Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Quy định của pháp luật hiện hành về công nghệ thông tin và truyền thông đối với ...

Tài liệu Quy định của pháp luật hiện hành về công nghệ thông tin và truyền thông đối với người người khuyết tật, thực tiễn ở việt nam

.DOCX
14
32
143

Mô tả:

LỜI MỞ ĐẦU Người khuyết tật ở một số dạng nhất định như khiếm thính, khiếm thị thường gặp khó khăn hơn trong việc học tập và trao đổi thông tin với xã hội bên ngoài, bởi người khiếm thị thông thường chỉ có thể đọc thông tin qua hệ thống chữ nổi, trong khi hầu hết các tài liệu đều không ở dạng này. Truy cập thông tin và công nghệ thông tin, truyền thông tạo ra nhiều cơ hội cho mỗi người nói chung, cho người khuyết tật nói riêng. Công nghệ này giúp con người mở mang tầm nhìn, cập nhất thông tin, phát huy được tiềm năng của mình. Đối với người khuyết tật, công nghệ thông tin có thể giúp họ phát huy được vai trò đóng góp cho sự phát triển của xã hội. Hiệp sĩ công nghệ thông tin năm 2005 Nguyễn Công Hùng, người mắc chứng bại liệt bẩm sinh làm giám đốc cơ sở đào tạo tin học và ngoại ngữ nhân đạo Công Hùng là một ví dụ. Ngày 01/01/2011 luật khuyết tật chính thức thức có hiệu lực, đây là văn bản luật chính quy định những vấn đề liên quan đến người khuyết tật cũng đã có những quy định về vấn đề công nghệ, thông tin và truyền thông đối với người khuyết tật. Do mới ban hành nên những điều luật còn rất mới mẻ do đó việc nắm bắt và hiểu rõ những quy định đó rất quan trọng Sau đây em xin được chọn đề tài “ Quy định của pháp luật hiện hành về công nghệ thông tin và truyền thông đối với người người khuyết tật, thực tiễn ở Việt Nam” Bài viết của em còn nhiều thiếu xót do vấn đề còn khá mới mẻ và nhận thức còn hạn chế mong thầy cô xem xét. 1 NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận: 1. Người khuyết tật: Khái niệm người khuyết tật được quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật khuyết tật: “ Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập khó khăn” Định nghĩa này kế thừa quy định tại Điều 1 pháp lệnh về người tàn tật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Về định nghĩa người khuyết tật dù tiếp cận dưới góc độ nào nhất thiết phải phản ảnh thực tế là người khuyết tật có thể gặp rào cản do yếu tố xã hội, môi trường hoặc con người khi than gia vào mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội. Họ phải được đảm bảo rằng họ có quyền và trách nhiệm tham gia vào mọi hoạt động của đời sống như bất cứ công dân nào đó với tư cách là quyền con người. 2. Luật người khuyết tật: - Là tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình đảm bảo các quyền và trách nhiệm của người khuyết tật. - Các nguyên tắc cơ bản của luật người khuyết tật Việt Nam: + Nguyên tắc tôn trọng và đảm bảo quyền của người khuyết tật. + Nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử. + Tham vấn người khuyết tật, đối tác xã hội và tổ chức xã hội. + Đảm bảo quyền được tiếp cận, hỗ trợ và điều chỉnh hợp lí đối với người khuyết tật + Đảm bảo hội nhập và thực thi các cam kết quốc tế 2 3. Công nghệ thông tin và truyền thông: - Công nghệ thông tin là: Theo khoản 1 điều 5 thì “công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, công nghệ và công cụ kỹ thuật hiện đại để sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số”. Khái niệm công nghệ thông tin được hiểu và định nghĩa trong nghị quyết Chính phủ 49/CP kí ngày 04/08/1993 : Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội. - Truyền thông: là quá trình chia sẻ thông tin. Truyền thông là một kiểu tương tác xã hội trong đó ít nhất có hai tác nhân tương tác lẫn nhau, chia sẻ các qui tắc và tín hiệu chung. Ở dạng đơn giản, thông tin được truyền từ người gửi tới người nhận. Ở dạng phức tạp hơn, các thông tin trao đổi liên kết người gửi và người nhận. Phát triển truyền thông là phát triển các quá trình tạo khả năng để một người hiểu những giừ người khác nói (ra hiệu, hay viết), nắm bắt ý nghĩa của các thanh âm và biểu tượng, và học được cú pháp của ngôn ngữ. 4. Ý nghĩa của công nghệ thông tin và truyền thông đối với người khuyết tật: Người khuyết tật ở một số dạng nhất định như khiếm thính, khiếm thị thường gặp khó khăn hơn trong việc học tập và trao đổi thông tin với xã hội bên ngoài, bởi người khiếm thị thông thường chỉ có thể đọc thông tin qua hệ thống chữ nổi, trong khi hầu hết các tài liệu đều không ở dạng này. Tuy nhiên, công nghệ thông tin và truyền thông có thể giúp họ tháo gỡ, khắc phục được những khó khăn này, thậm chí họ có thể tìm được việc làm phù hợp để có thu nhập. Thông qua một số phần mềm chuyên dụng và sự hỗ trợ của máy tính, 3 người khiếm thính có thể gửi, nhận thông tin qua email, hình ảnh. Việc phát triển các phần mềm chuyên dụng và sự hỗ trợ của máy tính, người khiếm thính có thể gửi, nhận thông tin qua email, hình ảnh. Việc phát triển các mềm như Jaw, NDC, Via Voice đã giúp người khiếm thị có thể nghe được nội dung các tài liệu mình cần đọc thông qua máy tính, trong khi các tài liệu được viết bởi những người bình thường. Với ựu hỗ trợ của các phần mềm chuyên dụng, người khiếm thị có thể tham gia các công việc văn phòng, dịch thuật tài liệu; người khiếm thính có thể làm tốt việc nhập dữ liệu hoặc điều hành các Internet shop. Trên thế giới, một số hang như IBM, Microsoft là các hang dẫn đầu trong việc phát triển các loại công nghệ dành cho người khuyết tật. Ở các nước phát triển phần lớn đều có những trung tâm thiết kế công cụ hỗ trợ người tàn tật trong lĩnh vực này. Đa số người khuyết tật có thể tự làm việc, hòa nhập với cộng đồng qua công cụ đó từ Internet. Ngoài ra, công nghệ thông tin còn có thể là công cụ làm tăng khả năng phục hồi, khắc phục khiếm khuyết ở người khuyết tật. Với người chậm phát triển về não, các trò chơi trên máy tính giúp cho sự phát triển trí óc do tác dụng kích thích sự tìm tòi, vẫn động suy nghĩ. Bên cạnh công nghệ thông tin, các phương tiện truyền thông một mặt phản ánh thông tin cần thiết về người khuyết tật trên mọi lĩnh vự đến cộng đồng, mặt khác cũng cung cấp thông tin từ đời sống cộng đồng đến với người khuyết tật, nếu họ có khả năng tiếp nhận hoặc hỗ trợ phương tiện tiếp cận thuận tiện. Chất lượng đời sống tinh thần của người khuyết tật qua đó được nâng lên. II. Quy định của pháp luật hiện hành về công nghệ thông tin và truyền thông đối với người khuyết tật: 4 Xuất phát từ vai trò đó của công nghệ thông tin và truyền thông, pháp luật đã đưa ra những quy định về vấn đề công nghệ thông tin và truyền thông đối với người khuyết tật Điều 43 luật người khuyết tật quy định vấn đề về công nghệ thông tin và truyền thông đối với người khuyết tật như sau: “Điều 43. Công nghệ thông tin và truyền thông 1. Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin dành cho người khuyết tật. 2. Cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm phản ánh đời sống vật chất và tinh thần của người khuyết tật. Đài truyền hình Việt Nam có trách nhiệm thực hiện chương trình phát sóng có phụ đề tiếng Việt và ngôn ngữ ký hiệu dành cho người khuyết tật theo quy định của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông. 3. Nhà nước có chính sách miễn, giảm thuế, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi và hỗ trợ khác cho hoạt động nghiên cứu, chế tạo, sản xuất và cung cấp dịch vụ, phương tiện hỗ trợ người khuyết tật tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông; hỗ trợ việc thu thập, biên soạn và xuất bản tài liệu in chữ nổi Braille dành cho người khuyết tật nhìn, tài liệu đọc dành cho người khuyết tật nghe, nói và người khuyết tật trí tuệ.” Điều luật này đưa ra vô cùng hợp lí và cần thiết phù hợp với nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử của luật khuyết tật. Vì trong thời đại phát triển công nghệ thông tin và truyền thông là những phương tiện phổ biến, nó cung cấp cho 5 con người một kho tàng kiến thức rộng lớn. Người khuyết tật tất nhiên cũng có quyền được tiếp cận với nền khoa học hiện đại này. Căn cứ vào điều khoản trên pháp luật xác định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, các nhân hoặc khuyến khích các hoạt động nhằm hỗ trợ sự tiếp cận công nghệ thông tin của người khuyết tật. Theo đó, Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong lĩnh vực công nghệ thông tin ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin dành cho người khuyết tật. Vấn đề này cũng được quy định tại điều 74 Luật công nghệ thông tin “1. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho người tàn tật tham gia hoạt động ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, phát triển năng lực làm việc của người tàn tật thông qua ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin; có chính sách ưu tiên cho người tàn tật tham gia các chương trình giáo dục và đào tạo về công nghệ thông tin. 2. Chiến lược, kế hoạch, chính sách phát triển công nghệ thông tin quốc gia phải có nội dung hỗ trợ, bảo đảm cho người tàn tật hòa nhập với cộng đồng.” Đồng thời theo quy định của pháp luật nhà nước có chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng và ưu đãi khác cho hoạt động sau đây: “a) Nghiên cứu - phát triển các công cụ và ứng dụng nhằm nâng cao khả năng của người tàn tật trong việc truy nhập, sử dụng các nguồn thông tin và tri thức thông qua sử dụng máy tính và cơ sở hạ tầng thông tin; b) Sản xuất, cung cấp công nghệ, thiết bị, dịch vụ, ứng dụng công nghệ thông tin và nội dung thông tin số đáp ứng nhu cầu đặc biệt của người tàn tật.” 6 Đồng thời, theo quy định của pháp luật nhà nước có các chính sách miễn, giảm thuế, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi và hỗ trợ khác cho hoạt động nghiên cứu, sản xuất, cung cấp dịch vụ, phương tiện hỗ trợ cho người khuyết tật tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông; hỗ trợ việc thu nhập, biên soạn và xuất bản tài liệu in chữ nổi Braille dành cho người khuyết tật nhìn, tài liệu đọc cho người khuyết tật nghe, nói và người khuyết tật trí tuệ ( Điều 43 khoản 1, khoản 4 Luật người khuyết tật). Luật công nghệ thông tin năm 2006 cũng nhấn mạnh việc Nhà nước có chính sách ưu đãi để tổ chức, các nhân có hoạt động ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin đối với người khuyết tật: “a) Nghiên cứu - phát triển các công cụ và ứng dụng nhằm nâng cao khả năng của người tàn tật trong việc truy nhập, sử dụng các nguồn thông tin và tri thức thông qua sử dụng máy tính và cơ sở hạ tầng thông tin; b) Sản xuất, cung cấp công nghệ, thiết bị, dịch vụ, ứng dụng công nghệ thông tin và nội dung thông tin số đáp ứng nhu cầu đặc biệt của người tàn tật.” Ví dụ: có thể được ngân hàng cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ lãi suất để đầu tư, sản xuất kinh doanh… ( Điều 5 Luật Công nghệ thông tin) Ngày 14/8/2009 Bộ thông tin và truyền thông ban hành thông tư số 28/2/2009/TT – BTTTT quy định việc áp dụng tiêu chuẩn, công nghệ hỗ trợ người khuyết tật tiếp cận, sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông. Ban hành kèm theo thông tư này là “ Danh mục tiêu chuẩn hỗ trợ người khuyết tật tiếp cận, sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông”. Các tiêu chuẩn hỗ trợ người khuyết tật tiếp cạn, sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông được quy định áp dụng theo hai hình thức: bắt buộc áp dụng và 7 khuyến nghị áp dụng. Chẳng hạn các doanh nghiệp sản xuất, xuất nhập khẩu, phân phối, bán lẻ thiết bị viễn thông bắt buộc phải sắp xếp kí tự số, kí tự chữ và kí hiệu trên máy điện thoại và các thiết bị khác để giúp người khuyết tật tiếp cận và sử dụng mạng điện thoại. Khi thiết kế và xây dựng trang thông tin điện tử ( website) bắt buộc phải hướng dẫn khả năng tiếp cận và sử dụng nội dung thông tin của trang thông tin điện tử phiên bản 1.0… Trong lĩnh vực truyền thông, cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm phản ánh đời sống vật chất và tinh thần của người khuyết tật cộng đồng nắm bắt được thông tin về bộ phận cư dân đặc biệt này. Ngược lại, để người khuyết tật có thể tiếp cận thông tin, Đài truyền hình Việt Nam có trách nhiệm thực hiện chương trình phát sóng có phụ đề tiếng Việt và ngôn ngữ kí hiệu dành cho người khuyết tật ( ĐIỀU 43 khoản 2 Luật người khuyết tât). Các đài truyền hình trung ương được cấp phép phủ sóng toàn quốc có trách nhiệm áp dụng công nghệ hỗ trợ người khiếm thính tiếp cận chương trình thời sự chính trị tổng hợp phát hàng ngày tối thiểu trên một kênh. Đối với các đài truyền hình thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đài truyền có diện phủ sóng khu vực, Nhà nước khuyến khích áp dụng công nghệ hỗ trợ người khiếm thính ( Điều 4 Thông tư 28/2009/TT – BTTTT) Tóm lại, công nghệ thông tin nói chung dù được phát triển khá mạnh mẽ nhưng vẫn là lĩnh vực tương đối mới mẻ ở nước ta. Tuy vậy, ở mức độ nhất định, pháp luật đã có những quy định cụ thể ( chủ yếu mang tính “khuyến khích”, “ưu tiên”) nhằm tạo điều kiện để người khuyết tật có thể tiếp cận với lĩnh vực hiện đại này, đảm bảo quyền hòa nhập cộng đồng của họ III. Thực tiễn ở Việt Nam: 1. Thực tiễn việc thực hiện quy định pháp luật về công nghệ thông tin và truyền thông ở Việt Nam 8 Thời gian vừa qua, thực hiện Thông tư số 28/2009/TT-BTTTT ngày 14/9/2009 của Bộ Thông tin và Truyền thông, tất cả các ngành, các cấp và cả các doanh nghiệp đã và đang triển khai tích cực các biện pháp giúp người khuyết tật hòa nhập với cuộc sống, trong đó có việc tiếp cận và ứng dụng công nghệ thông tin vào cuộc sống. Hàng năm Bộ Thông tin và truyền thông tổ chức giải thưởng Hiệp sỹ công nghệ thông tin để vinh danh những người khuyết tật có đóng góp cho việc đưa công nghệ thông tin đến với người khuyết tật và những người khuyết tật có thành tích trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Công ty Sitec phối hợp với nhóm sinh viên VCR (ĐH BK TPHCM) phát triển phần mềm hỗ trợ âm thanh Braille giúp người mù có thể dùng được máy tính. Sau đó là phần mềm NDC để có thể soạn thảo tiếng Việt... Tháng 10 vừa qua, cổng thông tin Thegioimatxa.net - cổng thông tin nghề nghiệp của người khiếm thị đã chính thức ra mắt và đi vào hoạt động. Cổng thông tin do Công ty Eastern Sun Việt Nam (ESVN) cùng với Trung tâm hướng nghiệp và hỗ trợ việc làm Hoàng Kim phối hợp triển khai. “Trong thời gian tới, ESVN sẽ tiếp tục hỗ trợ để mô hình này được nhân rộng không chỉ cho người khiếm thị mà còn cho cả những người khuyết tật khác nữa, góp phần nhỏ bé của mình vào mục tiêu chung của đất nước” ( Ông Đào Quang Dũng, Chủ tịch hội đồng quản trị, kiêm tổng giám đốc Công ty ESVN Vào ngày 10/10/2003 Đài truyền hình VN sẽ phát chương trình thời sự đầu tiên dành cho người khiếm thính trên sóng VTV2 với thời lượng 45 phút. Ngoài hình ảnh và lời của phát thanh viên, trên màn hình tivi sẽ có dòng phụ đề để những người khiếm thính có thể theo dõi được. Trung bình cứ 10 giây hình thì truyền tải được 1 đến 2 dòng phụ đề. 9 Đây chính là bản tin thời sự phát trên sóng VTV1 lúc 19h hằng ngày, nhưng nội dung đã được biên tập cho phù hợp.Theo những người làm chương trình, với các tin chính trị, kinh tế sẽ khó khăn trong việc truyền tải bởi số lượng chữ phụ đề sẽ nhiều và người khiếm thính khó tiếp nhận. Vì thế các biên tập viên phải biên tập cho ngắn gọn hơn. Giám đốc Văn phòng Điều phối các hoạt động hỗ trợ người tàn tật VN (NCCD) Nghiêm Xuân Tuệ khẳng định, việc ra đời chương trình này là một tin vui cho 400.000 người khiếm thính trên toàn quốc. Bởi bao nhiêu năm qua họ xem bản tin thời sự mà không hiểu gì, hoặc hiểu rất ít. Trước đó, NCCD và Đài truyền hình VN có ý định dùng thủ ngữ (ngôn ngữ ký hiệu bằng tay), nhưng vì ngôn ngữ này không thống nhất ở 3 miền nên phải thay bằng phụ đề. Đồng thời một số dự án đã được triển khai giúp người khuyết tật tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông: - Cung cấp bức tranh chính xác về người khuyết tật bằng cách ứng dụng công nghệ thông tin đồng thời sử dụng các sản phẩm công nghệ thông tin nhằm tạo các cơ hội hỗ trợ người khuyết tật tiếp cần gần hơn với cộng đồng. - Duy trì, cập nhật và phát triển cổng điện tử Phát triển người tàn tật, đưa cổng thông tin trở thành một địa điểm quen thuộc phục vụ cộng đồng những người khuyết tật tại Việt Nam - Duy trì và phát triển các công cụ trung gian để hỗ trợ những người khuyết tật, bổ sung và tìm tòi thêm các phần mềm tiên tiến. - Cung cấp thông tin cho các tổ chức có liên quan, các nhà khoa học và cá nhân quan tâm đến chương trình phát triển người khuyết tật 10 - Tập huấn cho người tàn tật về cách sử dụng Internet và về các phần mềm hỗ trợ tìm kiếm thông tin trên cổng thông tin dành cho người khuyết tật và về nhân quyền. 2. Những khó khăn và giải pháp về công nghệ thông tin và truyền thông với người khuyết tật Để người khuyết tật có thể tiếp cận với công nghệ thông tin đã là một điều khó khăn, việc giúp họ ứng dụng công nghệ thông tin vào cuộc sống lại càng khó khăn hơn gấp bội. Các cơ quan chức năng cần đưa ra các biện pháp, quy định cụ thể để hỗ trợ người khuyết tật trong việc tiếp cận công nghệ thông tin. Bên cạnh đó, cần sự phối hợp của các bộ, ban, ngành liên quan và cả các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Anh Trần Mạnh Huy (Công ty Hệ thống thông tin FPT) chỉ ra những thách thức với NKT: “Do đa phần NKT có trình độ văn hóa còn nhiều hạn chế nên việc theo học các ngành nghề CNTT luôn gặp những khó khăn nhất định. Hơn nữa, thời gian để sở hữu một chuyên môn CNTT tốt là tương đối dài. Điều này làm hạn chế việc chọn nghề CNTT của NKT. Công việc vốn là mối quan tâm hàng đầu của nhiều NKT. Đã có không ít lời “than thở" khi ngay chính nhiều cơ quan của Nhà nước vẫn còn e ngại tiếp nhận lao động khuyết tật, có những phần việc có thể ưu tiên cho NKT nhưng NKT vẫn chưa được tiếp nhận… Chị Dương Phương Hạnh - chủ tịch CLB Khiếm thính TP.HCM - hướng sự chú ý của mọi người sang khía cạnh công nghệ thông tin cho người khiếm thính. Chị chỉ ra những khó khăn: “Phần lớn người khiếm thính không thể theo học ở các trung tâm tin học vì không thể nghe. Còn các lớp dạy photoshop, thiết kế web cho người khiếm thính tại Chương trình khuyết tật và phát triển (DRD), CLB Hướng 11 nghiệp khuyết tật trẻ (TP.HCM)… thì không có cấp bằng. Hiện nay rất ít doanh nghiệp mạnh dạn nhận người khiếm thính vào làm việc liên quan tới CNTT”. Đào tạo CNTT cho NKT khó cả đầu vào lẫn đầu ra - đó là khẳng định của ông Đỗ Văn Du (Chương trình đào tạo CNTT cho NKT - ITTP - IT training program for people with disabilities). Ông cũng gợi mở chìa khóa giải quyết vấn đề: “Doanh nghiệp luôn cần và thích những người giỏi. Vì vậy, dù là NKT hay không khuyết tật, muốn có cơ hội việc làm tốt phải là người rất giỏi. Đó cũng là lý do mà khi xây dựng chương trình đào tạo CNTT cho NKT phải cân nhắc xem NKT có học được không". Song như anh Bùi Văn Toàn (Hội Trợ giúp NKT VN - VNAH) thì: “Cần những chính sách mạnh hơn nữa để đảm bảo NKT tiếp cận được CNTT, để có chương trình đào tạo phù hợp và tìm được đầu ra. Các cơ quan tuyển dụng cùng cần thực hiện những chính sách này để NKT có thể tham gia môi trường làm việc”. Ông Đỗ Văn Du (Chương trình đào tạo CNTT cho NKT - ITTP - IT training program for people with disabilities) gợi mở giải pháp: “Quan trọng là đơn vị đào tạo NKT phải làm việc với cả NKT và đơn vị tuyển dụng NKT. Phải làm việc từ cấp trên xuống cấp dưới để tạo ra môi trường làm việc thân thiện cho NKT để họ có thể cống hiến hết khả năng của mình Về phía truyền thông các nhà đài cần quan tậm chú trọng hơn nữa các chương trình dành cho người khuyết tật. Xây dựng các chương trình đa dạng, phong phú nhiều màu sắc hơn. 12 KẾT LUẬN Máy tính thực chất chỉ là một công cụ, là một phương tiện giúp cho người khuyết tật có thể học tập, lao động trên đó, với chiếc máy tính nối mạng đơn giản nhất là người khuyết tật có thể kết nối với người thân, bạn bè, họ có thể đọc tin tức, nghe nhạc, chơi game và chat với nhau, dùng để trình bày một bài thơ mình mới sáng tác… như vậy ngoài ý nghĩa kết nối mang nặng tính giải trí thì công nghệ thông tin không phải là cứu cánh của người khuyết tật. Để thực sự phát huy được tính hiệu quả của công nghệ thông tin, để người khuyết tật có thể kiếm sống được bằng công nghệ thông tin vẫn cần những cái nền cơ bản và sự học tập nghiêm túc bài bản của người khuyết tật cũng như sự quan tâm của cộng đồng. 13 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình luật người khuyết tật Việt Nam – trường đại học Luật Hà Nội 2. Luật người khuyết tật 2010 3. Luật công nghệ thông tin 4. Thông tư số 28/2/2009/TT – BTTTT 5. http://vietnamgateway.org.vn 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan