đặc biệt, vào dịp nghỉ hè, học sinh sẽ càng có cơ hội sa ngã nếu bố mẹ không tác động kịp thời. Vì vậy, sau khi bàn giao học sinh về địa phương cho các chi đoàn cơ sở, việc tạo một môi trường vui chơi lành mạnh ở địa phương cũng góp phần không nhỏ vào việc giáo dục phẩm chất cho các em. III. Kết quả: Qua việc thực hiện các biện pháp trên, bản thân nhận thấy các em có tiến bộ rõ rệt. Các em hăng hái học tập hơn, thi đua nhau giành nhiều thành tích để được khen thưởng cuối tuần. Các em biết có ý thức trong nội quy lớp học, chấp hành tốt kỉ cương của trường, nề nếp của lớp. Đặc biệt, mặc dù có sự cạnh tranh để được khen thưởng nhưng các em biết yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau, không ganh tị, đố kị với bạn bè. Không có hiện tượng học sinh vi phạm về phẩm chất đạo đức như đánh bạn, lấy đồ của bạn,... Các em không còn nhút nhát, mà mạnh dạn, tự tin khi giao tiếp, chia sẻ bài cùng các bạn. Hiện tượng đi học muộn, quên đồng phục, khăn quàng,...đã không còn. Lớp thường xuyên được đãn đầu trong các buổi chào cờ đầu tuần. Các em thường xuyên chia sẻ, tâm sự cùng cô giáo, tự tin, thân thiện, tích cực trong mọi hoạt động. Kết quả đánh giá phẩm chất giữa học kỳ II lớp 5A so với đầu năm thì các em tiến bộ rất nhiều. Cụ thể như sau: Phẩm chất Tổng số học sinh Tốt Đạt Cần cố gắng SL % SL % SL % Chăm học, chăm làm 29 24 82.2 5 17.2 0 0 Tự tin, trách nhiệm 29 22 75.9 7 24.1 0 0 Trung thực, kỉ luật 29 23 79.3 6 20.7 0 0 Đoàn kết , yêu thương 29 23 79.3 6 20.7 0 0
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan