Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Quy đinh của bộ luật tố tụng hình sự về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, , ...

Tài liệu Quy đinh của bộ luật tố tụng hình sự về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, , thực tiễn thi hành và hướng hoàn thiện

.DOC
14
74
132

Mô tả:

LỜI MỞ ĐẦU Hiện nay trong tố tụng hình sự vai trò của người bào chữa ngày càng được thể hiện rõ ràng tại các phiên tòa và trong các giai đoạn tiến hành tố tụng khác.Quy định về người bào chữa trong tố tụng hình sự đã có từ rất lâu trên thế giới.Tuy nhiên ở nước ta vai trò của người bào chữa chỉ được nâng cao từ sau cải cách tư pháp, tạo cơ sở cho việc nâng cao công tác bảo vệ quyền và lợi lích hợp pháp của người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo.Mặc dù vậy những quy định về người bào chữa vẫn còn có những điểm chưa hợp lí.Trong bài viết này, sẽ đi tìm hiểu những quyền và nghĩa vụ của những người bào chữa, thực tiễn của những quy định này và phương hướng hoàn thiện những quy định chưa hợp lí đó. NỘI DUNG I. Các quy định về người bào chữa. Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự 2003: “ 1.Người bào chữa có thể là : a. Luật sư; b. Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; c. Bào chữa viên nhân dân.” Người bào chữa là người được các cơ quan tiến hành tố tụng chứng nhận, tham gia tố tụng để đưa ra những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cá vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. 1 - Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật tham gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đó theo quy định của pháp luật. - Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ bị can , bị cáo là cha mẹ hoặc người giám hộ của người bị tạm giam ,bị can, bị cáo chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần. - Bào chữa viên nhân dân: Bào chữa viên nhân dân có thể là người được Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử để bào chữa cho người bị tạm giam, bị can, bị cáo. Tuy là các chủ thể khác nhau tham gia vào vai trò của người bào chữa nhưng quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể trên là giống nhau theo quy định của pháp luật. Ngoài ra luật còn quy định về những người không được bào chữa theo khoản 2 Điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự : “ 2.Những người sau đây không được bào chữa: a. Những người tiến hành tố tụng trong vụ án đó; người thân tích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng. b. Người tham gia trong vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định hoặc người phiên dịch.” Việc những người trên tham gia bào chữa có thể gây ảnh hưởng đến khách quan trong việc giải quyết vụ án của người tiến hành tố tụng là người thân thích của họ và họ còn có nghĩa vụ trụng thực không chỉ theo hướng gỡ tội cho bị can, bị cáo.Vì vậy, họ không thể đồng thời là người bào chữa trong cùng một vụ án. 2 II. Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. 1. Quyền của người bào chữa. Quyền của người bào chữa được quy định tại khoản 2 Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.Trong có gồm những quyền sau: - Người bào chữa có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa; Người bào chưa tham gia vào công tác lấy lời khai giúp người bị tạm giữ ổn định về mặt tâm lí. Đồng thời cũng tạo áp lực cho những người tiến hành hoạt động điều tra phải cẩn thận hơn.Mặt khác việc này cũng giúp người bào chữa nắm rõ những chứng cứ, bám sát được vụ án, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tranh tụng tại phiên tòa. - Đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung để có mặt khi hỏi cung bị can; - Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng , người giám định ,người phiên dịch theo những quy định của luật tố tụng hình sự 2003, tức là khi có đủ căn cứ theo luật định và xét thấy những người này tiến hành hoặc tham gia ảnh hưởng không tốt đến quyền và lợi ích của người mà mình bào chữa. - Người bào chữa có quyền thu thập tài liệu chứng cứ liên quan tới công tác bào chữa cho bị can, bị cáo. Chứng cứ có thể thu thập từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau, trừ trường hợp các tài liệu đó là bí mật nhà nước. - Có quyền đưa ra tài liệu , đồ vật hoặc yêu cầu. Người bào chữa cũng được quyền yêu cầu triệu tập thêm người làm chừng để đảm bảo yêu cầu bào chữa cho 3 người phạm tội. Cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng quyền của người bào chữa, giúp đỡ người bào chữa thực hiện các quyền của mình. - Người bào chữa còn có quyền gặp người bị tạm giam ,bị can, bị cáo trong trại tạm giam. Qua những buổi tiếp xúc trực tiếp mà người bào chữa có thể nắm bắt được những tình tiết vụ việc. Thu thập được những chứng cớ có lợi trong công tác gỡ tội cho người phạm tội. Ngoài ra người bào chừa cũng góp phần phố biến phapf luật tới người có hành vi phạm tội giúp họ hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong quá trình tham gia tố tụng, để bị cáo thành khẩn khai báo để có thể được giảm trách nhiệm hình sự. - Tham gia thu thập chứng cứ tài liệu, đọc ghi chép hồ sơ vụ án liên quan tới công tác bào chữa. - Tham gia hỏi tranh luận tại phiên tòa. Trong suốt quá trình tham gia tố tụng của người bào chữa thì có thể nói giai đoạn tranh luận , bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa lá quan trọng nhất. Trong giai đoạn này người bào chữa thể hiện rất rõ vai trò của mình trong việc đưa ra những luận điểm nhằm gỡ tội cho bị cào, đưa ra những lí lẽ, lập luận của mình để bác bỏ những lời buộc tội của bị cáo theo quy định của pháp luật. - Khiếu lại những quyết định, hành vi tố tụng sai trái của những người tiến hành tố tụng. Có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của tòa án nếu như bị cáo là người chưa thanh niên, người có nhược điểm về tinh thần hoặc thể chất theo điểm b khoản 2 điều 57 bộ luật tố tụng hình sự 2003. - Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật này. Đây là quyền độc lập của người bào chữa, người bào chữa kháng cáo không phụ thuộc vào ý chí của bị cáo cũng như đại diện hợp pháp của bị cáo. 4 2. Nghĩa vụ của người bào chữa. Nghĩa vụ của người bào chữa được quy định trong khoản 3 Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự 2003. Trong đó bao gồm những nghĩa vụ sau đây : - Làm sáng rõ những tình tiết để nhằm giảm tránh nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo. Bám sát vụ án trong các giai đoạn khác nhau đế bảo vệ tốt nhất quyền lợi bị can bị cáo. Phối hợp với cơ quan điều tra, tòa án, viện kiểm sát để tiến hành các hoạt động tố tụng sao cho chính xác, nhanh chóng. - Giúp người bị tạm giam, bị can, bị cáo, về mặt pháp lí nhằm bảo vệ tốt nhất quyền lợi và nghĩa vụ của họ. - Không được từ chối bào chữa cho bị can, bị cáo mà mình nhận bào chữa nếu không có lí do chính đáng. - Hoạt động bào chữa phải được tiến hành trên cơ sở tôn trọng sự thật, tôn trọng pháp luật, không được mua chuộc, cưỡng ép hay xúi dục người khác khai báo gian dối hay cung cấp chứng cứ sai sự thật. - Có mặt theo giấy triệu tập của tòa án. - Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết đượ khi thực hiện việc bào chữa; không sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích nhà nước, quyền , lợi ích hợp pháp cảu cơ quan, tổ chức và cá nhân. III. Thực tiễn thi hành và hướng hoàn thiện. 1.Về quyền của người bào chữa. Hiện nay Bị cáo phản cung với lý do bị bức cung, ép mớm, nhục hình… là vấn đề rất bức xúc trong các phiên tòa ở Việt Nam , làm giảm uy tín của cơ quan điều tra, truy tố. Chủ tọa cắt không cho họ nói thì bị xem là mất dân chủ, không khách quan… Sở dĩ có tình trạng trên một phần là do Bộ luật tố tụng chưa có quy định cơ chế cứng tạo điều kiện cho luật sư tham gia từ giai đoạn điều tra, có 5 mặt tại các buổi hỏi cung bị can. Hầu hết quá trình điều tra luật sư chỉ được tham gia một vài buổi lấy lệ, đa số các buổi hỏi cung khác không có mặt luật sư. Về nguyên tắc, khi luật sư tham gia đã được cấp giấy chứng nhận người bào chữa và có văn bản đề nghị được tham gia tất cả các buổi hỏi cung và các hoạt động điều tra khác thì những hoạt động này bắt buộc phải có luật sư mới có giá trị pháp lý. Nhưng thực tế Bộ luật TTHS hiện hành có quy định rất mâu thuẫn và tạo ra những rào cản. Ví dụ: Luật sư muốn hỏi bị can phải được điều tra viên đồng ý. Phiên tòa xét xử trẻ vị thành niên không có luật sư bào chữa thì phải hoãn, bản án tuyên trong điều kiện đó thì phải hủy, nhưng bản cung buộc tội ghi lời khai của bị can vị thành niên vắng mặt luật sư (mặc dù Điều 305 BLTTHS quy định cơ quan tiến hành tố tụng phải chỉ định luật sư) nhưng họ không thực hiện hoặc tìm cách bảo bị can viết đơn từ chối luật sư trong khi họ chưa hề thực hiện Điều luật là chỉ định luật sư thì bản cung lại được chấp nhận là hợp pháp, Bản kết luận điều tra và Bản cáo trạng vẫn có giá trị pháp lý buộc tội. Tôi nghĩ đây là lỗ hổng lớn mà lần sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự tới đây phải đặc biệt quan tâm, giải quyết thấu đáo. Để khắc phục, tôi cho rằng luật cần chi tiết theo hướng ngoài điểm điều luật đã quy định điều tra viên thông báo cho luật sư thời gian, địa điểm hỏi cung bị can; cách thức trao đổi, liên hệ để thông báo với luật sư, những nguyên tắc và trách nhiệm bảo mật thông tin điều tra. Khi tham gia hỏi cung, luật sư được hỏi sau mỗi vấn đề, nội dung điều tra viên hỏi. Luật sư có quyền giải thích pháp luật cho bị can về quyền trả lời hoặc không trả lời vấn đề điều tra viên hỏi. Luật sư có quyền phản đối câu hỏi mớm cung, bức cung của điều tra viên; xem xét và có ý kiến về nội dung biên bản hỏi cung có đúng nội dung trả lời của bị can hay không; xác định tình trạng sức khỏe và tâm thần của bị can khi hỏi cung. Điểm e khoản 2 Điều 58 cần bổ sung theo tinh thần: luật sư có quyền gặp riêng làm việc với người bị tạm giữ,bị can, bị cáo khi cần thiết. trong trường hợp đặc biệt, một 6 số tội cụ thể luật sư có quyền làm việc với bị can trong tầm nhìn nhưng không trong tầm nghe của cán bộ tố tụng. Không bị hạn chế về số lượng lần gặp và thời gian gặp chứ không phải quy định chung chung là được gặp để tránh những sự gây khó khăn từ phía cơ quan và người thi hành tố tụng chỉ cho gặp một cách hình thức và hạn chế thời gian được gặp. Cần bổ sung quy định lời khai của bị can trong quá trình điều tra, truy tố mà không có sự tham gia của luật sư thì không được công nhận là chứng cứ. Sự bổ sung này hoàn toàn khả thi trong điều kiện hiện nay của nước ta. Ở những nước có nền dân chủ tư pháp phát triển, bị can, bị cáo có quyền từ chối cung khai nếu vắng mặt luật sư. Sự có mặt của luật sư trong các buổi lấy cung có 2 ý nghĩa: giám sát, không để xảy ra việc mớm cung, bức cung, nhục hình; và không để xảy ra tình trạng phản cung, bác lời khai tại cơ quan điều tra, viện kiểm sát bởi việc lấy cung đã có người thứ ba chứng kiến. Để quy định về nghĩa vụ của người bào chữa hoàn chỉnh hơn, tôi cho rằng cần bổ sung vào khoản 4 của Điều 58 cụm từ “nếu tiết lộ bí mật điều tra và” vào sau cụm từ “người bào chữa” nhằm đảm bảo cho việc giữ bí mật điều tra mà người bào chữa biết được khi tham gia tố tụng. Điều này dẫn tới tính khả thi của sự cho phép người bào chữa tham gia sớm hơn trong các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia và các vụ án đặc biệt nghiêm trọng. Nếu vẫn quy định chung chung là không được tiết lộ bí mật điều tra mà không kèm theo quy định khả năng áp dụng chế tài nếu có sự vi phạm thì cơ quan điều tra e ngại và cho việc giữ bí mật điều tra là cái cớ để không tạo điều kiện luật sư tham gia làm cho quy định đó thiếu tính khả thi. Luật không qui định cụ thể cơ quan tố tụng phải chịu chế tài thế nào nếu không tạo điều kiện cho luật sư hành nghề nên nhiều quyền của người bào chữa không được thực hiện và hầu như bị vi phạm. Luật cần quy định các chế tài cụ thể đối với các hành vi cản trở của Điều tra viên cũng như cơ quan điều tra đối với sự tham gia của luật sư. 7 Đã có rất nhiều ý kiến cần phải mở rộng quyền của người bào chữa hơn nữa.Tuy nhiên còn có nhiều ý kiến cho rằng, việc mở rộng các quyền của người bào chữa sẽ gây nhiều “khó khăn” cho các cơ quan tiến hành tố tụng? Theo quan điểm của chúng tôi, điều đó chỉ đúng một phần nhỏ khi ở phương diện là người tiến hành tố tụng năng lực và trình độ còn hạn chế ở mấy năm trước khi sửa đổi BLTTHS năm 2003. Nay để đáp ứng yêu cầu cải cách đồng bộ hệ thống các cơ quan tư pháp thì đội ngũ cán bộ tư pháp đã được tăng cường về năng lực chuyên môn và nhận thức nghề nghiệp để đáp ứng xu thế hội nhập của đất nước. Đến nay phải nói rằng vấn đề này không còn là hạn chế không thể khắc phục mà chúng ta phải coi đó là những “khó khăn cần thiết” để bảo đảm một nền tư pháp trong sạch, góp phần chống oan sai trong điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự, và chính ý nghĩa và mục đích lớn lao đó thì chúng tôi cho rằng từ việc mở rộng quyền của người bào chữa ở lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS năm 2003 thì nay cần quy định thêm cơ chế đảm bảo quyền ngay trong luật bằng cách quy định sự tham gia của luật sư là bắt buộc. Quy định này sẽ khắc phục sự phân biệt và hướng dẫn không bình đẳng của mỗi cơ quan THTT về việc đảm bảo quyền của luật sư trong trường hợp luật sư mời khác luật sư chỉ định. Cần phải nhìn nhận một thực tế tích cực là có sự tham gia của luật sư trong các hoạt động tố tụng thì người THTT phải thận trọng và kỹ càng hơn trong mọi hoạt động của mình. Mặt khác, luật sư là người hiểu luật, thông thạo về tố tụng nên sẽ là nhà “tư vấn” quan trọng cho cơ quan và người THTT mỗi khi họ “làm theo thói quen” hoặc do quá bận mà “lỡ quên” quy định của BLTTHS mà không thực hiện đúng trình tự bắt buộc của quy trình tố tụng. Như vậy, sự sửa đổi , bổ sung theo hướng phân tích trên sẽ là tạo điều kiện thuận lợi hơn cho cơ quan và người tiến hành tố tụng thực hiện tốt nhiệm vụ của mình đồng thời đảm bảo quyền của người tham gia tố tụng. Tuy nhiên, Bộ luật TTHS hiện hành vẫn còn hạn chế quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa. Quy định của luật hiện hành cho 8 phép luật sư chỉ thu thập chứng cứ từ người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo và những người thân thích của họ; từ cơ quan, tổ chức nếu không thuộc bí mật quốc gia, bí mật công tác. Nhưng thực tế chứng cứ không chỉ tồn tại ở những người và các cơ quan, tổ chức nêu trên mà còn tồn tại ở những người khác có lưu giữ hoặc biết về những tình tiết liên quan có lợi cho họ. Bộ luật quy định người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu được điều tra viên đồng ý thì được hỏi những người này là quy định quyền nhưng không đảm bảo quyền cho luật sư. Vì vậy cần quy định luật sư tham gia hỏi cung được hỏi bị can và những người khác (nếu là đối chất) sau khi cán bộ điều tra đã hết câu hỏi như trình tự hỏi tại phiên tòa là phcủa người bào chữa có quyền có mặt trong các hoạt động điều tra khác ” quyền có mặt..” này của người bào chữa chỉ là người “chứng kiến” nhưng cũng không được đảm bảo. Vậy tại sao sự “chứng kiến” của luật sư lại khó khăn như vậy trong khi luật sư để sẵn sàng tham gia. Rõ ràng khi quy định cho luật sư quyền này nhà làm luật phải xuất phát từ nguyên tắc chung là đảm bảo quyền của bị can trong mọi hoạt động và mọi giai đoạn tố tụng họ đều có quyền có luật sư. Đồng thời sự có mặt của luật sư nhằm đảm bảo hạn chế sự vi phạm tố tụng của cơ quan THTT dù ở bất cứ giai đoạn nào. Bộ luật TTHS 2003 đã mở rộng quyền của người bào chữa nhưng những quy định đảm bảo cho các quyền ấy được thực hiện trên thực tế vẫn chỉ là lý thuyết. Điều 62 quy định về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng giải thích và bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng và cả Chương XXXV quy định về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự chủ yếu vẫn chỉ là những quy định về thủ tục, chưa có những chế tài cụ thể xử lý những người tiến hành tố tụng cố ý không thực hiện các yêu cầu, kiến nghị hợp pháp đó của người bào chữa. Những quy định chế tài này không chỉ chỉ là những “quy định ngành” chỉ những người tiến hành tố tụng biết mà cần phải được quy định 9 cụ thể trong BLTTHS để những người tham gia tố tụng cũng biết và thực hiện vai trò giám sát của mình một cách hiệu quả hơn. Chúng ta đã có Nghị Quyết số 388 và nay đã được cụ thể hóa vấn đề bồi thường oan sai vào Luật bồi thường nhà nước. Vậy những vấn đề do cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng không thực thi đầy đủ trách nhiệm của mình dẫn đến hồ sơ phải trả đi trả lại, phiên tòa hoãn, hủy kéo dài gây tốn kém, thiệt hại đến tài sản của nhà nước, quyền lợi của bị can và luật sư thì trách nhiệm thế nào? Tóm lại, với những nội dung nêu trên mới chỉ là một phần nhỏ những bất cập trong thực tiễn áp dụng BL TTHS trong 5 năm qua liên quan đến quyền của luật sư và trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Chúng tôi mong muốn đóng góp một số ý kiến nhằm góp phần hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự của Việt Nam trong thời gian tới, đảm bảo nền tư pháp Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 2.Về nghĩa vụ của người bào chữa. Thực tiễn hoạt động bào chữa của người bào chữa cho thấy các quy định trên của bộ luật tố tụng hình sự 2003 được người bào chữa thực hiện đúng sẽ góp phần cùng với cơ quan tiến hành tố tụng xác định sự thật vụ án, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của ng bị tạm giữ bị can bị cáo.Tuy nhiên, cũng còn không ít trường hợp do không hiểu thấu đáo quyền và nghĩa vụ pháp luật quy đinh nên người bào chữa đã không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình khi làm nhiệm vụ bào chữa cho người bị tạm giữ bị can bị cáo.Có luật sư khi bào chữa không làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc giảm nhẹ cho bị can bị cáo mà lại buộc tội lại bị can bị cáo.Ngược lại có luật sư đã sử dụng mọi biện pháp, kể cả những biện pháp mà pháp luật cấm để biện bạch cố tình đổi trắng thành đen vì những khoản thù lao mà thân chủ trả rất hậu.Có những luật sư xui bị cáo giả vờ ốm để hoãn phiên tòa, có luật sư vừa mới khai mạc phiên tòa ko cần xin phép chủ tọa phiên tòa đã lớn tiếng tuyên bố : “ tòa án đưa vụ án ra xét xử là vi phạm 10 nghiêm trọng pháp luật”; có luật sư lợi dụng mối quan hệ với tòa án để nhằm làm tác động giảm trách nhiệm cho bị cáo mà mình bào chữa mà không sử dụng các biện pháp để làm sáng tỏ những tình tiết xác định bị can, bị cáo vô tội hoặc giảm trách nhiệm cho bị can, bị cáo; có luật sư cố tình không có mặt tại phiên tòa hoặc nêu ra những lí do không chính đáng để hoãn phiên tòa như: Vì phải bào chữa ở vụ án khác ko về kịp hoặc vì chưa có thời gian nghiên cứu hồ sơ…Mặc dù pháp luật đã quy định người bào chữa không được tiết lộ bí mật mà mình biết được khi làm nhiệm vụ, nếu tiết lộ bí mật điều tra thì tùy trường hợp phải chịu trách nhiệm theo các điều 263, 264, 286, 287, 327, 328 bộ luật hình sự, nhưng có nhiều trường hợp những bí mật nhà nước , bí mật điều tra bí mật công tác và cả bí mật về đời tư mà người tham gia tố tụng yêu cầu giữ kín vẫn bị người bào chữa tiết lộ, thậm chí dùng nó để gỡ tội cho bị can bị cáo mà mình bào chữa.Ví dụ: trong vụ án Phạm anh T và đồng bọ bị đưa ra xét xử tại TPHCM 1 luật sư của bị cáo đặt ra câu hỏi : “ vì sao mà cơ quan điều tra lại biết henry Long Tài chuyển 1 triệu 6 usd ra khỏi việt nam mà phục bắt quả tang”.Rõ ràng câu hỏi này của luật sư đã vi phạm điều cấm và bị chủ tọa phiên tòa yêu cầu bị cáo ko pải trả lời câu hỏi này của luật sư vì nếu bị cáo trả lời tì bí mật điều tra sẽ bị tiết lộ. Người bào chữa là do người bị tạm giữ bị can bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ lựa chọn nhưng trong những trường hợp bị can bị cáo bị khởi tố truy tố hoặc bị đưa ra xét xử về tội mà khung hình phạt đối với tội ấy là tử hình hoặc bị can bị cáo là người chưa thành niên là người có nhược điểm về thể chất hay tinh thần, thì tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng mà cơ quan điều tra, viện kiểm sát, hay tòa án phải yêu cầu đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hay đề nghị Ủy ban mặt trân tổ quốc việt nam, tổ chức thành viên của mặt trận cử người bào chữa cho thành viên tổ chức mình.Việc phân công văn phòng luật sư cử người bào chữa cho bị cáo và việc văn phòng luật sư cử người bào chữa cho bị cáo là nghĩa vụ của đoàn luật sư và văn phòng luật 11 sư.Quy định này nhằm bảo đảm quyền dc bào chữa của bị can bị cáo trong những trường hợp mà họ không có khả năng tự bào chữa được.Nếu đã cử mà bị can bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa thì cơ quan tiến hành tố tụng phải chấp nhận yêu cầu của họ. Thực tiễn xét xử đã có 1 số tòa án đã hiểu không đúng quy định này nên 1 số trường hợp lúng túng trong việc yêu cầu đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử người bào chữa cho bị cáo.Ví dụ: trong vụ án Trương Văn Cam tòa án nhân dân TPHCM yêu cầu đoàn luật sư TPHCM phân cử người bào chữa cho bị cáo trương văn can nhưng đoàn luật sư TPHCM không phân công văn phòng luật sư cử người bào chữa cho bị cáo mà trước tiếp cử luật sư không thuộc văn phòng luật sư nào mà chỉ là thành viên của công ty luật hợp danh nên tòa án nhân dân TPHCM không chấp nhận để luật sư này bào chữa cho Năm cam.Về phía tòa án cũng có trường hợp lẽ ra không cần phải yêu cầu đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư củ người bào chữa cho bị cáo nhưng vẫn yêu cầu.Ví dụ:” bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi nhưng khi đưa vụ án ra xét xử họ đã hơn 18 tuổi, bị cáo không mời người bào chữa nhưng tòa án vẫn yêu cầu đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử người bào chữa cho bị cáo. Việc cử người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa nói chung được thực hiện nghiêm túc nhưng việc cử người bào chữa cho bị can trong giai đoạn điều tra chưa được quan tâm đúng mức, rất ít trường hợp cơ quan điều tra hoặc viện kiểm sát yêu cầu đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử người bào chữa cho bị can ở giai đoạn điều tra, có trong hợp luật sư đăng kí bào chữa cho bị can nhưng hơn 3 tháng vẫn chưa được cơ quan điều tra cấp giấy chứng nhận nhiệm vụ. Chúng tôi cho rằng việc người bào chữa tham gia tố tụng ngay từ khi khởi tố bị can đối với bị can là người chưa thành niên người có nhược điểm về tâm thần và thể chất là điều bắt buộc và mọi hoạt động điều tra của cơ quan điều tra phải có mặt của người bào chữa. 12 Với những quy định mới về người bào chữa trong bộ luật tố tụng hình sự 2003 và việc chấp hành đúng các quy định này sẽ góp phần cho việc điều tra truy tố xét xử đúng người đúng tội đảm bảo dân chủ công bằng văn minh.Tuy nhiên để các quy định bộ luật tố tụng hình sự 2003 được thực hiện, các cơ quan có thẩm quyền cần ban hành các văn bản giải thích hướng dẫn cụ thể từng quy định của bộ luật tố tụng hình sự 2003 về chế định người bào chữa. KẾT LUẬN Với những quy định mới về người bào chữa trong BLTTHS 2003 và việc chấp hành đúng các quy định này sẽ góp phần cho việc điều tra truy tố xét xử đúng người đúng tội đảm bảo dân chủ công bằng văn minh.Tuy nhiên để các quy định BLTTHS 2003 được thực hiện các cơ quan có thẩm quyền cần ban hành các văn bản giải thích hướng dẫn cụ thể 2003 về chế định người bào chữa. Đồng thời chúng ta cũng lên xem xét những quy định được coi là chưa hợp lý đế tìm hướng nghiên cứu và sửa đổi chúng sao cho phù hợp với pháp chế xã hội chủ nghĩa. 13 TÀI LIỆU THAM KHẢO LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................1 NỘI DUNG...........................................................................................................1 I. Các quy định về người bào chữa.................................................................1 II. Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự......................................................................................................3 1. Quyền của người bào chữa......................................................................3 2. Nghĩa vụ của người bào chữa..................................................................5 III. Thực tiễn thi hành và hướng hoàn thiện.................................................5 1.Về quyền của người bào chữa..................................................................6 2.Về nghĩa vụ của người bào chữa............................................................10 KẾT LUẬN.........................................................................................................13 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan