Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng về tài sản chung và tài tài sản riêng...

Tài liệu Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng về tài sản chung và tài tài sản riêng

.DOCX
12
103
127

Mô tả:

A. Lời mở đầu. Trong cuộc sống ai cũng có tài sản riêng của mình và có cả tài sản chung với người khác. Trong đó ai cũng có quyền và nghĩa vụ riêng đối với khối tài sản của mình. Trong quan hệ hôn nhân gia đình vợ chồng nào cũng có khối tài sản chung để suy trì cuộc sống gia đình, nuôi con cái,… Trong gia đình vợ chồng ngoài khối tài sản chung ra, còn rất nhiều gặp vợ, chồng còn có tài sản riêng của mình không gia nhập khối tài này vào khối tài chung của gia đình. Hoặc vợ hay chồng còn có khối tài sản chung với người khác như góp vốn lập công ty, lập doanh nghiệp, kinh doanh riêng và cũng là tài để vợ, chồng thực hiện nghĩa vụ riêng của mình. Vì vậy luật hôn nhân và gia đình Việt Nam có quy định về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng về tài sản chung và tài sản riêng. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tài sản cho công dân cũng như nghĩa vụ phải thực hiện của công dân. Xã hội ngày càng phát triển cuộc sống gia đình hiện đại như ngày nay vấn đề kinh tế liên quan đến giao dịch dân sự về tài sản ngày càng lớn và ngày càng phát sinh nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến tài sản.Vì vậy vợ và chồng càng có trắc nhiện và nghĩa vụ rất lớn đối với tài sản chung và tài sản riêng của mình. Nhưng những căn cứ của pháp luật để xác định quyền và nghĩa vụ của vợ chồng về tài sản chung và tài tài sản riêng vẫn còn nhiều hạn chế do với sự phát triển của xã. Vì vậy pháp luật của chúng ta nói chung và luật hôn nhân và gia đình nói riêng trong đó cần phải hoàn thiện hơn nữa về chế độ tài sản của vợ chồng cần phải được bổ sung sửa đổi cho hoàn thiện hơn nữa để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. 1 B. Nội dung. Theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam vợ chồng có quyền và nghĩa vụ về tài sản là: Quyền và nghĩa vụ về tài sản giữa vợ chồng đóng vai trò quan trọng trong đời sống gia đình bao gồm. Vợ chồng có quyền sở hữu tài sản chung và có quyền sở hữu tài sản riêng. Vợ chồng có nghĩa vụ cấp dưỡng nhau theo quy định của pháp luật và có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định của pháp luật. Tài sản là cơ sở kinh tế bảo đảm cho gia đình thực hiện tốt các chức năng của xã hội. Pháp luật nước ta quy định những căn cứ để xác định nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng của vợ chồng về tài sản. 1. Quyền sở hữu tài sản của vợ chồng. Trên thực tế vợ chồng có tài sản chung và còn có tài sản riêng. - Quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất. Tài sản chung của vợ chồng được xác định dựa vào nguồn gốc phát sinh của tài sản ( điều 27 luật hôn nhân và gia đình năm 2000) là tài sản do vợ chồng tạo ra, thu nhập do lao động hoạt động sản xuất, kinh doanh trong thời kỳ hôn nhân mà có thể như: Tiền lương, tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền chúng sổ số mà vợ chồng có được hoặc tài sản mà vợ chồng xác lập quyền sở hữu theo luật dân sự 2005 tại các điều 239, điều 240, điều 241, điều 242, điều 243, điều 244, hoặc tài sản mà vợ chồng mua sắm bằng thu nhập nói trên hay tài sản mà vợ chồng được tặng, cho chung hoặc thừa kế chung. Tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi hôn nhân, hay tài sản mà vợ hoặc chồng được cho, tặng riêng, được thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân nhưng đã thỏa thuận nhập vào khối tài chung hoặc theo pháp luật quy định là tài sản chung. Tài sản chung hợp nhất của vợ chồng là tài sản thuộc sở hữu chung mà trong đó mà trong đó quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu không thể xác định được đối với 2 khối tài sản chung. Vì vậy chỉ có khi nào phân chia tài sản chung của vợ chồng thì mới xác định phần tài sản của từng người trong khối tài sản chung ấy. Tính chất của quan hệ hôn nhân là cùng chung ý chí, vợ chồng cùng chung công sức tạo nên khối tài sản chung nhằm xây dựng gia đình bảo đảm cho gia đình thực hiện tốt các chức năng của xã hội như. Phát triển kinh tế gia đình vững mạnh, tạo điều kiện tốt cho việc nuôi dạy con cái, vì thế pháp luật Việt Nam quy định tài sản chung thuộc sở hữu của vợ chồng chỉ căn cứ vào nguồn gốc, thời điểm phát sinh của tài sản mà không căn cứ vào công sức đóng góp của mỗi người trong việc tạo dựng, phát triển khối tài sản chung vì một lí do nào đó như. Sức khỏe, chăm sóc con cái, công việc gia đình, đặc thù công việc… Nên việc đóng góp công sức vào khối tài sản chung có thể không bằng nhau nhưng quyền sở hữu là ngang bằng nhau. Tài sản chung của vợ chồng không nhất thiết là cả vợ và chồng trực tiếp tạo ra, có thể chỉ là do vợ hoặc chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân. - Quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản riêng. Pháp luật ta thừa nhận vợ chồng có quyền có tài sản riêng và xác định rõ nguồn gốc phát sinh tài sản riêng của vợ và chồng. Tài sản riêng của vợ chồng là tài sản mà vợ hoặc chồng có từ trước khi kết hôn, hay tài sản vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân. Những hoa lợi, lợi tức như. Đồ dùng, tư trang cá nhân,… Phát sinh từ tài sản của vợ hoặc chồng, tài sản được chia từ khối tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đó là tài sản riêng, tài sản riêng của vợ chồng còn có thể bao gồm những tài sản mà vợ, chồng thỏa thuận là tài sản riêng của một bên. Như vậy luật hôn nhân và gia đình quy định vợ , chồng có quyền có tài sản riêng là phù hợp với chế định quyền sở hữu riêng về tài sản của công dân. Cũng là cơ sở pháp lý cho vợ, chồng thực hiện các quyền, nghĩa vụ và định đoạt về tài sản một cách độc lập không phụ thuộc vào ý chí của bên kia. Khi 3 vợ chồng chung sống với nhau họ có thể thỏa thuận với nhau trong việc sử dụng tài sản riêng của mỗi người sao cho phù hợp. Tuy nhiên để đảm bảo cho cuộc sống chung của gia đình, quyền định đoạt của tài sản riêng có thể bị hạn chế trong các trường hợp mà pháp luật quy định như. (khoản 5 điều 33 luật hôn nhân và gia đình hiện nay) “tài sản riêng của vợ chồng đã đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải được sự thỏa thuận của cả vợ chồng”. Tại (khoản 4 điều 33) “tài sản riêng của vợ, chồng cũng được sử dụng vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình” khi tài sản chung của gia đình không đủ để đảm bảo đời sống chung của gia đình, những tài sản đã chi dùng cho gia đình thì người có tài sản riêng không được quyền đòi lại nữa. Quy định này của pháp luật cũng là nhằm bảo vệ cuộc sống của gia đình, lợi ích các thành viên khác trong gia đình. 2. Những căn cứ xác định nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng của vợ chồng về tài sản. - Căn cứ xác định nghĩa vụ chung của vợ chồng về tài sản. Những quy định tại điều 28 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và nghị định số 70/2001/NĐ-CP là cơ sở pháp lý quan trọng trong thực tiễn áp dụng luật hôn nhân và và gia đình liên quan đến giao dịch dân sự. Vợ, chồng là đồng sở hữu tài sản chung nên khi thực hiện quyền sở hữu là bình đẳng vợ chồng cùng nhau bàn bạc, thỏa thuận sử dụng tài sản nhằm bảo đảm chung cho đời sống của gia đình, việc định đoạt, sử dụng nhằm tài sản chung đem lại lợi ích nhiều nhất cho cuộc sống chung của gia đình. Bảo đảm nghĩa vụ nuôi dưỡng, gióa dục các con cũng như quyền lợi của các thành viên khác trong gia đình. Với nền kinh tế thị trường, quan hệ hôn nhân cuộc sống chung của vợ chồng đòi hỏi vợ chồng phải với giao dịch người khác là một điều tất yếu có liên quan đến tài sản chung của vợ chồng. 4 Vì vậy pháp luật ta quy định: Đối với những giao dịch thông thường lên quan đến tài sản “không có giá trị lớn” nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của gia đình thì hành vi xử sự của vợ, chồng khi định đoạt tài sản chung đó luôn được pháp luật công nhận là sự thỏa thuận đương nhiên của cả hai vợ chồng. Ví dụ như. Vợ, chồng hàng ngày dùng tiền bạc, tài sản chung bảo đảm các nhu cầu ăn, ở, học hành, chữa bệnh,…. Thì những giao dịch này được coi là đã có sự thỏa thuận đương nhiên của vợ chồng. Đối với tài sản chung có giá trị lớn như. xe máy, ôtô, nhà ở,… Thì pháp luật quy định hợp đồng liên quan đến tài sản chung phải được kí kết bằng văn bản và phải tuân theo quy định của luật vợ, chồng phải cùng trực tiếp kí vào văn bản (hợp đồng) hoặc có giấy ủy quyền của vợ hoặc chồng kí thay mới có hiệu lực. Nhằm đảm bảo lợi ích chung của gia đình pháp luật còn quy định tại khoản 3 điều 28 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và điều 4 nghị định số 70/2001/NĐ – CP ngày 03/10/2001 của chính phủ. Theo khoản 2 điều 28 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 tài sản chung của vợ chồng phải được thực hiện các nghĩa vụ của vợ chồng. Trong cuộc sống chung của gia đình do nhu cầu đòi hỏi vợ, chồng phải có mối quan hệ (giao dịch) với nhiều người khác và những phí tổn về vật chất như. Tiền bạc,tài sản,… Để đáp ứng cho quyền lợi của vợ chồng và gia đình như. Cơm áo, tiền gạo,… Nhiều khi tài sản của gia đình không đủ đáp ứng nhu cầu cuộc sống của gia đình vợ, chồng phải “vay, mượn” tiền bạc, tài sản của người khác vì nhu cầu của gia đình. Đó cũng là nghĩa vụ của vợ chồng phải thanh toán trả nợ cho chủ nợ thì khối tài sản của vợ chồng phải đảm bảo cho các món nợ đó. Theo nguyên tắc nếu là nợ chung thì cả vợ chồng điều có nghĩa vụ trả nợ, có thể trích từ khối tài sản từ khối tài sản chung của vợ chồng hoặc là xác định nghĩa vụ cả hai cả vợ và chồng phải có trách nhiệm chi trả khoản nợ đó. Nhưng ngược lại nếu vợ hoặc chồng “vay nợ” mà sử dụng vào mục đích cá nhân (mục đích riêng không phải mục đích chung của gia đình) thì người 5 vợ, người chồng phải có nghĩa vụ thanh toán “trả nợ” bằng tài sản riêng , nếu vợ, chồng không có tài sản riêng thì việc trả nợ là phần tài sản của vợ, chồng đó có trong khối tài sản chung, khi có yêu cầu. Mà không buộc người vợ hoặc chồng kia có trách nhiệm được. Trên thực tế cho thấy vấn đề phân biệt nợ chung hay nợ riêng của vợ, chồng là rất khó khăn, phức tạp để quy trách nhiệm chung cho vợ chồng, hay trách nhiệm riêng (cá nhân) cho vợ hoặc chồng. Thực tế khi có tranh chấp xảy ra như vợ chồng li hôn thì tài sản tiền bạc lại diễn ra gay gắt, phức tạp thực tiễn việc áp dụng luật giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng ở nước ta trong nhiều năm qua đã chứng minh điều đó. Có trường hợp một bên vợ, chồng vay nợ hoặc cả hai vợ chồng cùng nhau vay nợ nhưng chỉ một bên vợ hoặc chồng kí (điểm chỉ) vào giấy vay nợ đến khi tranh chấp việc xác định “nợ chung” hay “nợ riêng” là rất khó khăn giữa vợ chồng và chủ nợ. Nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp cho bên thứ ba pháp luật ta đã có dự liệu nhằm quy kết trách nhiệm chung của hai vợ chồng đối với các giao dịch dân sự hợp pháp do một bên vợ hoặc chồng thực hiện vì nhu cầu thiết yếu của gia đình đây cũng là một ttrong những quy định mới của luât hôn nhân và gia đình năm 2000 về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung. Như vậy nếu một bên vay nợ vì mục đích gia đình như : Ăn, ở, học hành, chữa bệnh,..thì món nợ đó đảm bảo thanh toán bằng tài sản chung và cả vợ và chồng đều có trách nhiệm trả món nợ đó. Tuy nhiên cũng phải xem xét vợ, chồng vay nợ nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình như thế nào? Pháp luật ta đã dự liệu và quy định tại các điều, khoản. Điều 25 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 dự liệu “Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình”. Ngoài ra còn quy định tại khoản 5 điều 33 luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Và theo quy định tại khoản 3 điều 95 của luật này. “ Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng do vợ chồng thỏa thuận; Nếu không thỏa thuận được 6 thì yêu cầu tòa án giải quyết”. Các nghĩa vụ liên quan đến vợ chồng, lợi ích chung của gia đình khi thực hiện nghĩa vụ liên quan đến tài sản thì dùng khối tài sản chung của vợ chồng để thực hiện nghĩa vụ chung. - Căn cứ xác định nghĩa vụ riêng của vợ, chồng về tài sản. Khoản 1 điều 33 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định “Vợ, chồng có quyền chiếm hữu định đoạt tài sản riêng của mình, trừ trường hợp quy định tại khoản 5 điều này” Vợ chồng tự quản lý tài sản riêng của mình là chủ sở hữu tài sản của mình vợ chồng có toàn quyền sở hữu, chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt đối với tài sản riêng của mình không phụ thuộc vào ý chí của người chồng, người vợ. Hoặc vợ chồng có thể ủy quyền cho người khác quản lý…. Theo luật định vợ, chồng cũng phải chịu trách nhiệm (thực hiện nghĩa vụ) đối với hành vi của vợ, chồng liên quan tới tài sản riêng của mỗi bên. Mà pháp luật quy định. Hoặc có yêu cầu. - Điều 33 khoản 4 luật hôn nhân gia đình năm 2000 quy định “tài sản riêng của vợ, chồng cũng được sử dụng vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình trong điều kiện tài sản gia đình không đủ đáp ứng” như vậy khi cuộc sống chung của gia đình của gia đình gặp khó khăn, tài sản chung không lo đủ cuộc sống thì vợ chồng phải có nghĩa vụ đóng góp sử dụng tài sản riêng của mình vào việc đáp ứng cho nhu cầu cuộc sống của gia đình nghĩa vụ này của vợ chồng là xuất phát từ việc bảo đảm cho lợi ích chung cuộc sống của gia đình. - Theo khoản 3 điều 33 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định “nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh toán riêng từ tài sản của người đó”. Nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng là nghĩa vụ riêng của vợ, chồng phát sinh từ các khoản vay (nợ) từ người khác sử dụng vào mục đích riêng của cá nhân, mà không phải là vì lợi ích chung của gia đình: Hay nghĩa vụ bồi 7 thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của vợ , chồng gây ra hoặc các loại nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật như. Nghĩa vụ cấp dưỡng các thành viên khác trong gia đình như cha, mẹ con, vợ, chồng mà vợ, chồng phải thực hiện nghĩa vụ này. Vợ, chồng phải thực hiện các nghĩa vụ của mình bằng tài sản riêng, theo quy định của pháp luật. + Nghĩa vụ trả các khoản nợ mà vợ, chồng đã vay của người khác từ trước khi kết hôn mà không phải từ nhu cầu đời sống chung của gia đình. Đây là một quy định hoàn toàn hợp lý. + Nghĩa vụ trả các khoản nợ mà vợ, chồng đã vay của người khác trong thời kỳ hôn nhân sử dụng vào mục đích riêng không đáp ứng nhu cầu thiết yếu và lợi ích chung của gia đình. Là các khoản nợ mà vợ chồng vay chỉ đảm bảo cho lợi ích riêng của vợ, chồng. Vì vậy: Vợ, chồng phải thực hiện nghĩa vụ đó bằng tài sản riêng của mình không thể buộc vợ, chồng bên kia liên đới thực hiện nghĩa vụ này. + Nghĩa vụ trả các khoản nợ phát sinh trong quá trình quản lí, sử dụng, định đoạt tài sản riêng. Quá trình quản lý, sử dụng, bảo quản tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân bằng các khoản chi phí mà vợ chồng đã vay của người khác, theo nguyên tắc vợ vợ chồng phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ bằng tài sản riêng của mình. + Khoản 3 điều 12 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của chính phủ “Trong trường hợp Toà án chưa cho chia di sản theo quy định tại khoản 1 Điều này, thì bên còn sống chỉ có quyền sử dụng, khai thác để hưởng hoa lợi, lợi tức phát sinh từ di sản và phải giữ gìn, bảo quản di sản như đối với tài sản của chính mình; không được thực hiện các giao dịch có liên quan đến việc định đoạt di sản, nếu không được sự đồng ý của những người thừa kế khác.” Trong trường hợp trên vợ, chồng phải bồi thường thiệt hại cho người khác bằng tài sản riêng của mình theo quy định của pháp luật. 8 + Từ các khoản nợ phát sinh khi thực hiện các nghĩa vụ về tài sản gắn liền với nhân thân thân vợ chồng như các khoẳn chi phí cho con riêng của mình ( trừ trường trường hợp quy định tại điều 38 luật hôn nhân và gia đình năm 2000, vợ , chồng với tư cách là bố dượng, mẹ kế có nghĩa vụ và quyền trông nom, nuoi dưỡng chăm sóc, giáo dục con riêng cùng chung sống với mình được quy định tại điêu 34, 36, 37 luật hôn nhân và gia đình năm 2000) hoặc những chi phí cho người mà vợ chồng là người giám hộ theo quy định của pháp luật. + Nghĩa vụ cấp dưỡng mà vợ chồng phải thực hiện đối với các thành viên trong gia đình như ông bà nội,ông bà ngoại, giữa anh chị em, giữa các thành viên trong gia đình. Đó là nghĩa vụ một người phải thực hiện đóng góp tiền hoặc tài sản để đáp ứng nhu cầu cuộc sống của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống, hoặc nuôi dưỡng người đó trong trường hợp người đó chưa thành niên, người đã thành niên mà không có khả năng lao động để tự nuôi sống bản thân….theo khoản 1 điều 8 luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Như vậy vợ chồng với tư cách là : ông, bà,cha, mẹ, con, anh, chị, em phải thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng theo quy định tại luật hôn nhân và gia đình quy định tại các điều từ điều 47 đến điều 62 luật hôn nhân và gia đình năm 2000. + Vợ, chồng phải có nghĩa vụ trả các khoản nợ phát sinh trên cơ sở vợ chồng đã có hành vi tự mình tiến hành các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn của vợ chồng là nguồn sống duy nhất của gia đình. Vợ hoặc chồng đã vi phạm vào (khoản 3 điều 28 của luật hôn nhân và gia đình năm 2000). + Trách nhiệm của vợ, chồng phải bồi thường thiệt hại phát sinh từ hành vi trái pháp luật của vợ , chồng. Các trường hợp trên như. Thanh toán các khoản nợ, bồi thường thiệt hại,… Vợ, chồng phải có nghĩa vụ thanh toán, bồi thường bằng tài sản riêng của mình nếu tài sản riêng không đủ, hoặc không có thì phải trích chia phần tài sản của vợ, chồng trong khối tài sản 9 chung của vợ chồng, vợ chồng cũng có thể thỏa thuận để thực hiện bằng tài sản chung. Luật hôn nhân và gia đình hiện hành đã được dự liệu cụ thể rõ ràng hơn so với luật hôn nhân và gia đình năm 1986. Về các quy định nghĩa vụ của vợ, chồng về tài sản. Tuy nhiên trên thực tế vẫn còn nhiều vụ việc khi xảy ra tranh chấp, liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản của vợ, chồng vẫn còn nhiều bất cập, khiếu kiện kéo dài,.. Nên pháp luật nước ta cần phải xây dựng hoàn thiện hơn nữa quy định về nghĩa vụ tài sản của vợ, chồng. 3. Phương hướng hoàn thiện pháp luật quyền và nghĩa vụ của vợ chồng về tài sản. Qua những căn cứ xác định nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng của vợ chồng về tài sản, và qua tìm hiểu các vụ việc tranh chấp, bồi thường, thanh toán liên quan đến nghĩa vụ của vợ, chồng về tài sản trên thực tế cho thấy luật hôn nhân và gia đình nói riêng và pháp luật của nước ta nói chung cần phải nghiên cứu, phát triển hoàn thiện hơn nữa để đáp ứng nhu cầu pháp triển của xã hội. Vì trên thực tế qua các vụ việc đã giải quyết cho thấy vẫn còn nhiều vụ việc xảy ra tình trạng giải quyết đi giải quyết lại nhiều lần gây khiếu nại lâu dài, tốn kém tiền của,... Khi giải quyết xong thì tính thuyết phục chưa cao, gây ra nhiều vụ việc phải giải quyết lại. Qua các điều luật, văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật cho thấy. Pháp luật cần phải quy định rõ, cụ thể tài sản chung. Tài sản riêng của vợ chồng để thanh toán các khoản nợ, bồi thường thiệt hại mà vợ chồng phải thực hiện. Đối với nghĩa vụ chung của vợ chồng, pháp luật cần phải cụ thể hóa, dự liệu cụ thể ( bổ sung khoản 2 điều 28 luật hôn nhân và gia đình năm 2000) về tài sản chung của vợ chồng bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng thì phải bao gồm: - Các khoản nợ phát sinh nhằm nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình. 10 - Các khoản nợ liên quan đến việc quản lý sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chồng - Các khoản nợ phát sinh liên quan đến công việc mà vợ chồng cùng nhau thực hiện. Món nợ liên quan đến tài sản riêng của vợ, chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình. - Các khoản nợ theo thỏa thận của hai vợ chồng. Và pháp luật nên quy định rõ ràng sự thỏa của vợ chồng phải được ghi bằng văn bản và có chữ ký của hai người, trước khi vay. Đối với việc đăng kí tài sản chung, pháp luật nên quy định cụ thể (những tài sản khác) cần đăng kí tên của hai vợ chồng là những lại tài sản nào cần phải bắt buộc để có sự áp dụng thống nhất trong thực tiễn thi hành. Như vậy pháp luật nên quy định trước khi kết hôn thì phải xác nhận tài sản riêng, của tất cả các gặp vợ chồng là cần thiết. và tài sản nào nhập vào tài sản chung. Nhà nước nên cân nhắc liệu có nên quy định các cặp vợ chồng chung sống với nhau bao nhiêu năm thì quy định vợ, chồng có tài sản riêng sẽ quy định thành tài sản chung. Tài sản riêng là đò dùng tư trang cá nhân được pháp luật ghi nhận là tài sản riêng của vợ chồng (khoản 1 điều 32 luật hôn nhân và gia đình năm 2000) Tuy nhiên việc quy định đồ dùng, tư trang cá nhân là tài sản riêng mà không giải thích cụ thể sẽ có nhiều quan điểm khác nhau về loại tài sản này. Vì vậy khi xác nhận tài sản riêng cần xem xét nguồn gốc và gía trị của đồ dùng nếu có tài sản có giá trị khá lớn so với khối tài sản chung của hai vợ chồng và được sử dụng vào mục đích chung của gia đình thì nên coi đó là tài sản chung. Xong xong với viêc đổi mới và hoàn thiện pháp luật thì. Cần phải tăng cường và đổi mới công tác phổ biến pháp luật, tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật hôn nhân và gia đình nói chung và đặc biệt trú trọng đến việc 11 tuyên truyền, giáo dục về các quyền sở hữu trong gia đình (tài sản) để nâng cao sự hiểu biết của nhân dân về pháp luật nói chung về các quy định sở hữu về tài sản nói riêng. Làm tốt được công tác này C. Kết luận Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 của nước ta hiện nay. Nhà nước ta trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, nhìn chung nhiệm vụ và các nguyên tắc cơ bản của luật hôn nhân và gia đình đã được đảm bảo thực và đạt được nhiều thành tựu trong xã hội của nhiều năm qua, đã được nhân dan tôn trọng và chấp hành, Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong quá trình thực hiện và áp dụng trong luật hôn nhân và gia đình nói chung. Trong việc áp dụng quyền và nghĩa vụ của vơ, chồng về tài sản nói riêng vẫn còn bộc lộ một số hạn chế nhất định nhiều điều quy định của luật vãn còn mang tính nguyên tắc chung khái quát thiếu cụ thể trên thực tiễn. Vì vậy nhà nước cần phải cụ thẻ hóa hơn về vấn đề nghĩa vụ tài sản của vợ chồng cho kịp thời với cuộc sống với các điều kieenjj kinh tế xã hội của cơ chế thị trường. Cũng là để bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho nhân dân. Và chặn được những người có ý định chốn chánh trách nhiệm, lợi dụng người khác khi thực hiện nghĩa vụ riêng của mình. 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan