Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết....

Tài liệu Quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết.

.DOC
23
18
86

Mô tả:

MỤC LỤC ĐẶT VẤN ĐỀ.......................................................................................................2 NỘI DUNG............................................................................................................2 I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM.......................................................................................2 II. CƠ SỞ VIỆC GHI NHẬN QUYỀN HIẾN XÁC, BỘ PHẬN CƠ THỂ SAU KHI CHẾT.............................................................................................................3 1. Việc ghi nhận quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết trong các văn bản pháp luật...................................................................................................3 2. Nguyên tắc ghi nhận, thực hiện và bảo vệ quyền hiến bộ phận cơ thể.......5 3. Vai trò và ý nghĩa của việc ghi nhận quyền hiến xác, bộ phận cơ thể người sau khi chết trong các văn bản pháp luật.........................................................9 III. ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYỀN HIẾN XÁC, BỘ PHẬN CƠ THỂ CỦA CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT.........................10 1. Đặc điểm của quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết......................10 2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của cá nhân sau khi chết................................................................................12 IV. CHỦ THỂ, ĐỐI TƯỢNG CỦA QUYỀN HIẾN XÁC, BỘ PHẬN CƠ THỂ SAU KHI CHẾT..................................................................................................15 1. Chủ thể quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết...............................15 2. Đối tượng của quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết.....................17 V. THỰC TẾ VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN HIẾN XÁC, BỘ PHẬN CƠ THỂ CỦA CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.........................18 1. Số lượng người hiến xác, bộ phận cơ thể còn rất khiêm tốn.....................18 2. Vấn đề hiến xác của tử tù còn gặp nhiều rào cản pháp lí..........................20 VI. BIỆN PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN HIỆU QUẢ QUYỀN HIẾN XÁC, BỘ PHẬN CƠ THỂ CỦA CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT..........................................21 KẾT THÚC VẤN ĐỀ..........................................................................................22 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................23 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc lấy ,ghép mô bộ phận cơ thể và tạo ngồn cung cấp mô,nội tạng dồi dào phục vụ cho việc nghiên cứu chữa bệnh và nghiên cứu khoa học .Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản pháp luật điều chỉnh về việc hiến xác ,hiến bộ phận cơ thể người mà tiêu biểu là luật hiến,lấy ghép mô bộ phận cơ thể và hiến,lấy xác năm 2006 ,trong đó có quy đó có quy định cụ thể về điều kiện hiến xác ,bộ phận cơ thể khi còn sống cũng như điều kiện hiến mô,bộ phận cơ thể khi đã chết. Tuy nhiên thực tiễn của việc lấy ghép mô,bộ phận cơ thể Cho thấy pháp luật về vấn đề này còn nhiều bất cập,đặc biệt là trong các quy định về điều kiện hiến mô,bộ phận cơ thể sau khi chết. Vì vậy em xin chọn đề bài “Quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết.”Cho bài tập lớn của mình. NỘI DUNG I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM Để góp phần nghiên cứu những quy định về quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết của cá nhân, ta đi sâu làm rõ một số khái niệm cơ bản: Theo TS. Phùng Trung Tập xét về mặt sinh học: “Bộ phận cơ thể là một phần của cơ thể người là những thành tố cấu thành sự thống nhất của một cơ thể sống hoàn chỉnh và nó thực hiện được chức năng trao đổi chất giúp cho cơ thể tồn tại và phát triển bình thường theo quy luật của tự nhiên”. Trong Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác, thuật ngữ “bộ phận cơ thể người” được giải thích: “Bộ phận cơ thể người là một phần của cơ thể được hình thành từ nhiều loại mô khác nhau để thực hiện các chức 2 năng sinh lý nhất định”, trong đó “Mô là tập hợp các tế bào cùng một loại hay nhiều loại khác nhau để thực hiện các chức năng nhất định của cơ thể người” II. CƠ SỞ VIỆC GHI NHẬN QUYỀN HIẾN XÁC, BỘ PHẬN CƠ THỂ SAU KHI CHẾT 1. Việc ghi nhận quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết trong các văn bản pháp luật a) Việc ghi nhận trong Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân 1989 Quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết là một vấn đề hết sức nhạy cảm liên quan mật thiết đến vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo và các yếu tố tâm linh của người Việt. Vì vậy trước đây không hề có một văn bản pháp luật nào quy định về vấn đề này. Mãi đến năm 1989, Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân ra đời thì vấn đề này mới được đề cập đến. Tuy nhiên, các quy định này còn rất chung chung và chỉ mang tính nguyên tắc, chưa cụ thể, chưa đầy đủ nên khó thực hiện trong thực tiễn. Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân 1989 “Điều 30: Lấy và ghép mô hoặc một bộ phận của cơ thể con người. 1- Thầy thuốc chỉ tiến hành lấy mô hoặc bộ phận của cơ thể người sống hay người chết dùng vào mục đích y tế sau khi đã được sự đồng ý của người cho, của thân nhân người chết hoặc người chết có di chúc để lại. 2- Việc ghép mô hoặc một bộ phận cho cơ thể người bệnh phải được sự đồng ý của người bệnh hoặc thân nhân hay người giám hộ của người bệnh chưa thành niên. 3- Bộ y tế quy định chế độ chăm sóc sức khoẻ người cho mô hoặc một bộ phận của cơ thể”. * Bên cạnh đó, vấn đề này cũng được cụ thể hóa trong trong Điều 10 của Nghị định ban hành kèm theo Điều lệ khám chữa bệnh và phục hồi chức năng số 23-HĐBT ngày 21/1/1991: 3 “1- Việc lấy mô bộ phận cơ thể của người sống phải được người đó tự nguyện và viết thành văn bản. 2- Việc lấy mô hoặc một bộ phận của cơ thể người được tiến hành trong các trường hợp: _ Người chết có di chúc để lại đồng ý cho mô hoặc một bộ phận cơ thể của họ _ Người chết không có di chúc nhưng được thân nhân người chết đồng ý cho bằng văn bản. _ Người chết vô thừa nhận. 3- Cơ quan y tế được quyền tiếp nhận, bảo quản và sử dụng mô hoặc một bộ phận cơ thể con người. 4- Các thủ tục, tiến hành ghép mô hoặc một bộ phận cơ thể con người được tiến hành như các trường hợp phẫu thuật ghi trong Điều 8 của Điều lệ này. 5- Cơ sở y tế tiến hành lấy mô hoặc một bộ phận cơ thể của người cho có trách nhiệm chăm sóc sức khỏe cho họ trước, trong và sau khi lấy.” b) Việc ghi nhận trong BLDS 2005 * Năm 2005, BLDS Việt Nam mới chính thức đưa quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết thành một điều luật cụ thể (Điều 34) và thuộc nhóm các quyền nhân thân. Điều 34 BLDS 2005 quy định về quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết: “ Cá nhân có quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của mình sau khi chết vì mục đích chữa bệnh cho người khác hoặc nghiên cứu khoa học. Việc hiến và sử dụng xác, bộ phận cơ thể của người chết được thực hiện theo quy định của pháp luật.” c) Ghi nhận trong Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác 4 Ngày 29/11/2006, Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2007. Việc ghi nhận quyền hiến mô, bộ phận cơ thể, hiến xác thành một luật riêng là một bước tiến lớn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với xã hội, thể hiện sự nhân đạo và sự quan tâm của nhà nước đối với sức khỏe nhân dân, đồng thời cũng thể hiện sự trình độ của các nhà làm luật. 2. Nguyên tắc ghi nhận, thực hiện và bảo vệ quyền hiến bộ phận cơ thể Điều 4 Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác 2006 quy định về Các nguyên tắc trong việc hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác: “1. Tự nguyện đối với người hiến, người được ghép. 2. Vì mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học. 3. Không nhằm mục đích thương 4. Giữ bí mật về các thông tin có liên quan đến người hiến, người được ghép, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.” a) Nguyên tắc tự nguyện * Hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết là quyền của mỗi cá nhân, không phải là nghĩa vụ, không ai có quyền ép buộc hoặc cản trở người hiến thực hiện quyền này. “Tự nguyện” là một trong các nguyên tắc quan trọng nhất trong luật dân sự. Tự nguyện được thể hiện ở sự thống nhất giữa ý chí bên trong của chủ thể với việc thể hiện ý chí ra bên ngoài mà không có sự tác động trái pháp luật nào về thể chất hoặc tinh thần đối với người hiến tặng. _ Về mặt thuật ngữ bản thân từ “hiến” nó cũng thể hiện rõ tính tự nguyện của việc hiến xác, hiến bộ phận cơ thể người mà không đòi hỏi bất kỳ sự trao đổi 5 lợi ích vật chất nào. “Hiến” không vì mục đích thương mại mà vì mục đích cao quý hơn đó là cứu chữa người khác hoặc vì mục đích nghiên cứu khoa học. _ Do ý nghĩa và tính chất quan trọng của việc hiến bộ phận cơ thể, ý chí của người hiến phải được thể hiện một cách rõ ràng bằng văn bản, chứ không chỉ bằng lời nói như một số giao dịch dân sự thông thường. Đồng thời phải đăng ký hiến bộ phận cơ thể sau khi chết tại các cơ sở y tế; hoặc tại các trường đại học y, dược đối với các trường hợp hiến xác. _ Người có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật và trong trạng thái minh mẫn, sáng suốt, không bị ép buộc về mặt tinh thần đều có quyền bày tỏ nguyện vọng hiến xác, bộ phận cơ thể của mình với cơ sở y tế. Người đã đăng ký hiến có quyền thay đổi hoặc huỷ bỏ đơn đã đăng ký. Cơ sở y tế chỉ được lấy mô, bộ phận cơ thể ở người sống đã đăng ký hiến. Trong trường hợp cấp cứu mà cần phải ghép bộ phận cơ thể hoặc cần ghép bộ phận cơ thể cho cha, mẹ, anh, chị, em ruột thì được phép lấy bộ phận cơ thể của người chưa đăng ký * Vào những thập niên 60, 70 của thế kỷ trước, hầu hết các nước áp dụng chính sách “tự nguyện hiến”. Mỗi cá nhân phải thể hiện rõ ràng ý chí của mình đối với việc hiến bộ phận cơ thể, như: ký tên vào thẻ đăng ký hiến. Nếu như người đó không thể hiện ý chí của mình khi còn sống thì những người thân thích của người đó phải thể hiện sự đồng ý lấy bộ phận cơ thể từ người chết. Bước sang thập niên 80, nhận thấy chính sách nói trên dẫn đến tình trạng số lượng bộ phận cơ thể được hiến tự nguyện rất ít ỏi, không thể đáp ứng được nhu cầu chữa bệnh, nhiều nước đã sửa đổi pháp luật của mình theo hướng thừa nhận nguyên tắc “suy đoán ý chí”. Khởi đầu là Singapore, sau đó là một số nước châu Âu như Tây Ban Nha, Áo, Bỉ. Nguyên tắc “suy đoán ý chí” cho phép lấy mô và bộ phận cơ thể người chết trừ khi người đó đã thể hiện rõ ràng sự phản đối khi họ còn sống. Nguyên tắc này được áp dụng ở các mức độ khác nhau: 6 + Một là, áp dụng ở mức độ “cứng”: không cho phép gia đình của người chết can thiệp vào quá trình lấy bộ phận cơ thể. + Hai là, ở mức độ “mềm”, theo đó, việc lấy mô, bộ phận cơ thể của người chết phải được sự đồng ý của gia đình người đó. + Ba là, ở mức độ “triệt để”: một cá nhân phải đăng ký tại toà án về việc mình không muốn hiến bộ phận cơ thể sau khi chết và đó là cách duy nhất để người đó không bị lấy bộ phận cơ thể khi chết (ví dụ: Áo) Ở Việt Nam, do quyền hiến bộ phận cơ thể và quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết mới được ghi nhận trong BLDS nên không thể áp dụng ngay nguyên tắc “suy đoán ý chí” như ở các nước trên, bởi sẽ gây nên sự phản ứng mạnh mẽ từ phía người dân, do đặc điểm tâm lý, văn hoá của người Việt rất coi trọng sự toàn vẹn của cơ thể người sống và sự toàn vẹn của thi hài người quá cố. Vì vậy, chúng ta chỉ áp dụng chính sách “tự nguyện hiến”. b) Nguyên tắc “phi thương mại” _ Đây là một nguyên tắc rất quan trọng. Việc hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết chỉ nhằm mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học, không nhằm mục đích lợi nhuận. Mục đích của hiến xác, bộ phận cơ thể luôn luôn phải được đặt ra như một sự kiểm soát đặc biệt của pháp luật đối với vấn đề có tính chất xã hội nhạy cảm này. Nguy cơ các bộ phận cơ thể người trở thành hàng hoá giao dịch trên thị trường đang hiện hữu ngày càng rõ nét. _ Pháp luật một số nước thừa nhận việc mua bán bộ phận cơ thể người, nhưng quan điểm của Việt Nam là không chấp nhận thương mại hoá các bộ phận cơ thể người. Nguyên tắc “phi thương mại” xuất phát từ đối tượng đặc biệt của quyền hiến bộ phận cơ thể là “bộ phận cơ thể người”, đây là những bộ phận tạo nên một con người hoàn chỉnh, gắn liền với sự tồn tại và phát triển bình thường của con người, không thể là vật đem ra mua bán, trao đổi. Hơn nữa, hiến tặng xác, bộ phận cơ thể là nghĩa cử vô cùng cao đẹp. Điều quan trọng hơn, một khi 7 hoạt động “bán” bộ phận cơ thể được thừa nhận sẽ dẫn đến tình trạng hết sức nguy hiểm – những khoản lợi nhuận từ hoạt động mua bán này có thể làm cho những kẻ chuyên kinh doanh bộ phận cơ thể người sẵn sàng ép buộc, làm tổn thương người khác, thậm chí giết người để lấy bộ phận cơ thể họ. Như thế, quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sẽ không được đảm bảo mà quyền con người còn bị ảnh hưởng nghiêm trọng (quyền được đảm bảo an toàn tính mạng, sức khoẻ, thân thể bị xâm phạm, an toàn xã hội không thể kiểm soát được). Ngay cả khi một người vì quá túng thiếu muốn bán một bộ phận cơ thể của mình, pháp luật cũng không cho phép, giao dịch đó sẽ là giao dịch vô hiệu tuyệt đối do vi phạm điều cấm của pháp luật, đồng thời giao dịch đó cũng trái với đạo đức xã hội. _ Nguyên tắc “phi thương mại” tạo cơ hội chữa bệnh bình đẳng giữa bệnh nhân giàu và bệnh nhân nghèo về quyền nhận bộ phận cơ thể người. Nếu cho phép mua bán, sử dụng bộ phận cơ thể người nhằm mục đích lợi nhuận thì những bệnh nhân nghèo sẽ hiếm có cơ hội được ghép bộ phận cơ thể người để chữa trị bệnh. Và nếu như vậy, pháp luật về hiến-nhận bộ phận cơ thể người đã không làm tròn được vai trò của nó. c) Nguyên tắc hiến xác, bộ phận cơ thể vì mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học Nguyên tắc này có mối quan hệ chặt chẽ với nguyên tắc “phi thương mại”, và thực chất là sự cụ thể hoá nguyên tắc đó. Việc hiến bộ phận cơ thể không nhằm mục đích lợi nhuận mà nhằm vào mục đích chữa bệnh, giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học, trong đó mục đích chữa bệnh là quan trọng, chủ yếu nhất vì nhu cầu lấy bộ phận cơ thể để chữa bệnh cứu người là rất lớn, rất cấp bách. Nguyên tắc trên xuất phát từ quan điểm coi con người là giá trị cao quý nhất, là trung tâm của mọi chính sách, pháp luật, tất cả là vì con người, trong đó, quyền sống là một trong những quyền cơ bản nhất của con người, là cơ sở để thực hiện các quyền con người khác. Một trong số các biện pháp bảo đảm quyền 8 sống cho con người chính là tạo điều kiện cả về mặt kỹ thuật, cả về mặt pháp lý để y học có thể cứu sống được ngày càng nhiều bệnh nhân hiểm nghèo. Vì vậy, mục đích chữa bệnh của việc hiến bộ phận cơ thể người cần được đặt lên hàng đầu. Bên cạnh đó, hiến bộ phận cơ thể còn nhằm mục đích giảng dạy, nghiên cứu khoa học để ngày càng tìm ra các phương thức chữa bệnh hiệu quả hơn, và suy cho cùng cũng là vì con người. 3. Vai trò và ý nghĩa của việc ghi nhận quyền hiến xác, bộ phận cơ thể người sau khi chết trong các văn bản pháp luật * Vai trò chủ yếu của pháp luật về hiến xác, bộ phận cơ thể của cá nhân sau khi chết ở các quốc gia là thiết lập một cơ chế phân bổ một cách công bằng, bình đẳng nguồn “tài nguyên” chữa bệnh quý giá và khan hiếm này cho những bệnh nhân nguy kịch nhất, hiểm nghèo nhất, thêm hi vọng chữa bệnh cho những bệnh nhân nghèo. * Việc thừa nhận quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết có ý nghĩa vô cùng quan trọng: _ Đối với người cần hiến tạng: Việc thừa nhận quyền hiến xác, bộ phận cơ thể góp phần làm tăng số lượng người hiến. Đối với hàng ngàn bệnh nhân đang mòn mỏi trông chờ được hiến tạng thì điều đó có ý nghĩa vô cùng to lớn, điều đó là tia hy vọng cứu chữa căn bệnh của họ, giúp họ vượt qua cơn nguy kịch về tính mạng, giảm bớt chi phí thuốc thang _ Đối với bản thân những người hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết: + Tạo điều kiện và hành lang pháp lí cho họ thực hiện ý nguyện giúp đỡ người khác, nhất là khi những người cần cứu chữa đó lại là những người thân yêu của họ. Qua việc thực hiện quyền này, những người hiến tặng đã thể hiện được tình cảm, lòng nhân ái bao dung của mình đối với người bệnh và đối với khoa học. Những người hiến tặng được nhà nước truy tặng huy chương cao qúy 9 cho những đóng góp to lớn của họ đối với xã hội. Việc truy tặng này của nhà nước góp phần động viên về mặt tinh thần đối với những người hiến tặng. + Việc ghi nhận quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của cá nhân sau khi chết chính là một bảo đảm cho sự tự do ý chí lựa chọn hành động của các cá nhân trong lĩnh vực đặc thù và hết sức nhạy cảm này. _ Đối với nhà nước: Việc ghi nhận quyền hiến xác, bộ phận cơ thể người sau khi chết thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối với quyền lợi và sức khỏe của nhân dân. Góp phần hoàn thiện, nâng cao hệ thống y tế để phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu chăm sóc sức khỏe của nhân dân và nghiên cứu khoa học. III. ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYỀN HIẾN XÁC, BỘ PHẬN CƠ THỂ CỦA CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT 1. Đặc điểm của quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết Quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết nằm trong hệ thống các quyền nhân thân. Việc hiến xác, bộ phận cơ thể của cá nhân sau khi chết liên quan trước tiên đến bản thân người hiến tặng, do đó đây được coi là quyền nhân thân không thể dịch chuyển cho người khác. Và được quy định tại Điều 34 BLDS 2005, do đó phải tuân theo các nguyên tắc chung của luật dân sự. Ngoài ra, do là quyền nhân thân đặc biệt cho nên việc hiến xác, bộ phận cơ thể của cá nhân sau khi chết còn mang những đặc trưng riêng. a) Với tư cách là một quyền nhân thân, quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của cá nhân sau khi chết mang những đặc điểm chung của quyền nhân thân _ Thứ nhất, tính chất cá nhân tuyệt đối. Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với một chủ thế, về nguyên tắc không thể chuyển giao cho chủ thể khác. Luật dân sự ghi nhận những giá trị nhân thân là quyền nhân thân và quy định các biện pháp bảo vệ. Quyền nhân thân thuộc về cá nhân cụ thể từ khi người đó được sinh ra hoặc theo những căn cứ khác do pháp luật quy định. Là các yếu tố cấu thành không thể tách rời khỏi cá nhân chủ thể, những giá trị nhân thân được cá 10 thể hoá, làm cho bản thân người mang các giá trị đó là hoàn toàn không thể lặp lại. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định có thể dịch chuyển được nhưng phải do pháp luật quy định (quyền công bố tác phẩm của tác giả các tác phẩm, các đối tượng sở hữu công nghiệp…). _ Thứ hai, quyền nhân thân không xác định được bằng tiền – Giá trị nhân thân và tiền tệ không phải là những đại lượng tương đương và không thể trao đổi ngang giá. Về cơ bản, chủ thể của quyền nhân thân chỉ được hưởng lợi ích tinh thần mà không được hưởng lợi ích vật chất. Bên cạnh đó, có những trường hợp đặc biệt, quyền nhân thân mang lại lợi ích vật chất cho chủ thể quyền. Những lợi ích vật chất mà chủ thể quyền được hưởng ở đây có được là do giá trị tinh thần mang lại (ví dụ: trường hợp góp vốn bằng uy tín trong một doanh nghiệp). Như vậy, một trong những tiêu chí phân loại quyền nhân thân là dựa vào yếu tố tài sản, theo đó, có thể chia quyền nhân thân làm hai loại: quyền nhân thân gắn với tài sản và quyền nhân thân không gắn với tài sản. Theo cách phân loại này, quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của cá nhân sau khi chết thuộc nhóm quyền nhân thân không gắn với tài sản. _ Thứ ba, quyền nhân thân được xác lập không dựa trên các sự kiện pháp lý mà chúng được xác lập trực tiếp trên cơ sở những quy định của pháp luật. _ Thứ tư, mỗi một chủ thể có một giá trị nhân thân khác nhau nhưng được bảo vệ như nhau khi các giá trị đó bị xâm phạm. b) Đặc điểm riêng của quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của cá nhân sau khi chết Mục đích chủ yếu của việc thực hiện quyền này không phải đem lại lợi ích cho chủ thể quyền như đại đa số các quyền nhân thân khác, mà nhằm đem lại lợi ích cho người khác, lợi ích cho toàn xã hội. Lợi ích mà chủ thể quyền đạt được chủ yếu là lợi ích tinh thần, là niềm vui khi cứu sống được người khác đang mắc bệnh hiểm nghèo, đặc biệt khi người bệnh lại là người thân thích, ruột thịt của 11 mình; hoặc niềm vui khi thấy mình cống hiến cho sự nghiệp nghiên cứu khoa học. Lợi ích vật chất có thể có nhưng không phải là chính yếu. Lợi ích của chủ thể quyền thực sự rất khiêm tốn so với lợi ích to lớn mà xã hội nhận được từ việc người đó thực hiện quyền của mình. Hiến xác, bộ phận cơ thể của cá nhân sau khi chết vẫn được coi là “quyền” mặc dù những lợi ích to lớn mà nó đem lại chủ yếu là cho người khác và cho xã hội, trong khi lợi ích mang lại cho chủ thể quyền hầu như không đáng kể. “Quyền” ở đây được hiểu là sự tự do ý chí lựa chọn hành động của chủ thể trong khuôn khổ pháp luật: mỗi cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền tự quyết định đối với thân thể của mình, không ai có quyền can thiệp hay ngăn cản; kể cả là những người thân thích, ruột thịt. 2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của cá nhân sau khi chết a) Yếu tố kinh tế xã hội Kinh tế phát triển sẽ có điều kiện đầu tư cho nghiên cứu khoa học, trong đó có khoa học cấy ghép mô, bộ phận cơ thể. Mặt khác, kinh tế phát triển phúc lợi xã hội ngày càng cao, việc hiến xác, bộ phận cơ thể người sẽ được Nhà nước đài thọ hoặc lập quỹ để hỗ trợ các bệnh nhân; đồng thời Nhà nước sẽ cho phép thu hút nhiều loại hình bảo hiểm hơn để hỗ trợ hiệu quả cho người bệnh. Kinh tế phát triển thì sẽ có điều kiện đầu tư trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, quy mô hơn; đội ngũ chuyên gia y tế sẽ có điều kiện tiếp thu nhiều hơn những thành tựu y học trên thế giới. Điều này sẽ đảm bảo cho việc lấy và ghép bộ phận cơ thể có khả năng thành công cao hơn b) Phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo, văn hóa Đối với vấn đề vô cùng nhạy cảm như Hiến xác, bộ phận cơ thể người sau khi chết thì phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo, văn hóa chiếm một vị trí vô 12 cùng quan trọng, nó có sức mạnh điều chỉnh hành vi cũng như quan niệm của người hiến tặng. Tín ngưỡng dân gian của người Việt Nam mà đặc biệt là phong tục ma chay quan niệm: cái chết không phải là sự kết thúc sự sống mà là chỉ là sự chuyển giao từ dương gian sang âm thế. Người ta co rằng ở âm thế, con người vẫn sống và sinh hoạt bình thường như những người ở dương gian. Vì vậy, họ rất coi trọng việc bảo toàn thân xác cho người chết “nghĩa tử là nghĩa tận”, “chết là phải toàn thây”. Việc hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết khiến thân xác không được yên nghỉ, khi xuống cõi âm thân thể không toàn vẹn và đó được coi là điều bất hạnh đối với gia đình người chết. Theo giáo lí của Phật giáo, chỉ khi thần thức rời khỏi thể xác mới gọi là chết, chứ không phải sau khi trút hơi thở cuối cùng, và người ta tin rằng chính hoàn cảnh tử vong lâm sàng và thời gian sau đó, trước khi thần thức thoát đi, là thời điểm then chốt quyết định sự tái sinh hoặc đầu thai của người đó. Theo quan niệm này, tốt nhất là không được cắt xẻ thi hài trong vòng ba ngày sau cái chết lâm sàng, nếu không nó sẽ gây ra sự rối loạn cho tiến trình tái sinh. Vì vậy, họ rất kiêng kị việc động chạm vào cơ thể người mới chết. Tuy nhiên, theo y học, để cấy ghép cơ thể có hiệu quả, những bộ phận đó trong cơ thể người chết phải được cắt càng nhanh càng tốt sau khi trút hơi thở sau cùng. Chính những quan niệm này đã trở thành rào cản vô cùng lớn đối với việc hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết của cá nhân. c) Yếu tố trình độ dân trí Đây là yếu tố có tác động sâu chuỗi hầu hết các vấn đề, đảm bảo cho quyền hiến xác, bộ phận cơ thể được quy định và đáp ứng vào thực tế phù hợp với quy luật của cuộc sống. 13 Việc phát triển đội ngũ trí thức sẽ giúp xây dựng hệ thống pháp luật về quyền hiến xác, bộ phận cơ thể người sau khi chết và có thể đảm bảo việc thực thi luật này có hiệu quả hơn. Khi con người có những hiểu biết nhất định về ý nghĩa của việc hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết thì những yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo hay các yếu tố tâm linh sẽ không còn tác động mạnh đến lý trí của họ. Và họ sẽ tích cực tham gia vào việc thực hiện quyền này để cứu sống những người khác hoặc để phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học d) Rào cản từ những người thân của người hiến xác, bộ phận cơ thể _ Quyết định hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết là một quyết định khó khăn không chỉ với riêng người hiến tặng mà còn với gia đình, người thân của họ. Mất đi người thân yêu là việc hết sức đau lòng, nhưng việc chứng kiến người thân sau khi nhắm mắt vẫn phải chịu giày vò về thể xác là việc vô cùng đau xót mà không phải ai cũng dễ dàng chấp nhận ngay cả khi đó là tâm nguyện, là di chúc của người chết. Phó giám đốc Ngân hàng Mắt, bác sỹ Nguyễn Hữu Hoàng tâm sự: “Một lần, Ngân hàng Mắt nhận được điện thoại báo tin người tình nguyện hiến giác mạc vừa qua đời. Đó là trường hợp bà nội hiến cho cháu. Khi làm thủ tục, các con đồng ý hết rồi, kỹ thuật viên đang chuẩn bị dụng cụ thì có một người cháu (gọi người quá cố là bà) vác dao xông tới ngáng đường. Người này doạ: "Ai lấy giác mạc của bà thì chém chết! " Ngay cả khi không vấp phải rào cản chuyên môn, không vấp phải rào cản về mặt luật pháp và được sự chấp thuận của người đã khuất nhưng việc hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết lại vấp phải sự phản đối quyết liệt của những thành viên trong gia đình người đã khuất. Trên thực tế, đối với những trường hợp này, người thầy thuốc không tiến hành lấy xác, bộ phận cơ thể của người chết. Theo tâm sự của bác sĩ Nguyễn Hữu Hoàng: “Dù sao, đây cũng là vấn đề tâm linh. 14 Mình làm việc thiện thôi nhưng người ta không chấp nhận thì mình không cố để làm. Cố tình lấy mà không được sự đồng thuận tuyệt đối thì hậu quả để lại là họ hàng sẽ sứt mẻ về mặt tình cảm”. IV. CHỦ THỂ, ĐỐI TƯỢNG CỦA QUYỀN HIẾN XÁC, BỘ PHẬN CƠ THỂ SAU KHI CHẾT 1. Chủ thể quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết _ Giống như chủ thể của các quyền nhân thân khác, chủ thể của quyền hiến bộ phận cơ thể người chỉ có thể là cá nhân. Theo Điều 34 BLDS 2005 quy định về quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết: “ Cá nhân có quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của mình sau khi chết vì mục đích chữa bệnh cho người khác hoặc nghiên cứu khoa học”. _ Xét về mặt năng lực pháp luật, mọi cá nhân có quyền hiến bộ phận cơ thể. Quyền này được pháp luật tôn trọng, bảo vệ và đảm bảo thực hiện một cách bình đẳng giữa các chủ thể. Thậm chí, dù một cá nhân có bị pháp luật tước một số quyền công dân vì những lý do khác nhau thì quyền hiến bộ phận cơ thể của người đó vẫn được pháp luật thừa nhận bởi vì quyền này là quyền năng của cá nhân với tư cách là một con người, là một cá thể trong cộng đồng xã hội. Tuy nhiên, có quyền và có khả năng thực hiện quyền là hai việc hoàn toàn khác nhau. Để có thể thực hiện được quyền này thì cá nhân phải đáp ứng một số điều kiện nhất định do pháp luật quy định. Điều 5 Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác quy định: “ Người từ đủ mười tám tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống, sau khi chết và hiến xác”. _ Cần hiểu “năng lực hành vi dân sự” của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 17) 15 _ Những người “có năng lực hành vi dân sự đầy đủ” là những người từ đủ 18 tuổi trở lên, trừ trường hợp bị tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi (Điều 22) hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự (Điều 23). * Quy định như vậy là bởi lẽ: _ Quyết định hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết là một quyết định quan trọng, có ảnh hưởng lớn đối với bản thân người hiến cũng như đối với xã hội, nên pháp luật đòi hỏi người hiến phải là cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, nhằm đảm bảo tuyệt đối nguyên tắc tự nguyện của việc hiến bộ phận cơ thể. _ Quan hệ hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết là quan hệ nhân thân, nên phải do cá nhân tự mình tham gia xác lập và thực hiện, không thể thông qua người đại diện. Do đó, người đại diện của người chưa thành niên hay của người bị mất năng lực hành vi dân sự cũng không được thay mặt người được đại diện quyết định việc hiến bộ phận cơ thể. *** Trường hợp đặc biệt: Hiến bộ phận cơ thể người có liên quan đến người nước ngoài _ Theo quy định tại Điều 34 của Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác: +Người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được ghép bộ phận cơ thể của người Việt Nam tại Việt Nam trong trường hợp có cùng dòng máu về trực hệ hoặc có họ trong phạm vi ba đời với người hiến hoặc trong trường hợp người hiến đã có đơn tự nguyện hiến mà không nêu đích danh người được ghép + Người Việt Nam chỉ được ra nước ngoài để hiến bộ phận cơ thể người trong trường hợp có cùng dòng máu về trực hệ hoặc có họ trong phạm vi ba đời với người được ghép. _ Quy định trên nhằm bảo đảm cho việc quản lý chặt chẽ, tránh tình trạng mua, bán mô, bộ phận cơ thể người. Quy định này thể hiện rõ nguyên tắc “phi thương mại” trong pháp luật Việt Nam khi ghi nhận quyền hiến bộ phận cơ thể. 16 2. Đối tượng của quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết _ Đối tượng của quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết là xác người và bộ phận cơ thể người sau khi người đó đã chết. Các khái niệm này đã được làm rõ ở mục I. _ Một vấn đề nữa được đặt ra là những bộ phận cơ thể bị loại bỏ khỏi cơ thể của một người thông qua giải phẫu để điều trị có được coi là đối tượng của quyền này hay không? + Có ý kiến cho rằng: “Những bộ phận cơ thể người do bị nhiễm bệnh mà không còn thực hiện được chức năng trao đổi chất thông thường và đã bị loại bỏ vẫn được coi là bộ phận cơ thể người. Những bộ phận này bị cắt bỏ khỏi cơ thể chỉ có giá trị trong việc nghiên cứu khoa học, mà không thể là đối tượng cấy ghép sang cơ thể của một người khác nhằm mục đích chữa bệnh cho người đó. Những bộ phận bị loại bỏ khỏi cơ thể sống của cá nhân, khi hiến cho người khác phải được sự đồng ý của chính người có bộ phận tuy đã bị loại bỏ đó”. + Một số ý kiến khác lại cho rằng: “Những bộ phận cơ thể người đã bị cắt bỏ do nhiễm bệnh (các chi bị hoại tử của một người bị cắt bỏ, quả thận của một người bị nhiễm bệnh không còn khả năng bài tiết) thì không còn được coi là bộ phận cơ thể người, mà lúc ấy đã trở thành “bệnh phẩm”, trở thành “chất thải y tế”, cơ sở y tế có quyền xử lý mà không cần sự đồng ý của người có bộ phận đã bị cắt bỏ. Bởi vì theo đúng định nghĩa trong Luật, “bộ phận cơ thể người là một phần của cơ thể được hình thành từ nhiều loại mô khác nhau để thực hiện các chức năng sinh lý nhất định”. Chỉ có thể được coi là bộ phận cơ thể người và là đối tượng của quyền hiến bộ phận cơ thể nếu bộ phận đó có khả năng thực hiện được chức năng sinh lý bình thường vốn có của nó”. V. THỰC TẾ VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN HIẾN XÁC, BỘ PHẬN CƠ THỂ CỦA CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 17 Với sự ghi nhận quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết trong Điều 34 BLDS 2005 và đặc biệt là sự ra đời của Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác đã tạo khung pháp lí cho việc chữa bệnh và nghiên cứu khoa học có tính quyết định việc phát triển lĩnh vực ghép mô, bộ phận cơ thể người ở Việt Nam. Tuy nhiên, xác lập được hành lang pháp lí không có nghĩa chúng ta đã có ngay nguồn mô, tạng, bộ phận cơ thể, xác chết để thực hiện cấy ghép thuận lợi. Trên thực tế, việc thực hiện quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết gặp phải rất nhiều hạn chế, khó khăn. 1. Số lượng người hiến xác, bộ phận cơ thể còn rất khiêm tốn Từ khi Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác đã có hiệu lực thi hành đến nay đã 14 năm, song số lượng những người hiến xác, bộ phận cơ thể người sau khi chết còn rất khiêm tốn. Từ đó đến tháng 8/2010, cả nước đã tiến hành gần 300 ca ghép thận, trong đó có 7 trường hợp lấy thận từ người chết não; khoảng 500 trường hợp ghép giác mạc và hơn 50 trường hợp ghép tế bào gốc tạo máu; 14 người được ghép gan, trong đó 13 người ghép gan từ người cho sống… Tuy nhiên, số lượng này còn rất khiêm tốn. Trong khi đó, nhu cầu ghép bộ phận cơ thể người đang ngày một gia tăng. Hiện nay, cả nước có khoảng 5.000 đến 6.000 người suy thận mãn cần được ghép thận, tại Hà Nội đã có gần 1.500 người được chỉ định ghép gan nhưng không có nguồn cho nên số bệnh nhân này đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Do không có nguồn của người hiến nên cho đến nay, ở Việt Nam đã có hơn 200 người phải sang Trung Quốc và một số nước khác để ghép thận, ghép gan. Về nhu cầu mô, đặc biệt là ghép giác mạc, đến nay, cả nước có khoảng hơn 5.000 người bệnh đang chờ được ghép giác mạc. Riêng tại Viện Mắt Trung ương, mỗi năm nhu cầu ghép giác mạc từ 500 ca/năm trở lên nhưng từ năm 1985 đến nay, Viện mới chỉ ghép được 1.500 ca, riêng năm 2004 ghép được 103 ca, năm 2005 ghép được 150 ca. Số giác mạc được dùng để ghép chủ yếu lấy từ 18 nguồn viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (khoảng 50-100 giác mạc/năm) mà không có nguồn của người cho giác mạc. Mặt khác, nhu cầu về giảng dạy, nghiên cứu khoa học trên xác chết rất lớn. Theo tiêu chuẩn, tại các trường đại học y dược, cứ 6 – 7 sinh viên có 1 xác chết để học tập, nghiên cứu giải phẫu, nhưng đến nay, cả khoá trên dưới 400 sinh viên mới chỉ có 1 xác chết, thậm chí phải dùng lại nhiều lần do không có xác (theo báo cáo của Trường Đại học y Hà Nội, cả Trường hiện có 22 xác chết; Trường Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh có 173 xác chết). Số lượng này này vô cùng hạn chế. Để gia tăng hơn nữa số người hiến xác, chúng ta phải tăng số lượng những người hiến mang tính chất tự nguyện chứ không thể chỉ chờ vào nguồn hiến từ những người thân của bệnh nhân vì như thế là không thể đủ. Do đó, việc lấy mô, bộ phận cơ thể ở người hiến tự nguyện ngoài huyết thống và đặc biệt là ở người hiến sau khi chết là vô cùng cấp thiết. *** Nguyên nhân của tình trạng trên _ Do đặc điểm tôn giáo và quan niệm văn hoá của người Việt “chết là phải toàn thây”. _ Do việc tuyên truyền về vấn đề này còn yếu nên người dân không nhận thức được đầy đủ ý nghĩa của việc hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết. Do đó họ không hiến hoặc rất thờ ơ với việc này. _ Đa số các trường hợp hiến bộ phận cơ thể là hiến cho người thân, rất hiếm có trường hợp tình nguyện hiến cho người không cùng huyết thống. 2. Vấn đề hiến xác của tử tù còn gặp nhiều rào cản pháp lí Tháng 10-2007, tử tù Nguyễn Phước Đỉnh bị tuyên phạt tử hình về tội giết người ở Tiền Giang cũng viết đơn gửi TAND Tối cao xin được hiến xác cho y học sau khi thi hành án. Trong đơn tử tù này nói mình khỏe mạnh, nhiều bộ phận cơ thể vẫn còn có ích cho những ca bệnh hiểm nghèo. 19 Tháng 9/2009 phạm nhân Nguyễn Văn Hải (SN 1980) đã bị Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tuyên án tử hình về tội giết người và cướp tài sản; đã viết đơn gửi đến chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết bày tỏ ý muốn xin được thi hành án và nêu nguyện vọng xin được hiến xác cho khoa học. Tuy nhiên, nguyện vọng của cả hai tử tù trên đều không được chấp thuận mặc dù nó mang đầy tính nhân văn. Tại sao vậy? Ở Trung Quốc, từ năm 1984 đã có quy định về việc hiến xác của các tử tù. Theo quy định, xác tử tù sẽ được sử dụng trong trường hợp không có người nhận, tử tù tự nguyện hiến xác hoặc gia đình tử tù chấp thuận cho hiến xác. Trung Quốc cũng chấp nhận cho tử tù hiến nội tạng sau khi chết. Tuy nhiên, ở Việt Nam tử tù xin hiến xác đặt ra vấn đề mới liên quan đến nhiều khía cạnh: y học, xã hội, pháp lý… và các cơ quan chức năng đang bàn cách giải quyết và việc này còn có rất nhiều những ý kiến trái chiều. Đa số ý kiến không đồng tình vì một số nguyên nhân sau: + Tử tù là một người đang phải thi hành bản án, bị hạn chế một số quyền công dân. + Hình thức tử hình là xử bắn bằng đội hành quyết, cho nên dù tử tù có muốn hiến bộ phận cơ thể hay thi thể cũng khó vì các nội tạng (tim, thận…) đều không còn nguyên vẹn. Còn nếu để cho ướp xác để phục vụ nghiên cứu cũng khó vì, khi tiêm thuốc vào các mạch máu của tử thi, tử thi phải đảm bảo nguyên vẹn, nếu các động mạch bị vỡ thì không thể tiêm thuốc vào vì bị xì hơi. + Theo quy định người hiến bộ phận cơ thể, mô tạng còn được gắn kỷ niệm chương, người hiến xác còn được ghi tên trong nhà tưởng niệm… Nếu tử tù tự nguyện hiến xác thì có được đối xử như trên không? + Từ 1/7/2011, Luật Thi hành án Hình sự có hiệu lực, trong đó quy định thay hình thức xử bắn bằng tiêm thuốc độc. Như vậy, việc lấy mô tạng, bộ phận 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan