Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Quyền nhân thân của cá nhân đối với tính mạng, sức khỏe, thân thể trong pháp luậ...

Tài liệu Quyền nhân thân của cá nhân đối với tính mạng, sức khỏe, thân thể trong pháp luật dân sự việt nam

.PDF
99
238
84

Mô tả:

MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa ............................................................................................................ 1 Lời cam đoan ............................................................................................................. 2 Lời cảm ơn ................................................................................................................ 3 Mục lục...................................................................................................................... 4 MỞ ĐẦU ...........................................................................................................6 Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN NHÂN THÂN CỦA CÁ NHÂN ĐỐI VỚI TÍNH MẠNG, SỨC KHOẺ, THÂN THỂ...........................................................10 1.1. Khái quát chung về quyền nhân thân của cá nhân ....................................10 1.1.1. Khái niệm quyền nhân thân của cá nhân ........................................10 1.1.2. Đặc điểm quyền nhân thân của cá nhân ..........................................16 1.1.3. Phân loại quyền nhân thân của cá nhân ..........................................21 1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung của quyền nhân thân của cá nhân đối với tính mạng, sức khoẻ, thân thể .........................................................................24 1.2.1. Khái niệm ........................................................................................24 1.2.2. Đặc điểm .........................................................................................25 1.2.3. Nội dung ..........................................................................................27 1.3. Quyền nhân thân của cá nhân đối với tính mạng, sức khoẻ, thân thể trong pháp luật Việt Nam qua các giai đoạn phát triển ..........................................29 1.3.1. Giai đoạn trƣớc 1945 ......................................................................29 1.3.2. Giai đoạn từ 1945 đến trƣớc khi ban hành Bộ luật dân sự 2005 ....31 1.3.3. Bộ luật dân sự 2005 và các quy định về quyền nhân thân của cá nhân đối với tính mạng, sức khoẻ, thân thể ..........................................................34 Chƣơng 2. NỘI DUNG CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ CÁC QUYỀN NHÂN THÂN CỦA CÁ NHÂN ĐỐI VỚI TÍNH MẠNG, SỨC KHOẺ, THÂN THỂ .................................................................................................39 2.1. Quyền đƣợc bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể ..............40 2.1.1. Khái quát chung ..............................................................................40 2.1.2. Nội dung quyền ...............................................................................42 4 2.2. Quyền hiến bộ phận cơ thể; hiến bộ phận cơ thể, hiến xác sau khi chết; quyền nhận bộ phận cơ thể ............................................................................51 2.2.1. Những vấn đề chung .......................................................................51 2.2.2. Quyền hiến bộ phận cơ thể .............................................................59 2.2.3. Quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết ..................................63 2.2.4. Quyền nhận bộ phận cơ thể ngƣời ..................................................68 2.3. Quyền xác định lại giới tính ......................................................................70 2.3.1. Cơ sở quy định ................................................................................71 2.3.2. Những vấn đề chung về giới tính ....................................................73 2.3.3. Nội dung quyền xác định lại giới tính ............................................76 Chƣơng 3. BẢO VỆ QUYỀN NHÂN THÂN CỦA CÁ NHÂN ĐỐI VỚI TÍNH MẠNG, SỨC KHOẺ, THÂN THỂ BẰNG PHÁP LUẬT DÂN SỰ Ở NƢỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ............................................................................82 3.1. Khái quát chung về bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân đối với tính mạng, sức khoẻ, thân thể bằng pháp luật dân sự ....................................................82 3.1.1. Khái niệm ........................................................................................82 3.1.2. Đặc điểm của việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân đối với tính mạng, sức khoẻ, thân thể bằng pháp luật dân sự ......................................86 3.1.3. Các biện pháp bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân đối với tính mạng, sức khoẻ, thân thể trong pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành. .........89 3.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật dân sự về bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân đối với tính mạng, sức khoẻ, thân thể trong giai đoạn hiện nay ..................................................................................................................96 3.2.1. Nhu cầu khách quan của việc hoàn thiện quy định của pháp luật dân sự về bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân đối với tính mạng, sức khoẻ, thân thể trong giai đoạn hiện nay .................................................................96 3.2.2. Một số giải pháp tăng cƣờng hiệu quả bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân đối với tính mạng, sức khoẻ, thân thể bằng pháp luật dân sự ............................................................................................................................105 KẾT LUẬN .......................................................................................................110 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................111 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đảm bảo quyền con ngƣời, quyền công dân hiện nay thực sự đã trở thành thƣớc đo cho sự phát triển và tiến bộ của mỗi quốc gia. Các quyền con ngƣời rất đa dạng và đƣợc đảm bảo thực hiện bằng nhiều ngành luật khác nhau, trong đó luật dân sự là một ngành luật đặc biệt quan trọng. Các quyền dân sự của cá nhân đƣợc ghi nhận và bảo vệ ở hai nhóm chính là quyền tài sản và quyền nhân thân. Quyền nhân thân là nhóm quyền cơ bản và quan trọng của công dân trong quan hệ dân sự. Đặc biệt trong xã hội ngày nay, khi mà cuộc sống đã no đủ hơn, kinh tế và khoa học kỹ thuật đã phát triển ở một trình độ cao hơn, giá trị con ngƣời ngày càng đƣợc đề cao hơn thì nhu cầu đƣợc bảo vệ các quyền nhân thân của con ngƣời trong xã hội cũng ngày càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Các quyền nhân thân của cá nhân không phải là vấn đề mới mẻ trong pháp luật cũng nhƣ trong lĩnh vực nghiên cứu. Song cùng với sự phát triển của cuộc sống và khoa học kỹ thuật hiện đại ngày càng có nhiều quyền của con ngƣời đòi hỏi phải có sự ghi nhận và bảo đảm thực hiện bằng pháp luật dân sự nhằm đảm bảo tốt nhất các quyền con ngƣời. Bộ luật dân sự 2005 ra đời đã ghi nhận trong đó rất nhiều những sửa đổi, bổ sung quan trọng, đặc biệt là phần quy định về các quyền nhân thân. Trong đó mảng quyền nhân thân của cá nhân đối với tính mạng, sức khỏe, thân thể có nhiều sửa đổi, bổ sung nhất. Những vấn đề về quyền nhân thân của cá nhân đối với tính mạng, sức khỏe, thân thể đã và chƣa đƣợc Bộ luật dân sự 2005 điều chỉnh hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau đặt ra cho hoạt động nghiên cứu lập pháp những nhiệm vụ mới. Hơn nữa, việc nghiên cứu các quyền nhân thân của cá nhân đối với tính mạng, sức khỏe, thân thể và bảo vệ các quyền này theo quy định của pháp luật dân sự có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động thực tiễn. Chính từ những lý do trên đây, chúng tôi đã quyết định chọn vấn đề “Quyền nhân thân của cá nhân đối với tính mạng, sức khỏe, thân thể trong pháp luật dân sự Việt Nam” làm đề tài luận văn của mình. 6 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Bộ luật dân sự Việt Nam ra đời tƣơng đối muộn, vì vậy có rất nhiều nội dung kế thừa luật dân sự của một số nƣớc phát triển trên thế giới nhƣ Pháp, Liên Xô, Đức… Tuy nhiên, Bộ luật dân sự Việt Nam lại đƣợc coi là mẫu mực và rất tiến bộ so với Bộ luật dân sự của các nƣớc đi trƣớc chính là ở chỗ Bộ luật dân sự Việt Nam dành hẳn một chƣơng quy định về quyền nhân thân trong khi ở Bộ luật dân sự ở các nƣớc khác không có mục riêng cho quyền nhân thân. Mặc dù vậy, đối với Việt Nam, đây vẫn là vấn đề còn nhiều mới mẻ, phức tạp. Đặc biệt cùng với sự ra đời của Bộ luật dân sự 2005, trong lĩnh vực quyền nhân thân nói chung và quyền nhân thân của cá nhân đối với tính mạng, sức khoẻ, thân thể nói riêng đã có rất nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng đặt ra cho khoa học pháp lý những nhiệm vụ nghiên cứu mới. Cho đến nay chúng ta đã tổ chức đƣợc khá nhiều các cuộc hội thảo, toạ đàm trong nƣớc cũng nhƣ quốc tế liên quan đến Bộ luật dân sự nói chung và quyền nhân thân nói riêng. Trong đó phải kể đến nhƣ: Hội thảo quyền nhân thân và bảo vệ quyền nhân thân bằng pháp luật dân sự do Nhà pháp luật Việt Pháp tổ chức tại Hà Nội các ngày 24, 25, 26 tháng 11 năm 1997; Hội thảo Bộ luật dân sự sửa đổi do Nhà pháp luật Việt Pháp tổ chức tại Hà Nội từ ngày 25 đến ngày 28 tháng 8 năm 2003. Ngoài ra còn có rất nhiều các cuộc hội thảo của các chuyên gia pháp lý trong nƣớc về dự thảo Bộ luật dân sự 2005 trong đó vấn đề quyền nhân thân của cá nhân đối với tính mạng, sức khoẻ, thân thể đƣợc đề cập và nghiên cứu trên nhiều phƣơng diện khác nhau… Ngoài ra chúng ta cũng có các bài báo, bài viết đăng trên các báo và tạp chí chuyên ngành nghiên cứu về vấn đề này. Tuy nhiên có một điểm dễ nhận thấy là những bài viết về vấn đề quyền nhân thân nói chung và quyền nhân thân của cá nhân đối với tính mạng, sức khoẻ, thân thể nói riêng còn rất ít và chủ yếu mới chỉ đề cập đến khía cạnh bảo vệ quyền nhân thân. Hầu nhƣ chƣa có một công trình khoa học lớn nào đi sâu nghiên cứu vấn đề này. Vì vậy, ngƣời viết hy vọng luận văn của mình sẽ là một trong những công trình đầu tiên nghiên cứu tổng quát và chuyên sâu một lĩnh vực quan trọng của quyền nhân thân - quyền nhân thân của cá nhân đối với tính mạng, sức khoẻ, thân thể; ở cả 7 khía cạnh nội dung và cơ chế bảo vệ quyền theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Nhƣ đã trình bày ở trên, quyền nhân thân của cá nhân là một mảng đề tài rất rộng. Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi chỉ lấy các quyền nhân thân của cá nhân đối với tính mạng, sức khoẻ, thân thể đƣợc quy định trong pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành làm đối tƣợng nghiên cứu chính. Để làm rõ vấn đề, luận văn sẽ đi vào nghiên cứu, đánh giá nội dung các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành về các quyền nhân thân của cá nhân đối với tính mạng, sức khoẻ, thân thể. Đồng thời, luận văn cũng phân tích, đánh giá việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân đối với tính mạng, sức khoẻ, thân thể bằng pháp luật dân sự trong giai đoạn hiện nay. 4. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lê Nin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Cơ sở phƣơng pháp luận của luận văn là Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với một số phƣơng pháp khoa học khác nhƣ phân tích, tổng hợp, so sánh. Trong luận văn chúng tôi chủ yếu sử dụng phƣơng pháp phân tích, đánh giá. 5. Ý nghĩa và mục đích của luận văn Thực hiện đề tài nghiên cứu này giúp ngƣời viết hiểu sâu sắc hơn về một vấn đề rất quan trọng trong luật dân sự và là vấn đề mới đang đƣợc xã hội hết sức quan tâm. Đồng thời cùng với việc nghiên cứu để viết luận văn này, bản thân ngƣời viết sẽ có thêm nhiều kinh nghiệm, nhiều kiến thức khi giải quyết những vấn đề có liên quan đến hoạt động nghề nghiệp của mình. Với luận văn này, chúng tôi chỉ hy vọng sẽ đem đến cho ngƣời đọc một cái nhìn tƣơng đối khái quát và tổng hợp về một mảng rất nhỏ trong nội dung các quyền nhân thân đƣợc pháp luật dân sự điều chỉnh, đó là quyền nhân thân của cá nhân đối 8 với tính mạng, sức khoẻ, thân thể. Đồng thời đem đến cho ngƣời đọc những hiểu biết và nhận thức đúng đắn về bảo vệ những quyền này trong giai đoạn hiện nay. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài lời nói đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc kết cấu gồm 3 chƣơng nhƣ sau: Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về quyền nhân thân của cá nhân đối với tính mạng, sức khoẻ, thân thể Chƣơng 2: Nội dung của pháp luật dân sự hiện hành về các quyền nhân thân của cá nhân đối với tính mạng, sức khoẻ, thân thể Chƣơng 3: Bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân đối với tính mạng, sức khoẻ, thân thể bằng pháp luật dân sự trong giai đoạn hiện nay. 9 Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN NHÂN THÂN CỦA CÁ NHÂN ĐỐI VỚI TÍNH MẠNG, SỨC KHOẺ, THÂN THỂ. 1.1. Khái quát chung về quyền nhân thân của cá nhân 1.1.1. Khái niệm quyền nhân thân của cá nhân. Trong quan hệ dân sự, bên cạnh các quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân là một trong hai đối tƣợng điều chỉnh chủ yếu của pháp luật dân sự và là một loại quan hệ mang tính xã hội sâu sắc, rộng lớn, phản ánh sự phát triển và tiến bộ của xã hội. Một quan hệ pháp luật dân sự nói chung đƣợc cấu thành bởi ba yếu tố: chủ thể, khách thể và nội dung. Trong đó, nội dung của quan hệ pháp luật dân sự chính là yếu tố cơ bản nhất để phân loại quan hệ đó là quan hệ tài sản hay quan hệ nhân thân. Nội dung của quan hệ pháp luật dân sự là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ đó, chính những yếu tố này đã gắn kết quyền lợi, hành vi của các chủ thể, thúc đẩy họ tham gia vào một quan hệ pháp luật dân sự cụ thể. “Quan hệ nhân thân là quan hệ giữa ngƣời với ngƣời về một giá trị nhân thân của cá nhân hay tổ chức. Việc xác định một giá trị nhân thân là quyền nhân thân phải đƣợc pháp luật thừa nhận nhƣ một quyền tuyệt đối của cá nhân, tổ chức”[17,Tr.12]. Nhƣ vậy, quyền nhân thân chính là một nội dung của quan hệ pháp luật dân sự về nhân thân. Nó là những quy định của pháp luật cho phép chủ thể đƣợc hƣởng, đƣợc làm, đƣợc đòi hỏi liên quan đến các giá trị nhân thân của mình khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự. Để hiểu rõ hơn về bản chất của quyền nhân thân, chúng ta sẽ xem xét nó với tính chất là một loại quyền trong hệ thống các quyền nói chung, để từ đó tìm ra những nét đặc trƣng cơ bản của quyền nhân thân. Quyền nhân thân là một loại quyền nằm trong hệ thống các quyền nói chung. Hệ thống này bao gồm các khái niệm về quyền có phạm vi từ rộng đến hẹp hơn: quyền con người quyền công dân quyền dân sự quyền nhân thân và có thể biểu hiện mối quan hệ đó bằng sơ đồ khái quát: 10 Quyền con ngƣời Quyền công dân Quyền dân sự Quyền nhân thân Quyền về tài sản * Quyền con ngƣời Con ngƣời là chủ thể của xã hội. Bản chất của con ngƣời chính là tổng hoà của các mối quan hệ xã hội. Giá trị của con ngƣời luôn luôn là giá trị cao nhất. Thừa nhận các giá trị của con ngƣời chính là thừa nhận các quyền của con ngƣời. Việc thừa nhận và đảm bảo các quyền con ngƣời có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Lời nói đầu của bản tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền ngày 10/ 12/ 1948 đã khẳng định “Nhận định rằng sự thừa nhận những phẩm giá vốn có của tất cả thành viên thuộc gia đình nhân loại cũng nhƣ các quyền bình đẳng, không thể tƣớc bỏ đƣợc của họ, là nềân tảng của tự do, công lý và hoà bình trên thế giới”[26,Tr.142]. “Quyền con ngƣời (nhân quyền hoặc quyền làm ngƣời) là những quyền mặc nhiên khi đƣợc sinh ra cho đến trọn đời mà không ai có quyền tƣớc bỏ. Đó là những quyền cơ bản của con ngƣời nhƣ quyền sống, quyền tự do, quyền bình đẳng, quyền mƣu cầu hạnh phúc...”[23,Tr.399]. Nhƣ vậy, quyền con ngƣời là khái niệm quyền đầu tiên. Tất cả những gì gắn với bản chất tự nhiên và xã hội của con ngƣời đều đƣợc ghi nhận là những quyền của con ngƣời ví dụ nhƣ với bản chất tự nhiên là quyền sống, quyền tự do và quyền an toàn về cá nhân; quyền bất khả xâm phạm về thân thể, tính mạng, sức khoẻ…; với bản chất xã hội nhƣ các quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngƣỡng, tôn giáo, tự do hội họp và lập hội hoà bình... Từ ý nghĩa này, quyền con ngƣời có phần nào đó gắn liền với khái niệm “quyền tự nhiên”. Tuy nhiên 11 không thể tuyệt đối hoá quyền của con ngƣời với tƣ cách là các quyền tự nhiên. Nhƣ vậy, ngƣời ta có thể lập luận rằng tôi là con ngƣời và tôi có tất cả các quyền định đoạt đối với bản thân tôi. Trong một xã hội có nhà nƣớc và pháp luật, điều đó là không thể bởi vì pháp luật điều chỉnh xã hội không chỉ vì lợi ích của một cá nhân mà còn vì bảo vệ các giá trị xã hội khác nhau, bảo vệ lợi ích của cả cộng đồng. Vì những lợi ích đó mà các quyền tự nhiên của con ngƣời sẽ đƣợc pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Sự ghi nhận đó ở mỗi quốc gia khác nhau, mỗi chế độ chính trị - xã hội khác nhau sẽ có những nội dung không giống nhau. Và đó chính là cơ sở cho sự ra đời của quyền công dân. * Quyền công dân “Quyền công dân là những quyền cơ bản mà hiến pháp của mỗi nƣớc quy định cho công dân và ngƣời mang quốc tịch của nƣớc mình. Ở những nƣớc có chế độ chính trị xã hội khác nhau, có nền kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hoá khác nhau thì phạm vi và mức độ quyền công dân cũng rộng hẹp khác nhau”[23,Tr.399]. Quyền công dân mang tính xác định hơn so với quyền con ngƣời, nó gắn liền với mỗi quốc gia và đƣợc pháp luật của mỗi quốc gia quy định. Nội dung quyền công dân ở từng quốc gia là không giống nhau nhƣng bất luận là ở quốc gia nào thì cũng không có sự đối lập giữa quyền con ngƣời và quyền công dân. Quyền công dân thực chất chính là những quyền con ngƣời đƣợc ghi nhận trong hiến pháp của mỗi quốc gia. Với ý nghĩa đó, quyền công dân là sự thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nƣớc và công dân thông qua cơ chế Nhà nƣớc ghi nhận và đảm bảo cho các quyền của công dân đƣợc thực hiện. Tuy nhiên để các quyền này đƣợc thực thi trên thực tế thì nó phải đƣợc rất nhiều ngành luật khác nhau nhƣ lao động, hôn nhân gia đình, dân sự... cụ thể hoá bằng việc quy định các quyền cụ thể tƣơng ứng với từng quan hệ xã hội mà ngành luật đó điều chỉnh. Và đó chính là cơ sở cho sự ra đời của khái niệm Quyền dân sự. * Quyền dân sự 12 Với ý nghĩa là sự cụ thể hoá các quyền công dân đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp, quyền dân sự đƣợc hiểu là “những quyền công dân đƣợc thể hiện trong mối quan hệ giữa các cá nhân và đƣợc bảo đảm bằng pháp luật dân sự”[44,Tr.6] hoặc “quyền dân sự là cách sử sự đƣợc phép của chủ thể trong quan hệ dân sự. Quyền dân sự hiểu theo nghĩa rộng là quyền của chủ thể đƣợc pháp luật quy định nhƣ là nội dung của năng lực pháp luật của chủ thể đó. Nhƣ vậy, các chủ thể khác nhau thì có các quyền dân sự khác nhau. Quyền dân sự hiểu theo nghĩa hẹp là quyền của chủ thể trong quan hệ nhất định mà chủ thể đó tham gia, quyền tự mình thực hiện những hành vi nhất định, yêu cầu ngƣời có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ, yêu cầu cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm”[15,Tr.104]. Nhƣ vậy, quyền dân sự là một khái niệm đƣợc bao hàm trong nội dung quyền con ngƣời, quyền công dân. Khi các quyền công dân đƣợc quy định thành các quyền cụ thể cho các chủ thể tham gia quan hệ dân sự thì nó trở thành các quyền dân sự. Quyền dân sự là một nội dung của quan hệ dân sự quy định cho các chủ thể tham gia quan hệ dân sự đƣợc hƣởng, đƣợc làm, đƣợc đòi hỏi. Đối tƣợng điều chỉnh của luật dân sự là các quan hệ liên quan đến tài sản và các quan hệ liên quan đến nhân thân vì vậy các loại quyền đƣợc luật dân sự ghi nhận cũng bao gồm hai loại: quyền liên quan đến tài sản và quyền nhân thân. Nhƣ vậy, quyền nhân thân là một bộ phận của quyền dân sự, là một khái niệm đƣợc bao hàm trong khái niệm quyền dân sự. * Quyền nhân thân Trong khoa học pháp lí có nhiều cách định nghĩa khác nhau về quyền nhân thân. Đa số đều định nghĩa quyền nhân thân theo quy định tại điều 26 Bộ luật dân sự 1995 và điều 24 Bộ luật dân sự 2005 “Quyền nhân thân (quyền con ngƣời về dân sự) là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân và không thể chuyển giao cho ngƣời khác trong giao lƣu dân sự, trừ trƣờng hợp pháp luật có quy định khác” hay “mỗi ngƣời có quyền nhân thân, tức là quyền dân sự gắn liền với liền với mỗi cá nhân và không thể chuyển giao cho ngƣời khác trong giao lƣu dân sự trừ trƣờng hợp pháp 13 luật có quy định khác”[23,Tr.407]... Tuy nhiên những cách định nghĩa này chƣa nói lên đƣợc những vấn đề bản chất nhất của khái niệm quyền nhân thân. Theo cách định nghĩa này, quyền nhân thân chỉ đƣợc nhận định ở hai khía cạnh: quyền nhân thân là một loại quyền dân sự và một đặc điểm của quyền nhân thân là gắn với cá nhân và không thể chuyển giao cho ngƣời khác, trừ trƣờng hợp pháp luật có quy định khác. Cách định nghĩa nhƣ vậy sẽ không giúp ta hiểu đƣợc vậy đối tƣợng cơ bản của quyền nhân thân là gì - vấn đề quan trọng nhất để xác định đó là quyền nhân thân mà không phải là quyền tài sản. Trong thực tế có những loại quyền là quyền dân sự, là quyền gắn liền với mỗi cá nhân và không thể chuyển giao cho ngƣời khác nhƣng lại không phải là quyền nhân thân mà là một loại quyền tài sản ví dụ quyền đƣợc cấp dƣỡng, quyền yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, thân thể, quyền thừa kế tài sản... Bên cạnh đó, khẳng định quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân có nghĩa là ngoài cá nhân, các chủ thể khác nhƣ tổ chức sẽ không thể có quyền nhân thân. Giáo sƣ Lê Đình Nghị cho rằng “quyền nhân thân đƣợc quy định trong Bộ luật dân sự là quyền của cá nhân. Tuy nhiên không phải chỉ có cá nhân mới có quyền nhân thân. Với ý nghĩa quyền nhân thân là quyền gắn liền với một chủ thể thì tổ chức cũng có quyền đó”[51,Tr.31] Nhƣ vậy nếu xem xét khái niệm quyền nhân thân ở phƣơng diện lí luận cần phải khẳng định trƣớc hết quyền nhân thân là một loại quyền dân sự. Nếu quyền tài sản có đối tƣợng là tài sản thì đốùi tƣợng của quyền nhân thân chính là các giá trị nhân thân đƣợc pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Hiện nay pháp luật chƣa có một khái niệm chính thức về “nhân thân”. Có thể hiểu nhân thân là yếu tố gắn liền với mỗi chủ thể, liên quan trực tiếp đến chủ thể đó nhƣ tên gọi, hình dáng, sức khoẻ, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín, hình ảnh... Xác định đối tƣợng của quyền chính là dấu hiệu cơ bản để nhận biết đó là quyền nhân thân mà không phải là quyền khác. Chúng tôi cho rằng cách hiểu về khái niệm quyền nhân thân trong từ điển giải thích thuật ngữ luật của trƣờng Đại học Luật Hà Nội là cách hiểu mang tính khái quát và hợp lý hơn cả: Quyền nhân thân là “Các giá trị nhân thân của cá nhân và tổ chức đƣợc pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Chỉ những giá trị nhân thân đƣợc pháp luật ghi 14 nhận mới đƣợc coi là quyền nhân thân. Quyền nhân thân luôn gắn với chủ thể và không thể chuyển giao cho ngƣời khác trừ trƣờng hợp pháp luật có quy định”[15,Tr.105]. Cách hiểu này nói lên đƣợc hai vấn đề bản chất nhất của quyền nhân thân: một là đối tƣợng quyền là các giá trị nhân thân đƣợc pháp luật ghi nhận và hai là tính gắn liền với chủ thể và không thể chuyển giao cho ngƣời khác của quyền nhân thân. Đồng thời, theo cách hiểu này thì quyền nhân thân không chỉ là quyền của riêng chủ thể là cá nhân mà cả tổ chức cũng có thể có quyền này. Bản thân các tổ chức cũng có những lợi ích phi tài sản cần đƣợc bảo vệ nhƣ danh dự, uy tín, tên gọi... Đó là các quyền của tổ chức và đó chính là các quyền nhân thân. Vì vậy cần phải phân biệt hai khái niệm “quyền nhân thân” và “quyền nhân thân của cá nhân”. Trong Bộ luật dân sự phần quy định về quyền nhân thân nằm trong chƣơng “Cá nhân” và vì vậy khái niệm quyền nhân thân quy định trong Bộ luật dân sự thực chất là quyền nhân thân của cá nhân. Và phạm vi nghiên cứu của luận văn cũng là các quyền nhân thân của cá nhân nói chung và quyền nhân thân của cá nhân đối với tính mạng, sức khoẻ, thân thể nói riêng. Tuy nhiên dƣới giác độ nghiên cứu, chúng ta cần phải nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện. Từ những phân tích trên đây, chúng tôi có thể đƣa ra định nghĩa nhƣ sau: “Quyền nhân thân của cá nhân là quyền dân sự ghi nhận và bảo vệ các quyền của cá nhân đối với các giá trị nhân thân của mình trong quan hệ dân sự; gắn liền với mỗi cá nhân và không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” Quyền nhân đƣợc coi là quyền đầu tiên của con ngƣời và gắn liền với mỗi cá nhân. Với tính chất nhƣ vậy, về nguyên tắc quyền nhân thân là gắn liền với chủ thể và không thể chuyển giao cho ngƣời khác trong giao lƣu dân sự. Tuy nhiên có một số trƣờng hợp ngoại lệ quyền nhân thân vẫn có thể chuyển giao cho chủ thể khác. Đây là trƣờng hợp đặc biệt ví dụ tác giả có quyền nhân thân là quyền công bố tác phẩm của mình nhƣng tác giả cũng có thể chuyển giao quyền công bố tác phẩm cho ngƣời khác. 1.1.2. Đặc điểm quyền nhân thân của cá nhân 15 Quyền nhân thân là một loại quyền dân sự đặc biệt, bởi vậy chúng có nhiều đặc điểm riêng. Trong khoa học pháp lí, việc nghiên cứu các đặc điểm của quyền nhân thân là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi nó trực tiếp liên quan đến cơ chế điều chỉnh của pháp luật, đặc biệt là các biện pháp để bảo vệ khi nhóm quyền này bị xâm phạm. Trong thực tiễn, để xem xét các đặc điểm của quyền nhân thân ngƣời ta thƣờng đặt chúng trong mối tƣơng quan với các quyền về tài sản bởi vì đây là hai nhóm quyền chính của quyền dân sự đồng thời giữa chúng có những điểm khác biệt rất căn bản. Ở đây chúng tôi dùng khái niệm “quyền về tài sản” để so sánh với quyền nhân thân chứ không sử dụng khái niệm “quyền tài sản”. Bởi lẽ quyền tài sản đƣợc định nghĩa tại Điều 181 Bộ luật dân sự 2005 đƣợc xác định là một loại tài sản và là đối tƣợng của các giao dịch dân sự về tài sản. Với ý nghĩa đó, phạm vi khái niệm quyền tài sản hẹp hơn khái niệm quyền về tài sản. Các quyền về tài sản là tất cả những quyền dân sự có lợi ích đƣợc bảo vệ là một lợi ích tài sản. Nhƣ vậy, quyền về tài sản là một bộ phận của quyền dân sự, bên cạnh quyền nhân thân. Nó bao gồm cả những “quyền tài sản” và cả những quyền về tài sản khác nhƣ quyền thừa kế, quyền đƣợc cấp dƣỡng, quyền yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín... Quyền nhân thân của cá nhân có những đặc điểm sau: 1.1.2.1 Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền nhân thân. Quyền nhân thân đƣợc ghi nhận cho tất cả mọi cá nhân từ khi sinh ra cho đến khi chết đi, không phân biệt giới tính, tôn giáo, thành phần giai cấp. Điều đó có nghĩa là “Mỗi chủ thể có những giá trị nhân thân khác nhau nhƣng đƣợc bảo vệ nhƣ nhau khi các giá trị đó bị xâm phạm”[16,Tr.13]. Ví dụ cá nhân đƣợc quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể, danh dự, uy tín... của mình mà không phụ thuộc vào độ tuổi, vào khả năng nhận thức của cá nhân, không thể bị tƣớc đoạt hoặc bị hạn chế. Đây là sự khác biệt cơ bản giữa quyền nhân thân và quyền về tài sản. Đối với quyền về tài sản, sự bình đẳng về mặt dân sự không quy định cho tất cả mọi ngƣời đều có khả năng hƣởng những quyền nhƣ nhau. Khả năng hƣởng một số 16 quyền về tài sản của cá nhân có thể phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Ví dụ đối với quyền tham gia ký kết các giao dịch dân sự, pháp luật dân sự quy định cho những ngƣời ở độ tuổi khác nhau, với năng lực hành vi dân sự khác nhau thì sẽ có quyền tham gia ở những mức độ khác nhau. Bên cạnh đó, việc pháp luật quy định các quyền nhân thân cho cá nhân không chỉ ở dạng khả năng đƣợc hƣởng quyền mà là một thực tế. Đối với một số quyền nhân thân của cá nhân, bản thân cá nhân không phải bằng hành vi của mình thì quyền đƣợc pháp luật ghi nhận mới thực sự đƣợc thực hiện ví dụ nhƣ các quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh, bí mật đời tƣ, tên gọi, quyền đƣợc bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể... Trong khi đó đa số các quyền về tài sản đƣợc quy định trong luật dân sự chỉ với ý nghĩa là khả năng hƣởng quyền của cá nhân. Để các quyền đó trở thành hiện thực, cá nhân phải bằng hành vi cụ thể của mình biến khả năng hƣởng quyền đó thành quyền một cách thực thụ. Ví dụ luật quy định mọi cá nhân đều có quyền sở hữu nhƣng nếu không có tài sản thì cá nhân không thể thực hiện quyền sở hữu trên thực tế... 1.1.2.2 Quyền nhân thân của cá nhân có tính chất phi tài sản Đặc điểm này xuất phát từ đối tƣợng của quyền nhân thân là các giá trị nhân thân - bản thân nó là các giá trị phi tài sản. Giá trị nhân thân và tiền tệ không phải là những đại lƣợng tƣơng đƣơng và không thể trao đổi ngang giá. Trong thực tế có một số quyền nhân thân có thể làm phát sinh một lợi ích vật chất nhất định ví dụ nhƣ quyền tác giả nhƣng “Quyền nhân thân không phải là tài sản, chỉ có quyền nhân thân gắn với tài sản hay không gắn với tài sản mà thôi”[51,Tr.31]. Quyền nhân thân không mang tính tài sản đƣợc thể hiện ở hai khía cạnh đặc trƣng: thứ nhất là chúng không có nội dung kinh tế, không gắn với tài sản của chủ thể và thứ hai là quyền nhân thân cũng không thể mang lại cho chủ thể quyền một lợi ích vật chất nào vì chúng không thể là đối tƣợng để có thể trao đổi, mua bán, tặng cho… Đây là đặc điểm khác về cơ bản với các quyền về tài sản. Do đối tƣợng của quyền về tài sản là một lợi ích về tài sản nên quyền về tài sản luôn luôn có thể xác định đƣợc bằng một giá trị vật chất nhất định. Sự định giá này có thể là định giá một 17 cách cụ thể, tức là quyền xác định đƣợc bằng một lƣợng tài sản nhất định, ví dụ quyền đòi nợ. Đối với quyền này, nó đƣợc xác định là một loại tài sản và hoàn toàn có thể trở thành đối tƣợng của giao dịch dân sự. Quyền về tài sản cũng có thể không định giá đƣợc bằng một khối lƣợng tài sản cụ thể nhƣng vẫn có thể định giá đƣợc trong những trƣờng cụ thể ví dụ quyền đƣợc cấp dƣỡng, quyền thừa kế… 1.1.2.3. Quyền nhân thân của cá nhân không thể được đền bù ngang giá khi bị vi phạm. Từ đặc điểm “phi tài sản” của quyền nhân thân của cá nhân có thể suy ra đƣợc đặc điểm thứ ba này. Bản thân quyền nhân thân là một loại quyền phi tài sản không thể định giá đƣợc bằng tiền nên khi quyền này bị vi phạm, các loại chế tài đƣợc áp dụng cũng đa phần là các chế tài phi tài sản. Trong trƣờng hợp áp dụng chế tài bồi thƣờng thì cũng không thể bồi thƣờng toàn bộ thiệt hại với ý nghĩa là giá trị của quyền bị xâm hại. Bởi vì một điều cơ bản là không thể định giá đƣợc con ngƣời và các giá trị gắn liền với con ngƣời. Khác với quyền nhân thân, quyền về tài sản là quyền có thể định giá đƣợc. Vì vậy, khi một quyền về tài sản bị xâm hại, ngƣời ta hoàn toàn có thể xác định đƣợc giá trị quyền bị thiệt hại tƣơng đƣơng với một giá trị tài sản cụ thể và có thể đền bù đƣợc toàn bộ thiệt hại đó bằng một giá trị vật chất tƣơng đƣơng. Theo đó các chế tài đƣợc áp dụng đối với hành vi vi phạm quyền về tài sản cũng là các chế tài có tính tài sản nhƣ phạt vi phạm, bồi thƣờng thiệt hại... 1.1.2.4 Quyền nhân thân của cá nhân không thể bị định đoạt Quyền nhân thân ghi nhận quyền của cá nhân đối với các giá trị nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân, vì vậy về nguyên tắc cá nhân không thể tự định đoạt quyền nhân thân của mình bằng cách chuyển giao cho chủ thể khác, thậm chí không đƣợc từ bỏ quyền của mình. Ví dụ chủ nợ không thể kê biên quyền nhân thân của con nợ; A không thể bán cho B tên và những quyền gắn với căn cƣớc của mình; một ngƣời không thể uỷ quyền cho ngƣời khác để thực hiện quyền tự do đi lại của mình và mình nhận quyền tự do kết hôn của ngƣời khác, hoặc một ngƣời (theo quy định của 18 pháp luật Việt Nam) không đƣợc quyền từ bỏ mạng sống (tính mạng) của mình... Điều này có nghĩa là về nguyên tắc chỉ bản thân chủ thể hƣởng các quyền nhân thân mà pháp luật đã quy định cho họ mà không thể chuyển quyền đó cho ngƣời khác. Đây cũng là một đặc điểm khác cơ bản với những quyền về tài sản. Đối với quyền về tài sản, cá nhân có thể chuyển giao quyền cho ngƣời khác nhƣ quyền đòi nợ… hoặc cá nhân cũng có thể từ bỏ quyền của mình nhƣ từ chối nhận di sản thừa kế, từ bỏ quyền sở hữu với tài sản… Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có những giao dịch liên quan đến quyền nhân mà theo đó một chủ thể chuyển một quyền nhân thân của mình cho chủ thể khác. Đây vẫn còn là một vấn đề hiện nay còn có nhiều tranh cãi. Điều 738 Bộ luật dân sự 2005 quy định về các quyền nhân thân của tác giả trong đó có quyền công bố tác phẩm nhƣng đồng thời lại quy định tác giả có quyền “cho phép ngƣời khác công bố tác phẩm”. Điều đó có nghĩa là pháp luật đã thừa nhận việc tác giả đƣợc chuyển giao quyền nhân thân của mình cho ngƣời khác. Nhƣ vậy, có thể thấy tính chất không thể chuyển giao quyền nhân thân của cá nhân chỉ có ý nghĩa tƣơng đối bởi vì vẫn có những trƣờng hợp ngoại lệ. Để dung hoà đặc điểm không thể chuyển giao quyền nhân thân với những trƣờng hợp ngoại lệ trên, theo nghiên cứu mới về quyền nhân thân của Pháp, họ đã phân biệt hai loại: quyền nhân thân cơ sở và quyền nhân thân phát sinh. Theo đó “Quyền nhân thân cơ sở là quyền nhân thân theo đúng bản chất của nó. Không thể chuyển nhƣợng quyền đối với hình ảnh hoặc quyền đối với đời tƣ. Quyền nhân thân phát sinh là quyền khai thác danh tiếng của một cá nhân với mục đích thƣơng mại”[44,Tr.10] Đồng thời, cần thấy rằng tính không thể chuyển giao chỉ là một đặc điểm của quyền nhân thân mà không phải là một căn cứ để phân biệt quyền nhân thân với các quyền khác. Nhƣ trên đã phân tích, tính không thể chuyển giao không chỉ có ở quyền nhân thân. Có một số quyền về tài sản nhƣng lại không thể đƣợc chuyển giao ví dụ nhƣ quyền đƣợc cấp dƣỡng, quyền thừa kế... 1.1.2.5 Quyền nhân thân của cá nhân là một loại quyền dân sự tuyệt đối. 19 Trong quan hệ pháp luật dân sự, tất cả các quyền nhân thân của cá nhân đều là quyền tuyệt đối - nghĩa là chủ thể quyền đƣợc xác định, tất cả các chủ thể khác là chủ thể mang nghĩa vụ. “Quyền tuyệt đối thƣờng đƣợc pháp luật ghi nhận mà không đƣợc tạo bởi sự thoả thuận của các bên”[15,Tr.61]. Do đó, bất cứ hành vi nào xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân đều bị coi là vi phạm quyền bảo vệ tuyệt đối. Đặc điểm này khác với quyền về tài sản ở chỗ, quyền về tài sản hầu hết là quyền tƣơng đối - tƣơng ứng với chủ thể quyền xác định là những chủ thể mang nghĩa vụ cũng đƣợc xác định, ví dụ trong các quan hệ hợp đồng, bồi thƣờng thiệt hại, cấp dƣỡng… 1.1.3 Phân loại quyền nhân thân của cá nhân Các giá trị nhân thân của cá nhân rất đa dạng, vì vậy các quyền nhân thân của cá nhân cũng rất phong phú. Trong khoa học pháp lý có nhiều cách phân loại quyền nhân thân song tất cả đều thống nhất cách phân loại dựa trên hai tiêu chí cơ bản: Dựa vào tính chất của quyền nhân thân và dựa vào đối tƣợng quyền (các giá trị nhân thân đƣợc pháp luật thừa nhậân). 1.1.3.1 Căn cứ vào tính chất Căn cứ vào tính chất, quyền nhân thân đƣợc chia làm hai loại là quyền nhân thân mang tính tài sản (hay còn gọi là quyền nhân thân gắn với tài sản) và quyền nhân thân không mang tính tài sản (quyền nhân thân không gắn với tài sản) * Quyền nhân thân gắn với tài sản đƣợc hiểu là “quyền nhân thân khi đƣợc xác lập thì làm phát sinh các quyền tài sản. Quyền nhân thân gắn với tài sản là tiền đề làm phát sinh quyền tài sản khi có những sự kiện pháp lý nhất định”[14,Tr.105]. Quyền nhân thân gắn với tài sản cũng có thể đƣợc hiểu là những quyền nhân thân có thể mang lại cho chủ thể những giá trị nhân nhân và giá trị vật chất nhất định. Hay nói cách khác, đó là những quyền mà “trong đó có cả yếu tố nhân thân và yếu tố tài sản”[17,Tr.15]. Nhƣ vậy tính chất đặc trƣng của loại quyền nhân thân này là bản thân chúng không phải là tài sản, không trị giá đƣợc bằng tiền bởi vì giá trị nhân thân là cơ sở để quy định về quyền nhân thân bản thân chúng là những giá trị phi tài sản. 20 Tuy nhiên, các quyền nhân thân đó lại có thể là cơ sở để ngƣời có quyền có đƣợc những lợi ích vật chất nhất định. Trong luật dân sự Việt Nam, các quyền nhân thân gắn với tài sản đƣợc thể hiện rõ nét nhất trong “Phần thứ sáu của Bộ luật dân sự” tức là các quy định về quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp (gọi chung là quyền sở hữu trí tuệ). * Quyền nhân thân không gắn với tài sản đƣợc hiểu là “quyền nhân thân tồn tại một cách độc lập không liên quan đến tài sản”[14,Tr.105]. Hay nói cách khác quyền nhân thân không gắn với tài sản là những quyền nhân thân không mang đến cho chủ thể của những giá trị nhân thân đó bất kỳ một lợi ích vật chất nào. Đối với loại quyền nhân thân này chúng có những nét đặc trƣng cơ bản: Một là chúng không có nội dung kinh tế, không gắn với quyền lợi tài sản của chủ thể. Các quyền này không là cơ sở để phát sinh quyền tài sản nào khác cho chủ thể. Hai là các quyền này không thể tách rời khỏi chủ thể, không thể chuyển giao cho ngƣời khác. Trong Bộ luật dân sự 2005, các quyền nhân thân không gắn với tài sản là tất cả các quyền nhân thân của cá nhân đƣợc quy định tại chƣơng IV, mục 2, bao gồm từ Điều 26 đến điều 51. 1.1.3.2 Căn cứ vào đối tượng Căn cứ vào đối tƣợng, quyền nhân thân có thể đƣợc xếp thành các nhóm: * Nhóm quyền nhân thân liên quan đến căn cƣớc của cá nhân: Đây là những quyền nhân thân ghi nhận những đặc điểm riêng của mỗi cá nhân; là cơ sở để xác định những dấu hiệu cơ bản của sự cá thể hoá của cá nhân và tƣ cách của cá nhân trong quan hệ xã hội nói chung và trong quan hệ dân sự nói riêng. Nhóm này bao gồm: Các quyền nhân thân đối với họ tên: Quyền đối với họ tên, quyền thay đổi họ tên; Quyền xác định dân tộc; Quyền đƣợc khai sinh; Quyền đƣợc khai tử; Quyền đối với quốc tịch * Nhóm quyền nhân thân liên quan đến tính mạng, sức khoẻ, thân thể của cá nhân bao gồm: Quyền đƣợc bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; 21 Quyền hiến bộ phận cơ thể; Quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết; Quyền nhận bộ phận cơ thể ngƣời; Quyền xác định lại giới tính * Nhóm quyền nhân thân liên quan đến các quan hệ gia đình: Quyền kết hôn; Quyền ly hôn; Quyền bình đẳng vợ chồng; Quyền đƣợc hƣởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình; Quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con; Quyền đƣợc nuôi con và quyền đƣợc nhận làm con nuôi * Nhóm quyền nhân thân liên quan đến các yếu tố tinh thần của cá nhân: Quyền của cá nhân đối với hình ảnh; Quyền đƣợc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; Quyền bí mật đời tƣ. * Nhóm quyền nhân thân liên quan đến tự do cá nhân: Quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo; Quyền tự do đi lại, tự do cƣ trú; Quyền lao động; Quyền tự do kinh doanh; Quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo. * Nhóm quyền nhân thân liên quan đến các yếu tố sở hữu trí tuệ. 1.2 Khái niệm, đặc điểm, nội dung của quyền nhân thân của cá nhân đối với tính mạng, sức khoẻ, thân thể 1.2.1 Khái niệm Quyền nhân thân của cá nhân đối với tính mạng, sức khoẻ, thân thể là nhóm quyền nhân thân đặc biệt quan trọng bởi nó trực tiếp liên quan đến sự sống của con ngƣời - giá trị cao nhất của mỗi con ngƣời. Ngoài những tính chất chung của quyền nhân thân, nhóm quyền này còn mang những nét đặc thù riêng biệt. Nhóm quyền này quan tâm đến các giá trị mang tính tự nhiên của con ngƣời (tính mạng, thâ thể, sức khoẻ, giới tính…) trƣớc khi quan tâm đến các giá trị mang tính xã hội nhƣ hình ảnh, tên gọi, căn cƣớc, quan hệ xã hội khác. Bởi vậy, ở một phƣơng diện nào đó, đây là nhóm quyền mang nhiều yếu tố quyền tự nhiên. Có thể định nghĩa “Quyền nhân thân của cá nhân đối với tính mạng, sức khoẻ, thân thể là quyền dân sự ghi nhận và bảo vệ các quyền của cá nhân đối với tính mạng, sức khoẻ, thân thể của mình và không thể chuyển giao cho người khác” 22 Đối tƣợng của nhóm quyền nhân thân này là Tính mạng, sức khoẻ và thân thể. Việc phân biệt ba khái niệm này chỉ có ý nghĩa tƣơng đối bởi giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau. Tuy nhiên việc tách rời ba khái niệm này cũng có một ý nghĩa nhất định khi quy định các loại quyền nhân thân cụ thể trong nhóm. Ví dụ, khi quy định quyền đƣợc hiến, ghép và nhận các bộ phận cơ thể thì giá trị nhân thân liên quan đến “thân thể” đƣợc đề cao hơn; khi quy định quyền đƣợc chết, quyền nạo thai thì giá trị nhân thân liên quan đến tính mạng lại đƣợc đề cao hơn… 1.2.2 Đặc điểm Quyền nhân thân của cá nhân đối với tính mạng, sức khoẻ, thân thể là một loại quyền nhân thân, bởi vậy nó mang đầy đủ các đặc điểm của nhóm quyền này. Song với tƣ cách là một nhóm quyền bảo vệ các giá trị nhân thân khá đặc biệt, các Quyền nhân thân của cá nhân đối với tính mạng, sức khoẻ, thân thể cũng có một số đặc điểm riêng. * Thứ nhất, vì loại quan hệ nhân thân này ghi nhận một loại giá trị nhân thân rất đặc biệt đó là tính mạng, sức khoẻ, thân thể nên loại quyền nhân thân này chỉ có thể là quyền của cá nhân và không thể chuyển giao cho ngƣời khác. Tổ chức không thể có những giá trị nhân thân đó nên không thể có những quyền nhân thân này. Điều này khác với một số quyền nhân thân khác, là những quyền nhân thân không chỉ đƣợc ghi nhận cho cá nhân mà có thể đƣợc ghi nhận cho cả tổ chức ví dụ nhƣ quyền đối với hình ảnh, danh dự, nhân phẩm, uy tín… * Thứ hai, Nhóm quyền nhân thân này chịu ảnh hƣởng của nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội nhƣ tâm lý xã hội, y học, môi trƣờng… Trong đó, có thể nói y học có mối quan hệ trực tiếp ảnh hƣởng đến việc ghi nhận các quyền nhân thân của cá nhân liên quan đến tính mạng, sức khoẻ, thân thể. Sự phát triển của y học hiện đại đã đƣa đến một hệ quả là càng ngày, con ngƣời càng có khả năng tác động vào chính bản thân mình với nhiều hình thức đa dạng hơn, thậm chí có thể thay đổi đƣợc cả “tạo hoá”. Những khả năng mới của con ngƣời nhƣ sinh con theo phƣơng pháp khoa học, chuyển đổi giới tính, cấy ghép các bộ phận cơ thể… đã đặt 23
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan