Bài tập học kỳ - Môn phòng chống bạo lực gia đình
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................1
I. Một số vấn đề lý luận chung.............................................................................1
1. Thế nào là bạo lực gia đình..........................................................................1
2. Nạn nhân bạo lực gia đình............................................................................3
a. Khái niệm....................................................................................................3
b. Phân loại.....................................................................................................3
II. Quyền của nạn nhân bạo lực gia đình...........................................................4
1. Quyền đầu tiên...............................................................................................5
2. Quyền thứ hai................................................................................................6
3. Quyền thứ ba.................................................................................................7
4. Quyền thứ tư..................................................................................................7
III. Một số tồn tại và giải pháp khắc phục trong quy định về quyền của nạn
nhân bạo lực gia đình...........................................................................................9
1. Một số vấn đề còn tồn tại..............................................................................9
2. Một số giải pháp khắc phục........................................................................11
KẾT LUẬN.............................................................................................................12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................13
Lớp N02.TL2
0
Nhóm 03
Bài tập học kỳ - Môn phòng chống bạo lực gia đình
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, bạo lực gia đình là một vấn đề khá nóng, với những con số thống kê
khổng lồ được đưa ra cùng với xu hướng ngày một gia tăng. Từ thực trạng trên đặt
ra một vấn đề đặc biệt quan trọng đó là với hành vi bạo lực như vậy thì nạn nhân
bạo lực có thể làm những gì để tự bảo vệ mình? Pháp luật nước ta có quy định như
thế nào để bảo vệ họ? Với sự quan tâm đặc biệt về vấn đề này, vì vậy sau đây em
xin đi làm rõ đề tài “quyền của nạn nhân bạo lực gia đình” để có cái nhìn cụ thể về
bạo lực gia đình trên khía cạnh quyền của nạn nhân. Sau đây em xin đi vào chi tiết.
NỘI DUNG
I. Một số vấn đề lý luận chung
1. Thế nào là bạo lực gia đình
Đối với khái niệm về bạo lực gia đình thì tùy từng góc độ nghiên cứu thì lại có
quan điểm, cách hiểu khác nhau, cụ thể như sau:
+ Bạo lực gia đình nhìn từ góc độ giới
Thông thường mỗi khi nhắc tới cụm từ “bạo lực gia đình”, mọi người chỉ nghĩ
đến chồng đánh vợ, nam đánh nữ. Cách suy nghĩ đó chưa đủ, vì trong thực tế đời
sống xã hội ở các nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới, bạo lực gia đình
không phải một chiều. Bạo lực giới trong gia đình là bạo lực hai chiều cả nam và
nữ.
Từ góc độ giới có thể hiểu: Bạo lực gia đình là bất kỳ hành vi nào của các thành
viên gia đình đối với nhau trên cơ sở giới tính, được biểu hiện dưới những hình
thức nhất định, có khả năng gây ra hoặc đe dọa gây ra những tổn hại nhất định về
thể chất, tinh thần, kinh tế, tước đoạt hoặc hạn chế quyền tự do của thành viên khác
trong gia đình.
+ Quan điểm về bạo lực gia đình nhìn từ góc độ xã hội
Vấn đề bạo lực gia đình không còn là vấn đề mới trong xã hội. Đại bộ phận
người dân chưa có cách hiểu đầy đủ và chính xác về bạo lực gia đình. Người dân,
tùy từng độ tuổi, tầng lớp, trình độ mà có cách nhìn nhận khác nhau. Hiện nay còn
không ít người coi bạo lực gia đình chỉ là chuyện nội bộ mà không cần can thiệp.
Có người cho rằng chỉ những hành vi đánh đập thường xuyên, gây thương tích
nặng, dẫn tới kết quả nạn nhân bị tổn thương hay tử vong, hoặc gia đình ly tán mới
Lớp N02.TL2
1
Nhóm 03
Bài tập học kỳ - Môn phòng chống bạo lực gia đình
được coi là bạo lực gia đình. Có người thì cho rằng bạo lực phải xâm phạm đến thể
chất con người, còn những hành vi xâm phạm đến tinh thần không phải bạo lực. Đa
phần mọi người không nhận thức được hành vi bạo lực tình dục và vì thế họ không
hiểu được bạo lực tình dục cũng là một hình thức bạo lực gia đình.
Nhìn từ góc độ xã hội có thể hiểu: Bạo lực gia đình là hành vi dùng vũ lực hoặc
đe dọa dùng vũ lực của một người đối với một người khác có quan hệ hôn nhân,
huyết thống hoặc nuôi dưỡng gây ra hoặc đe dọa gây ra những tổn hại nhất định về
thể chất, tinh thần, kinh tế của thành viên khác trong gia đình.
+ Bạo lực gia đình nhìn từ góc độ pháp luật
Theo Khoản 2 Điều 1 Luật phòng chống bạo lực gia đình năm 2007 (sau đây gọi
là Luật PCBLGĐ) quy định “ Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia
đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối
với thành viên khác trong gia đình”. Bạo lực gia đình không chỉ xảy ra giữa cha,
mẹ, con, ông, bà, cháu,anh chị em ruột với nhau mà còn có thể xảy ra giữa những
người họ hàng thân thích như: Cô, dì, chú, bác, với cháu…như vậy mức độ của bạo
lực trong gia đình đã được xem xét ở nhiều khía cạnh đa dạng và đầy đủ hơn.
Như vậy có thể hiểu, bạo lực gia đình trước hết phải là hành vi “cố ý” của thành
viên gia đình và hành vi này phải gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể
chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình. Các hành vi có thể
được thể hiện dưới dạng hành động (hành hạ, ngược đãi, đánh đập,…nạn nhân) gây
tổn hại trực tiếp tới sức khỏe, tính mạng của nạn nhân hoặc không hành động (bàng
quang, thờ ơ, bỏ mặc, nhiếc mắng,...) gây tổn hại về tinh thần, tâm lý cho nạn nhân.
2. Nạn nhân bạo lực gia đình
a. Khái niệm
Theo từ điển Luật học thì “nạn nhân” tức là người bị thiệt hại về thể chất, về
tinh thần hoặc tài sản do hậu quả của một tai họa xã hội, hành vi trái pháp luật hay
một xã hội bất công, phân biệt chủng tộc….
Nạn nhân bạo lực gia đình là người bị gây tổn hại hoặc có nguy cơ bị gây tổn
hại về thể chất, tinh thần hoặc kinh tế từ hành vi bạo lực gia đình của thành viên
khác trong gia đình.
Lớp N02.TL2
2
Nhóm 03
Bài tập học kỳ - Môn phòng chống bạo lực gia đình
Như vậy, khi thành viên gia đình có hành vi bạo lực gia đình tức là có hành vi
gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với
thành viên khác trong gia đình thì khi đó xuất hiện nạn nhân bạo lực gia đình.
Nạn nhân của bạo lực gia đình bao gồm các thành viên trong gia đình của vợ
chồng đang trong thời kỳ hôn nhân hoặc của vợ chồng đã ly hôn hoặc nam, nữ
không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng (căn cứ quy định tại
khoản 2 Điều 2 luật PCBLGĐ).
b. Phân loại
Có nhiều cách phân loại nạn nhân bạo lực gia đình như:
+ Căn cứ vào giới tính gồm có nạn nhân là nam giới và nữ giới. Trên thế giới
nói chung và Việt Nam nói riêng thì hầu như nữ giới vẫn thường bị bạo hành nhiều
hơn nam giới, nguyên nhân có thể do sự yếu thế về mặt thể chất, vị thế hay những
quan niệm lệch lạc do định kiến về giới, …
+ Căn cứ vào thể chất gồm có nạn nhân là người lớn tuổi và trẻ em. Người già
yếu và trẻ em là hai nhóm nạn nhân dễ bị tổn thương nhất bởi xét về mặt thể chất
thì họ khó có khả năng bảo vệ mình trong trường hợp bị bạo lực gia đình.
+ Căn cứ vào hình thức bạo lực gia đình:
- Nhóm nạn nhân bị bạo lực về thể chất: Là nạn nhân trực tiếp gánh chịu những
hậu quả do những hành vi bạo lực gây ra thương tích trên cơ thể nạn nhân. Những
hành vi như đánh, đập, đối xử tàn tệ, tra tấn hoặc những hành vi nhằm mục đích
gây ra thương tật cho sức khỏe và cuộc sống của nạn nhân.
- Nhóm nạn nhân bị bạo hành về tinh thần: Hiện nay vẫn chưa có một khái niệm
chính thức nào về bạo lực gia đình về tinh thần. Bởi vì đây là hình thức bạo hành
khó xác định do nhiều lý do. Do đó để xác định hành vi nào là bạo lực về tinh thần,
đồng thời xác định nhóm nạn nhân bị bạo lực về tinh thần, chúng ta cần xem xét
hành vi đó có dựa trên sự áp đặt quyền lực và sự kiểm soát hay không. Nhìn chung
bạo lực về tinh thần còn bao gồm cả bao gồm những hành vi đe dọa, lăng mạ, hạ
thấp phẩm giá, nhân phẩm gây ra áp lực về tinh thần cho nạn nhân.
- Nhóm nạn nhân bị bạo hành về kinh tế: Đây là nhóm nạn nhân bị bạo lực do
hành vi cố ý sử dụng phương tiện kinh tế để kiểm soát nạn nhân hoặc chiếm đoạt
thu nhập hợp pháp của nạn nhân hoặc ngăn cấm nạn nhân tiếp cận, sử dụng các
nguồn thu nhập của gia đình hoặc bắt ép nạn nhân làm việc quá sức.
Lớp N02.TL2
3
Nhóm 03
Bài tập học kỳ - Môn phòng chống bạo lực gia đình
- Nạn nhân bị bạo hành về tình dục: Nạn nhân bị bạo hành về tình dục mặc dù
không còn xa lạ tuy nhiên vẫn còn chưa được quan tâm đúng mực. Đặc biệt do bị
ảnh hưởng bới ý thức hệ mà hiện nay vẫn còn rất nhiều rào cản để nạn nhân bị bạo
lực tình dục cất lên tiếng nói tự bảo vệ mình. Họ chính là những nạn nhân gánh
chịu trực tiếp những hậu quả từ hành vi quấy rối tình dục hoặc cưỡng ép quan hệ
tình dục ngoài ý muốn của họ.
+ Căn cứ vào hậu quả bạo lực tình dục bao gồm:
- Nhóm nạn nhân có nguy cơ bị tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế, tình dục.
- Nhóm nạn nhân bị tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế, tình dục.
II. Quyền của nạn nhân bạo lực gia đình
Khi tìm hiểu về bạo lực gia đình, nạn nhân của hành vi bạo lực gia đình là
những người phải gánh chịu nhiều nhất đối với hậu quả của hành vi bạo lực gây ra,
do đó việc quan tâm, tìm hiểu quy định về quyền của những nạn nhân này là hết
sức cần thiết, hết sức quan trọng. Qua tìm hiểu ta sẽ biết được họ có những quyền
gì để có thể bảo vệ chính họ, họ có thể làm gì trước hành vi bạo lực diễn ra đối với
chính họ? Theo quy định tại Khoản 1 Điều 5, Luật PCBLGĐ, thì nạn nhân bạo lực
gia đình có những quyền sau đây:
“………:
a) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng,
nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình;
b) Yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo vệ,
cấm tiếp xúc theo quy định của Luật này;
c) Được cung cấp dịch vụ y tế, tư vấn tâm lý, pháp luật;
d) Được bố trí nơi tạm lánh, được giữ bí mật về nơi tạm lánh và thông tin khác
theo quy định của Luật này;
đ) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.”
Như vậy theo Điều 5 trên đây, nạn nhân của bạo lực gia đình có bốn quyền cơ
bản và bên cạnh đó có thêm một quy định mở quy định tại điểm đ đó là “các quyền
khác theo quy định của pháp luật”, vậy các quyền này được thể hiện chi tiết như
thế nào, chúng ta cùng đi tìm hiểu cụ thể như sau:
Lớp N02.TL2
4
Nhóm 03
Bài tập học kỳ - Môn phòng chống bạo lực gia đình
1. Quyền đầu tiên, nạn nhân bạo lực gia đình có quyền yêu cầu cơ quan, tổ
chức, người có thẩm quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, quyền và lợi
ích hợp pháp khác của mình (điểm a Khoản 1 Điều 5).
Nạn nhân bạo lực gia đình, những người đã bị chính người thân của mình gây ra
những thương tổn nhất định, rất cần nhận được sự giúp đỡ của cộng đồng và xã hội.
Khi hành vi bạo lực đã xảy ra trong gia đình thì những thành viên gia đình vì những
mối liên hệ với người thực hiện hành vi bạo lực sẽ rất khó có sự can thiệp mạnh
mẽ, dứt khoát cần thiết để bảo vệ nạn nhân. Do đó, nạn nhân cần sự giúp đỡ của
các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền để bảo vệ sức khỏe, tính mạng, nhân
phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Để có được sự hỗ trợ từ phía cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền nạn nhân
bạo lực gia đình có thể viết đơn yêu cầu UBND hoặc Công an cấp xã, phường khi
bản thân bị bạo lực gia đình. Nếu là hội viên Hội Phụ nữ, họ có thể báo cho Tổ Phụ
nữ xã, phường hoặc Ban Chấp hành Hội Phụ nữ xã, phường để có biện pháp phối
hợp với chính quyền và lực lượng chức năng ở địa phương can thiệp, giúp đỡ khi
cần thiết. Việc quy định đây là quyền của nạn nhân thì cũng đồng thời là nghĩa vụ
của các chủ thể khác. Để quy định này được hiện thực hóa thì người có quyền này
phải thực hiện một cách tích cực.
Tuy nhiên, trên thực tế khi trở thành nạn nhân rất nhiều người lại không sử dụng
quyền này. Việc này xuất phát từ nhiều nguyên nhân như: Do tâm lý, không muốn
cuộc sống gia đình bị đổ vỡ, hay do sợ hãi vì bị khống chế, hoặc do chế tài xử phạt
(mất phí nộp phạt)….Lại thêm vào đó việc can thiệp bảo vệ nạn nhân bạo lực gia
đình còn rất e dè vì quan niệm bấy lâu nay của người Việt Nam đấy là “chuyện
riêng”, là vấn đề tế nhị của các gia đình.
2. Quyền thứ hai, nạn nhân bạo lực gia đình có quyền yêu cầu cơ quan, người
có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo vệ, cấm tiếp xúc theo quy định
của Luật PCBLGĐ (điểm b Khoản 1 Điều 5).
Không chỉ dừng ở quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ
sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của mình mà cụ thể
hơn nạn nhân bạo lực gia đình còn có quyền yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền
áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo vệ, cấm tiếp xúc.
Lớp N02.TL2
5
Nhóm 03
Bài tập học kỳ - Môn phòng chống bạo lực gia đình
Trong trường hợp cần thiết, nạn nhân bạo lực gia đình có thể yêu cầu cơ quan,
người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn theo Điều 19 Luật PCBLGĐ
như: "Buộc chấm dứt ngay hành vi bạo lực gia đình; Cấp cứu nạn nhân bạo lực
gia đình; Các biện pháp ngăn chặn theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm
hành chính hoặc pháp luật về tố tụng hình sự đối với người có hành vi bạo lực gia
đình; Cấm người có hành vi bạo lực gia đình đến gần nạn nhân; sử dụng điện
thoại hoặc các phương tiện thông tin khác để có hành vi bạo lực với nạn nhân".
Khi có đơn yêu cầu của nạn nhân bạo lực gia đình, người giám hộ hoặc người
đại diện hợp pháp hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền (phải có sự đồng ý của nạn
nhân bạo lực gia đình) và nhận thấy hành vi bạo lực gia đình gây tổn hại hoặc đe
doạ gây tổn hại đến sức khỏe hoặc đe doạ tính mạng của nạn nhân bạo lực gia đình
thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi xảy ra bạo lực gia đình quyết định áp dụng
biện pháp cấm tiếp xúc trong thời hạn không quá 3 ngày (Điều 20 Luật PCBLGĐ).
Ngoài ra, Tòa án cũng có thẩm quyền áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc và quyết
định của Tòa án được thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự về các
biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 21 Luật PCBLGĐ). Và phải huỷ hỏ biện pháp
cấm tiếp xúc khi có đơn yêu cầu của nạn nhân bạo lực gia đình hoặc khi người ra
quyết định cấm tiếp xúc nhận thấy biện pháp này không còn cần thiết.
3. Quyền thứ ba, nạn nhân bạo lực có quyền được cung cấp dịch vụ y tế, tư vấn
tâm lý, pháp luật (điểm c Khoản 1 Điều 5).
Nạn nhân bạo lực gia đình còn có quyền được cung cấp dich vụ y tế, tư vấn
tâm lí, pháp luật. Họ cần được "cung cấp thông tin, kiến thức, pháp luật về hôn
nhân, gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình; hướng dẫn kỹ năng ứng xử trong
gia đình; kỹ năng ứng xử khi có mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia
đình" (Khoản 2 Điều 16 Luật PCBLGĐ). Các nạn nhân được "tư vấn về chăm sóc
sức khoẻ, ứng xử trong gia đình, pháp luật và tâm lý để giải quyết tình trạng bạo
lực gia đình" (Khoản 1 Điều 24 Luật PCBLGĐ).
Những tổn thương về thể chất có thể được chữa lành bằng sự chăm sóc y tế;
nhưng với tổn thương về tâm lý, nạn nhân không dễ dàng vượt qua được. Những sợ
hãi, hoang mang, khủng hoảng, tự ti… có thể theo họ một thời gian dài, khiến họ
không thể lấy lại sự cân bằng trong cuộc sống. Họ rất cần được tư vấn tâm lý để
vượt qua những nỗi ám ảnh này, họ cần được biết rằng họ không có lỗi trong việc
Lớp N02.TL2
6
Nhóm 03
Bài tập học kỳ - Môn phòng chống bạo lực gia đình
để hành vi bạo lực gia đình xảy ra, được hướng dẫn phải xử sự như thế nào khi
những hành vi này tiếp diễn. Đặc biệt, họ cần được biết những quy định của pháp
luật về vấn đề này để nâng cao khả năng tự bảo vệ trong những trường hợp tương
tự. Hiện nay cũng có rất nhiều các trung tâm tư vấn về tâm lý cũng như về pháp
luật đối với nạn nhân bạo lực gia đình.
Tuy nhiên, cũng vì lý do về tâm lý mà nhiều nạn nhân vẫn sợ hãi hoặc “xấu hổ”
mà không dám đến trung tâm tư vấn để được trợ giúp. Thêm nữa, cũng có thể do
vấn đề kinh tế khi sử dụng các dịch vụ về tư vấn pháp luật, do tâm lý mà nhiều nạn
nhân cũng không có cơ hội được thực hiện quyền này nhất là đối với nạn nhân là
người nghèo, người trình độ văn hóa thấp.
4. Quyền thứ tư, nạn nhân bạo lực gia đình có quyền được bố trí nơi tạm lánh,
được giữ bí mật về nơi tạm lánh và thông tin khác theo quy định của Luật
PCBLGĐ (điểm d Khoản 1 Điều 5).
Nạn nhân bạo lực gia đình còn có quyền được bố trí nơi tạm lánh để họ ổn định,
phục hồi tổn thương về thể chất và tâm lí. Điều này có tác dụng làm cho cả hai bên
có thời gian, cơ hội để nhìn nhận sự việc một cách rõ ràng hơn, bình tĩnh hơn. Với
những kẻ thực hiện hành vi bạo lực một cách côn đồ, hung hãn, không có điểm
dừng thì nơi tạm lánh này còn là biện pháp hữu hiệu nhất để bảo về nạn nhân.
Thực tế đã có rất nhiều trường hợp khi hành vi bạo lực bị phát hiện, nạn nhân đã
được áp dụng một số biện pháp chăm sóc, bảo vệ, người thực hiện hành vi đã được
thông tin về những sai phạm của mình, nhưng vẫn tiếp tục có những hành vi bạo
lực, thậm chí còn nặng nề và nguy hiểm hơn. Trong khi đó, những người xung
quanh, thậm chí là những người có trách nhiệm do lo sợ bị trả thù, bị vạ lây, bị
phiền phức nên đã không dám can thiệp bảo vệ nạn nhân.
Quy định về nhà tạm lánh là vậy, nhưng trên thực tế nơi tạm lánh rất ít mà nạn
nhân thì ngày một tăng. Do đó cần có thêm những nhà tạm lánh và dịch vụ xã hội
như câu lạc bộ, đường dây nóng, luật sư miễn phí, dạy nghề, trường học... cho các
nạn nhân của bạo lực gia đình. Làm sao để họ có đủ kiến thức, niềm tin, sự vững
vàng để có được quyết định đúng đắn cho cuộc sống của mình. Đồng thời các "Cơ
sở khám bệnh, chữa bệnh; Cơ sở bảo trợ xã hội; Cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực
gia đình; Cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình; Địa chỉ tin cậy ở cộng
Lớp N02.TL2
7
Nhóm 03
Bài tập học kỳ - Môn phòng chống bạo lực gia đình
đồng" (khoản 2 Điều 26 Luật PCBLGĐ) cũng có trách nhiệm giúp đỡ, hỗ trợ nạn
nhân bạo lực gia đình những kiến thức, phương tiện cần thiết.
Trách nhiệm của các cơ sở này được quy định tại các Điều 26, 27, 28, 29, 30
Luật PCBLGĐ. Bên cạnh đó, tất cả các thông tin của nạn nhân bạo lực gia đình cần
được giữ bí mật. Ví dụ với việc phát hiện, báo tin về bạo lực gia đình cơ quan công
an, Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc người đứng đầu cộng đồng dân cư khi phát hiện
hoặc nhận được tin báo về bạo lực gia đình có trách nhiệm kịp thời xử lý hoặc kiến
nghị, yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền xử lý; giữ bí mật về nhân thân và
trong trường hợp cần thiết áp dụng biện pháp bảo vệ người phát hiện, báo tin về
bạo lực gia đình. Những hành vi tiết lộ thông tin đều vi phạm pháp luật. Cụ thể như
hành vi tiết lộ thông tin trong quá trình tư vấn cho nạn nhân bạo lực gia đình nếu
phát hiện hành vi bạo lực gia đình có dấu hiệu tội phạm phải báo ngay cho người
đứng đầu cơ sở để báo cho cơ quan công an nơi gần nhất (khoản 4 Điều 29 Luật
PCBLGĐ). Các hành vi vi phạm bị xử lý theo quy định tại Chương V Luật bạo lực
gia đình .
Luật phòng chống bạo lực gia đình đã quy định khá đầy đủ và hợp lý các quyền
của nạn nhân bạo lực gia đình. Đây đều là những quyền cơ bản mà nạn nhân bạo
lực gia đình cần được hưởng. Tuy nhiên, trên thực tiễn triễn khai vẫn còn gặp phải
nhiều vướng mắc và khó giải quyết.
III. Một số tồn tại và giải pháp khắc phục trong quy định về quyền của nạn
nhân bạo lực gia đình.
1. Một số vấn đề còn tồn tại
Bạo lực gia đình là vấn đề mang tính toàn cầu, để lại nhiều hậu quả nghiêm
trọng cho con người, nhất là đối với phụ nữ, nó làm hạn chế sự tham gia của họ vào
đời sống cộng đồng, không chỉ gây hậu quả về thể chất, tâm lý cho bản thân phụ nữ
mà còn với cả trẻ em, gia đình, toàn xã hội và vi phạm nghiêm trọng các quyền con
người.
Theo thống kê của Trung ương Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và bộ Văn hóa –
Thể thao và Du lịch từ năm 2009 đến tháng 6 năm 2012, cả nước có 178.847 vụ
bạo lực gia đình.Trong đó, bạo lực gia đình với phụ nữ là 106.520 vụ, bạo lực gia
Lớp N02.TL2
8
Nhóm 03
Bài tập học kỳ - Môn phòng chống bạo lực gia đình
đình với trẻ em là 23.346 vụ, bạo lực gia đình với người cao tuổi là 16.148 vụ. (1)
Những vụ án thương tâm, những cái chết đau lòng xuất phát từ bạo lực gia đình nơi
mà được gọi bằng hai tiếng thân thương “tổ ấm” đang diễn ra ngày càng nhiều
trong xã hội. Và hậu quả là những nỗi đau từ những bản bán và vết thương tâm hồn
mãi là sự ám ảnh kéo dài trong suốt cuộc đời của nhiều con người.
Mặc dù pháp luật đã quy định những quyền của nạn nhân bạo lực gia đình, tuy
nhiên việc thực hiện những quyền này trên thực tế lại không được thực hiện, nạn
nhân không thực hiện các quyền được pháp luật quy định là do nhiều nguyên nhân
khác nhau như:
- Do các nạn nhân chưa hiểu biết pháp luật, chưa biết rõ về bạo lực gia đình,
chưa biết được quyền của mình mà pháp luật quy định cho họ.
- Đa số các nạn nhân đều ngại không muốn tố cáo hoặc không muốn nói cho
hàng xóm, cơ quan có thẩm quyền biết, có tâm lý cam chịu, sợ vạch áo cho người
xem lưng, xấu hổ hoặc coi đó là chuyện riêng của gia đình.
- Một số trường hợp thì không dám tố cáo chồng vì sợ khi tố cáo thì lại sợ bị
chồng đánh.
- Một lí do nữa là cơ quan chức năng ở cấp địa phương không phải là nơi để họ
tin tưởng để họ chia sẻ, vì những người như chủ tịch xã, phường…cũng chưa hiểu
biết về pháp luật bạo lực gia đình.
Sau khi Luật PCBLGĐ năm 2007có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2008, đại đa
số người dân đã nghe nói đến Luật với mức độ hiểu biết khác nhau. Các địa
phương đều đã triển khai công tác thông tin, tuyên truyền về Luật dưới nhiều hình
thức, tuy nhiên phần lớn người dân và cán bộ tại địa phương chưa hiểu đúng và rõ
về luật phòng chống bạo lực gia đình.
Như vậy có thể thấy, xu hướng quan niệm bạo lực gia đình là chuyện riêng của
mỗi nhà và đánh vợ chỉ là cách giáo dục vợ dẫn tới thái độ coi nhẹ các hành vi liên
quan đến bạo lực gia đình, làm tổn thương tới phụ nữ nói riêng và nhóm yếu thế
nói chung. Mặc dù Luật PCBLGĐ ra đời và có hiệu lực nhưng phần lớn người dân
vẫn chưa coi bạo lực trong gia đình là vấn đề xã hội. Trong nhận thức của những
1
Tham khảo tại trang web của Bộ văn hóa thể thao và du lịch : http://bvhttdl.gov.vn/vn/phat-ngon/thong-cao-bclist/hop-bao-cong-bo-nam-gia-dinh-viet-nam-2013.html
Lớp N02.TL2
9
Nhóm 03
Bài tập học kỳ - Môn phòng chống bạo lực gia đình
người tham gia vẫn còn tồn tại những hiểu lầm mang tính định kiến về nguyên
nhân gây ra bạo lực (nguyên nhân về kinh tế, thất học, khó khăn, rượu, ma túy …).
Về dịch vụ tư vấn pháp lý, pháp luật, nhà tạm lánh thì không phải ở địa phương
nào cũng có dịch vụ này, các dịch vụ tư vấn này chỉ có ở các thành phố lớn, còn ở
nông thôn miền núi thì không có các dịch vụ này. Công tác hòa giải, tư vấn tuy
quan trọng là vậy, nhưng vẫn bó buộc theo lối mòn khuyên giải người phụ nữ cần
cam chịu và trở về nhà, nơi bạo lực vẫn rình rập. Những địa chỉ tin cậy, nhà tạm
lánh cho nạn nhân của bạo lực vẫn còn khá xa lạ tại các địa phương. Chính vì vậy,
nhiều nạn nhân vẫn đang phải chịu những hình thức bạo lực nghiêm trọng và dai
dẳng cho dù Luật đã chính thức có hiệu lực. Biện pháp cấm tiếp xúc đối với người
gây bạo lực để bảo vệ nạn nhân còn rất mới và chưa có một trường hợp nào trong
nghiên cứu được áp dụng.
Qua những số liệu và ví dụ ở trên có thể thấy tình trạng bạo lực gia đình vẫn
thường xuyên diễn ra ở khắp mọi nơi, mọi gia đình Việt Nam. Thông qua đó cũng
có thể thấy rõ việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các nạn nhân bạo lực gia đình
còn chưa triệt để. Đa số các nạn nhân vẫn còn khá “mơ hồ” với các quy định về
quyền và nghĩa vụ của mình, do đó việc thực hiện các quy định về quyền và nghĩa
vụ của các nạn nhân vẫn còn gặp nhiều khó khăn và cần có những giải pháp khắc
phục.
2. Một số giải pháp khắc phục trong quy định về quyền của nạn nhân bạo
lực gia đình.
Thứ nhất, các cơ quan bảo vệ pháp luật và các ngành có liên quan tăng cường
tuyên truyền, giáo dục về phòng chống bạo lực gia đình nhằm thay đổi nhận thức
về hành vi bạo lực gia đình, góp phần tiến tới xóa bỏ bạo lực gia đình và nâng cao
nhận thức về hành vi bạo lực gia đình, góp phần tiến tới xóa bỏ bạo lực gia đình và
nâng cao nhận thức về truyền thống tốt đẹp của con người, gia đình Việt Nam.
Thông qua đó, nâng cao ý thức cộng đồng và nghĩa vụ công dân về phòng chống
bạo lực gia đình, nhằm động viên quần chúng tích cực tham gia phòng chống bạo
lực gia đình. Coi việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, các quy phạm đạo đức
mới là nghĩa vụ hàng đầu của mỗi công dân trong cộng đồng và ở mỗi gia đình.
Giáo dục bình đẳng giới phải được thực hiện ngay từ trong gia đình đến nhà
trường và xã hội để định hình nhận thức. Phải nâng cao nhận thức của cả hai giới
Lớp N02.TL2
10
Nhóm 03
Bài tập học kỳ - Môn phòng chống bạo lực gia đình
về quyền và nghĩa vụ của họ trong mối quan hệ với các thành viên trong gia đình.
Từng bước đưa việc giáo dục Luật phòng chống bạo lực gia đình vào hệ thống giáo
dục phổ thong và đến với tất cả mọi người dân, tạo tiền đề cho việc xây dựng gia
đình văn hóa mới – nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Thứ hai, lực lượng bảo vệ pháp luật ở cơ sở cần tham mưu cho chính quyền cơ
sở cùng với các tổ chức xã hội phát hiện kịp thời và giải quyết các mâu thuẫn trong
nội bộ gia đình, không để các mâu thuẫn kéo dài và chuyển hóa thành bạo lực gia
đình. Cần tạo ra một dư luận xã hội lên án mạnh mẽ những hành vi bạo lực gia
đình, hướng dư luận tới việc xác định ra yêu cầu, chuẩn mực trong quan hệ ứng xử
và đòi hỏi mỗi công dân tuân theo những định hướng đó.
Mặt khác, cần thông qua các tổ chức quần chúng cơ sở xây dựng hướng dẫn
công dân có quyền bảo vệ mình trước hành vi bạo lực, hành vi thô bạo và mỗi
người đều hành động theo nếp sống có văn hóa, giàu tinh thần nhân ái, có đạo lý
đối với mỗi thành viên trong gia đình.
- Thứ ba, cần có những biện pháp để ngăn chặn những hành vi tấn công nạn
nhân khi nạn nhân trình báo với cơ quan, người có thẩm quyền, mở rộng các dịch
vụ tư vấn miễn phí pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình cũng như các dịch
vụ tư vấn tâm lý cho các địa phương…Xây dựng thêm những ngôi nhà tạm lánh tại
các địa phương hay các địa chỉ cộng đồng để giúp đỡ các nạn nhân bạo lực gia
đình.
- Thứ tư, cần phối hợp giữa chính quyền và các lực lượng bảo vệ pháp luật với
các tổ chức quần chúng cơ sở trong việc phát hiện, xử lý nghiêm minh và kịp thời
các hành vi bạo lực gia đình nhằm tạo nên sức mạnh tấn công, uy hiếp những người
đã có hành vi bạo lực gia đình; từ đó làm hậu thuẫn cho việc phát động phong trào
quần chúng tham gia đấu tranh chống các loại tội phạm nói chung và các hành vi
bạo lực gia đình nói riêng.
Cuối cùng là phải tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, chính
quyền địa phương, phối hợp với các cơ quan, ban ngành, đoàn thể trong thực hiện
phòng chống bạo lực gia đình và bình đẳng giới.
Lớp N02.TL2
11
Nhóm 03
Bài tập học kỳ - Môn phòng chống bạo lực gia đình
KẾT LUẬN
Qua việc tìm hiểu về các quyền của nạn nhân bạo lực gia đình, ta thấy được một
thực tiễn hiện nay đó là có quyền nhưng chưa chắc đã thực hiện quyền. Con số nạn
nhân bị bạo lực gia đình mỗi năm rất lớn, tuy nhiên số nạn nhân thực chất có thực
hiện các quyền của mình lại không nhiều. Như vậy, ta thấy có nhiều lý do dẫn tới
tình trạng trên, nhưng chủ yếu là do nhận thức của người dân và do hiệu quả tuyên
truyền pháp luật. Vì vậy, thiết nghĩ công tác tuyên truyền, phổ biến và tư vấn pháp
luật cần được đặc biết chú ý và triển khai mạnh mẽ hơn, đồng thời kết hợp một
cách đồng bộ những biện pháp hỗ trợ khác thì thông qua việc thực hiện quyền của
nạn nhân bạo lực gia đình thì hành vi bạo lực gia đình mới có xu hướng thuyên
giảm.
Lớp N02.TL2
12
Nhóm 03
Bài tập học kỳ - Môn phòng chống bạo lực gia đình
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007.
2. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
3. Bộ luật dân sự năm 2005.
4. Nghị định của Chính phủ số 08/2009/NĐ-CP ngày 04/02/2009 quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật phòng, chống bạo lực gia
đình.
5. Trang web của Bộ văn hóa, thể thao và du lịch :
http://bvhttdl.gov.vn/vn/phat-ngon/thong-cao-bc-list/hop-bao-cong-bo-nam-giadinh-viet-nam-2013.html
Lớp N02.TL2
13
Nhóm 03
- Xem thêm -