TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT QUỐC TẾ
KỶ YẾU HỘI THẢO
QUAN HỆ LAO ĐỘNG CÓ YẾU TỐ NƯỚC
NGOÀI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ
MỘT SỐ QUỐC GIA
TP. HỒ CHÍ MINH, Tháng 04/2022
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT QUỐC TẾ
KỶ YẾU HỘI THẢO
QUAN HỆ LAO ĐỘNG CÓ YẾU TỐ NƯỚC
NGOÀI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ
MỘT SỐ QUỐC GIA
TP. HỒ CHÍ MINH, Tháng 04/2022
2
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................................... 4
PHIÊN THỨ NHẤT: PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ
LAO ĐỘNG CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI ................................................................ 8
QUAN HỆ LAO ĐỘNG CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI DƯỚI GÓC NHÌN CỦA
TƯ PHÁP QUỐC TẾ ................................................................................................ 9
QUYỀN TỰ DO HIỆP HỘI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG DƯỚI GÓC NHÌN SO
SÁNH GIỮA CÔNG ƯỚC 87 CỦA TỔ CHỨC LAO ĐỘNG QUỐC TẾ VÀ
PHÁP LUẬT VIỆT NAM ....................................................................................... 19
MỘT SỐ GÓC NHÌN VỀ PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG CÓ YẾU TỐ NƯỚC
NGOÀI TẠI VƯƠNG QUỐC ANH VÀ GIÁ TRỊ THAM KHẢO CHO VIỆT
NAM ......................................................................................................................... 29
QUAN HỆ CHO THUÊ LẠI LAO ĐỘNG CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI THEO
PHÁP LUẬT TRUNG QUỐC – MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VIỆT NAM................................................................................................... 38
ÁP DỤNG QUY PHẠM BẮT BUỘC TRONG GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT
PHÁP LUẬT CHO QUAN HỆ LAO ĐỘNG CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI....... 48
XÁC ĐỊNH THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN QUỐC GIA TRONG TRANH
CHẤP HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG HÀNG HẢI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
THEO PHÁP LUẬT CỦA PHÁP & CÔNG ƯỚC BRUSSELS I 2012 VÀ KINH
NGHIỆM CHO VIỆT NAM................................................................................... 54
TƯ PHÁP QUỐC TẾ VỀ HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG GIỮA CÁC CHỦ THỂ
NƯỚC NGOÀI THỰC HIỆN CÔNG VIỆC TẠI PHILIPPINES....................... 61
QUAN HỆ LAO ĐỘNG HÀNG HẢI XUYÊN BIÊN GIỚIDƯỚI GÓC ĐỘ TƯ
PHÁP QUỐC TẾ ..................................................................................................... 66
PHIÊN THỨ HAI: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUAN HỆ LAO ĐỘNG CÓ
YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI............................................................................................ 74
ĐÁNH GIÁ NHỮNG SỬA ĐỔI CỦA BỘ LUẬT LAO ĐỘNG 2019 VỀ HỢP
ĐỒNG LAO ĐỘNG VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM TỪ GÓC
ĐỘ THỰC TIỄN ..................................................................................................... 75
QUẢN LÝ NGƯỜI LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI KHÔNG CÓ GIẤY PHÉP
LAO ĐỘNG TẠI VIỆT NAM ................................................................................ 83
QUY ĐỊNH VỀ LAO ĐỘNG CƯỠNG BỨC THEO PHÁP LUẬT QUỐC TẾ THỰC TIỄN PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM ....... 89
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG NGƯỜI NƯỚC
NGOÀI LÀM VIỆC Ở VIỆT NAM THEO HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG LAO
ĐỘNG – MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN .............................. 100
3
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm gần đây, số lượng lao động người nước ngoài tại Việt Nam
cũng như số lượng người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài không ngừng gia
tăng đòi hỏi phải có khung pháp lý phù hợp để điều chỉnh. Theo số liệu thống kê, đến
tháng 3/2020 cả nước có cả nước có hơn 68.500 lao động nước ngoài đang làm việc tại
Việt Nam, trong đó có 72,9% người đã được cấp giấy phép lao động và xác nhận không
thuộc diện cấp giấy phép lao động (94.005 người). Trong số lao động nước ngoài đang
làm việc ở Việt Nam có 15.310 lao động Trung Quốc, 23.581 lao động Hàn Quốc và
29.630 lao động đến từ các quốc gia và vùng lãnh thổ khác. Năm 2020, mặc dù ảnh
hưởng của dịch bệnh Covid-19 nhưng số lượng người lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài cũng chiếm số lượng khá lớn là 78.641 lao động, chủ yếu là các thị trường
như Nhật bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Rumani, Trung Quốc, Singapore…
Nhằm cung cấp những quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này và phục
vụ nhu cầu giảng dạy, khoa Luật Quốc Tế tổ chức hội thảo cấp khoa với đề tài: “ Quan
hệ lao động có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam và Pháp luật một số quốc
gia” với mục tiêu đích nghiên cứu quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật các
nước trong việc điều chỉnh các quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài, tìm hiểu thực
trạng áp dụng các quy định này trong các quan hệ lao động trên thực tiễn. Hội thảo cũng
đồng thời là dịp để các chuyên gia hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực này chia sẻ kinh
nghiệm trong việc giải quyết các quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài.
4
CHƯƠNG TRÌNH HỘI THẢO
STT
TÊN THAM LUẬN
TÁC GIẢ
Thời gian
- GIỚI THIỆU HỘI THẢO
1.
8h - 8h10
- GIỚI THIỆU KHÁCH MỜI
PHÁT BIỂU KHAI MẠC
PGS.TS Trần Việt Dũng
2.
3.
GIỚI THIỆU BAN CHỦ TOẠ VÀ BAN - PGS.TS. Trần Việt Dũng –
CHỦ TOẠ ĐIỀU HÀNH HT
Trưởng Khoa Luật Quốc tế
trường ĐH. Luật TP. HCM
- PGS.TS. Trần Việt Dũng – Trưởng
Khoa Luật Quốc tế trường ĐH. Luật TP. - TS. Phan Hoài Nam – Phó
HCM
Trường Khoa Luật Quốc tế
trường ĐH. Luật TP.HCM
- TS. Phan Hoài Nam – Phó Trưởng Khoa
Luật Quốc tế trường ĐH. Luật TP.HCM -Ths. Nguyễn Lê Hoài
8h10 – 8h20
8h20 – 8h30
- Ths. Nguyễn Lê Hoài
Phiên thứ nhất: Pháp luật quốc tế và một số quốc gia về lao động có yếu tố nước ngoài
1.
Tham luận “Quan hệ lao động có yếu tố Ts. Phan Hoài Nam – Phó
nước ngoài dưới góc nhìn của Tư pháp quốc Trưởng Khoa Luật quốc tế
tế”
8h30-8h45
2.
Tham luận “Quyền tự do hiệp hội của người Ths. Võ Hưng Đạt
lao động dưới góc nhìn so sánh giữa Công
ước 87 của Tổ chức lao động quốc tế và Việt Giảng viên Khoa Luật quốc tế
Nam”
8h45-9h00
3.
Tham luận “Một số góc nhìn về pháp luật lao
động có yếu tố nước ngoài tại Vương quốc Ths. Lê Xuân Tùng
Anh và giá trị tham khảo cho Việt Nam”
9h00-9h15
5
Viện Khoa học pháp lý – Bộ
tư pháp
ThS. Luật sư tập sự.Đặng
Ngọc Mỹ Tiên
EP legal
4.
Tham luận “Quan hệ cho thuê lại lao động Ths. Nguyễn Thị Kim
có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Trung Duyên
Quốc – Một số kiến nghị hoàn thiện pháp
luật Việt Nam”
Giảng viên Khoa Luật quốc tế
9h15-9h30
Thảo luận
9h30-10h
Giải lao
10h-10h15
Phiên thứ 2: Pháp luật Việt Nam về quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài
Ths. GVC Nguyễn Thị Yên
5.
Phó trưởng Bộ môn – phụ
Tham luận “Đánh giá những sửa đổi của trách Bộ môn Luật Quốc tế
BLLĐ 2019 về hợp đồng lao động đối với trường Đại học Văn Lang
người nước ngoài tại Việt Nam dưới góc độ
thực tiễn”
Ths. Lê Hồ Trung Hiếu
10h15-10h30
Giảng viên Khoa Luật trường
Đại học Văn Lang
Ths. Nguyễn Đào Phương
Thuý
6.
Tham luận “Quản lý người lao động nước
ngoài không có giấy phép lao động tại Việt Giảng viên Khoa Luật Quốc
Nam”
tế
10h30-10h45
Ths. Nguyễn Phương Ân
6
Giảng viên Khoa Luật Dân sự
Luật sư Nguyễn Thị Minh
Tham luận “Thủ tục xin giấy phép lao động Khoa
cho người lao động nước ngoài tại Việt
Nam”
Giám đốc công ty Luật TNHH
K&Associates
7.
10h45-11h
Ths. Đào Thị Vui
Giảng viên Khoa Luật Quốc
Tham luận “Quy định về lao động cưỡng tế
bức theo pháp luật quốc tế - Thực tiễn pháp
luật và một số kiến nghị cho Việt Nam”
Ths. Nguyễn Phan Vân Anh
8.
11h – 11h15
Giảng viên Khoa Luật Quốc
tế
Thảo luận
11h15-11h45
9.
Phát biểu tổng kết hội thảo
TS. Phan Hoài Nam
7
PHIÊN THỨ NHẤT: PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
VÀ MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ LAO ĐỘNG CÓ
YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
8
QUAN HỆ LAO ĐỘNG CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI DƯỚI GÓC NHÌN CỦA
TƯ PHÁP QUỐC TẾ
Phan Hoài Nam1
1. Đặt vấn đề
Hiện nay, quá trình toàn cầu hoá và sự bùng nổ của các FTA thế hệ mới, với
nhiều cam kết sâu, rộng, toàn diện, chặt chẽ hơn về lĩnh vực lao động, đặc biệt là tự do
lao động, khiến cho quá trình dịch chuyển lao động được thực hiện một cách tương đối
dễ dàng nhằm hướng đến bảo vệ quyền công dân, tạo việc làm và cơ hội phát triển bền
vững2. Điều này kéo theo sự phức tạp trong quá trình giải quyết các vấn đề có liên quan,
đặc biệt là các tranh chấp lao động xuyên biên giới – quan hệ lao động có yếu tố nước
ngoài được điều chỉnh bằng ngành luật tư pháp quốc tế.
Dưới góc nhìn của tư pháp quốc tế, nhiều vấn đề pháp lý có liên quan vẫn còn có
những tồn tại và bất cập, thiếu sự nhất quán trong cách hiểu. Điều này dẫn đến những
khó khăn trong quá trình thực thi và đặt ra những gọi mở cho các hướng nghiên cứu
khác nhau dựa trên nền tảng lý luận, thực tiễn lẫn kinh nghiệm của các nước về vấn đề
này.
2. Khái quát về quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài trong tư pháp quốc tế
Quan hệ lao động trong tư pháp quốc tế được hiểu đơn giản là quan hệ lao động
có yếu tố nước ngoài. Tương tự như các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài khác tại
Việt Nam hiện nay (trừ quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài), yếu tố nước
ngoài sẽ được xác định dựa vào các dấu hiệu được quy định tại khoản 2, Điều 663 BLDS
năm 2015 về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Tức là sẽ căn cứ dựa trên các dấu
hiệu: (i) về chủ thể, khi có ít nhất một trong các bên tham gia quan hệ lao động là cá
nhân, pháp nhân nước ngoài; (ii). về sự kiện pháp lý, quan hệ lao động phát sinh giữa
cá nhân, pháp nhân Việt Nam với nhau nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, thực hiện
hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài; (iii). và dấu hiệu về đối tượng, đối
tượng của quan hệ lao động, tức là công việc được thực hiện ở nước ngoài.
Khi quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài phát sinh sẽ làm xuất hiện hiện tượng
xung đột pháp luật với khả năng có hai hay nhiều hệ thống pháp luật có nội dung khác
nhau cùng có thể điều chỉnh cho quan hệ lao động đó. Bởi lẽ đối với nhóm quan hệ này,
pháp luật hầu hết các nước, trong đó có Việt Nam đều chấp nhận khả năng có thể áp
dụng pháp luật nước ngoài, hay rộng hơn là pháp luật không phải là pháp luật nội địa
Giảng viên Khoa Luật Quốc tế, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Vân Hà và một số tác giả (2021), Các cam kết lao động trong Hiệp định thương mại tự do Việt Nam –
Liên minh châu Âu, Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 6/2021. Nguồn: https://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinhdoanh/cac-cam-ket-lao-dong-trong-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-viet-nam-lien-minh-chau-au-335481.html (truy
cập ngày 01/1/2022).
1
2
9
của quốc gia mình.
Khi xung đột pháp luật xuất hiện, vấn đề giải quyết xung đột pháp luật được đặt
ra. Đây được xem là nhiệm vụ quan trọng của tư pháp quốc tế khi giải quyết quan hệ lao
động có yếu tố nước ngoài. Để giải quyết hiện tượng này, pháp luật quốc gia và quốc tế
thường sử dụng hai phương pháp chủ yếu, đó là phương pháp xây dựng và áp dụng các
quy phạm thực chất và phương pháp xây dựng và áp dụng các quy phạm xung đột. Tuy
nhiên, khi xây dựng thành các nguyên tắc cụ thể cho việc giải quyết hiện tượng xung
đột thì hai phương pháp này lại được sử dụng khác nhau theo pháp luật các nước và
pháp luật quốc tế.
Liên quan đến vấn đề xác định thẩm quyền, nhiệm vụ của Tư pháp quốc tế chỉ
phát sinh đối với vấn đề xác định thẩm quyền của Toà án Việt Nam đối với các tranh
chấp lao động có yếu tố nước ngoài và thẩm quyền của Toà án Việt Nam cho việc công
nhận và cho thi hành trên lãnh thổ Việt Nam bản án, quyết định về lao động có yếu tố
nước ngoài.
Về vấn đề xác định thẩm quyền cho việc giải quyết vụ việc lao động có yếu tố
nước ngoài, khi quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài phát sinh sẽ làm xuất hiện khả
năng toà án của hai hay nhiều quốc gia cùng có thẩm quyền để giải quyết cho quan hệ
lao động đó. Tuy nhiên, dưới góc độ nhiệm vụ của Tư pháp quốc tế liên quan đến vấn
đề giải quyết hiện tượng xung đột thẩm quyền chỉ dừng lại nội dung về việc xác định
Toà án quốc gia có thẩm quyền để giải quyết cho các quan hệ này khi có tranh chấp hoặc
yêu cầu hay không. Thẩm quyền của Toà án quốc gia sẽ được xác định dựa trên căn cứ
quy định trong các Điều ước quốc tế có liên quan hoặc trong pháp luật tố tụng của quốc
gia. Pháp luật tố tụng của Việt Nam quy định về vấn đề này được thể hiện tại Phần thứ
tám của BLTTDS năm 2015.
Về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định lao động có yếu tố nước ngoài,
thẩm quyền của Toà án Việt Nam sẽ phát sinh theo các quy định tại Chương XXXVI
của BLTTDS 2015. Nội dung này cũng đã được nghiên cứu một cách chung nhất cho
vấn đề công nhận và cho thi hành đối với bản án, quyết định dân sự của Toà án nước
ngoài tại Chương VII của tài liệu này. Vì theo pháp luật Việt Nam, vấn đề công nhận và
cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài tại Việt Nam được điều
chỉnh chung bằng các quy định tại Chương XXXVI, không tách thành việc công nhận
và cho thi hành từng lĩnh vực pháp luật độc lập.
2. Một số vấn đề pháp lý đặt ra đối với quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài
trong tư pháp quốc tế Việt Nam hiện nay
2.1. Đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế
Tại Việt Nam, hiện nay chưa có một quy định cụ thể về khái niệm quan hệ lao
động có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, có thể tìm thấy quy định gián tiếp về những loại
quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài được pháp luật Việt Nam điều chỉnh theo quy
định tại Mục 3, Chương XI của Bộ luật Lao động 2012, sửa đổi bổ sung năm 2015, 2018
và từ ngày 01/01/2021 là Mục 3, Chương XI của Bộ luật Lao động 2019. Theo đó, pháp
luật lao động của Việt Nam sẽ điều chỉnh các quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài
10
dưới các hình thức người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, lao động cho các
tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam, lao động là người nước ngoài làm việc tại
Việt Nam. Như vậy, với quy định này cho thấy, quan điểm xác định yếu tố nước ngoài
cho quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật
Việt Nam được dựa trên dấu hiệu quốc tịch của người lao động. Bên cạnh đó, với cách
liệt kê như cách làm của BLLĐ qua các thời kỳ, có thể dễ gây nhầm lẫn quan hệ lao
động có yếu tố nước ngoài sẽ chỉ bao gồm 03 nhóm quan hệ hợp đồng lao động có yếu
tố nước ngoài như cách trình bày tại Mục 3 của Chương XI.
Như đã trình bày ở trên, do không có khái niệm độc lập về quan hệ lao động có
yếu tố nước ngoài trong BLLĐ lẫn các văn bản hướng dẫn nên nội dung này sẽ được
xác định căn cứ vào BLDS 2015. Theo đó, yếu tố nước ngoài trong quan hệ lao động có
yếu tố nước ngoài cũng có thể được xác định dựa trên các dấu hiệu được quy định tại
khoản 2, Điều 663 BLDS năm 2015 về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên,
nghiên cứu một số văn bản có điều chỉnh về nội dung này thì có thể nhận thấy một số
vấn đề pháp lý cần được lý giải và làm sáng tỏ. Cụ thể:
(i). Quan hệ lao động
Theo quy định tại khoản 5 Điều 3 BLLĐ 2019, quan hệ lao động được xác định
là quan hệ xã hội phát sinh trong việc thuê mướn, sử dụng lao động, trả lương giữa người
lao động, người sử dụng lao động, các tổ chức đại diện của các bên, cơ quan nhà nước
có thẩm quyền. Quan hệ lao động bao gồm quan hệ lao động cá nhân và quan hệ lao
động tập thể. Tuy nhiên, trong BLDS 2015 chỉ có quy định về vấn đề giải quyết xung
đột pháp luật trong lĩnh vực lao động liên quan đến hợp đồng lao động tại Điều 683
BLDS 2015, tức là thuộc nhóm quan hệ lao động cá nhân. Vậy quan hệ lao động tập thể
có yếu tố nước ngoài sẽ được điều chỉnh bằng quy phạm xung đột nào? Ngoải ra, BLLĐ
2019 còn mở rộng đối tượng điều chỉnh liên quan đến đối tượng chủ thể là người làm
việc không có quan hệ lao động3. Cũng tương tự như quan hệ lao động tập thể, nhóm
quan hệ liên quan đến đối tượng chủ thể này cũng không có quy phạm xung đột riêng
để điều chỉnh.
Vì không có điều khoản riêng để điều chỉnh nên có thể vận dụng khoản 3 Điều
664 BLDS 2015 để xác định pháp luật áp dụng cho nhóm quan hệ này khi có yếu tố
nước ngoài phát sinh đó chính là dùng pháp luật có mối liên hệ gắn bó nhất nếu không
có điều ước quốc tế có liên quan hoặc các bên không có thoả thuận lựa chọn pháp luật
áp dụng nếu điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc pháp luật Việt Nam cho
phép lựa chọn. Tuy nhiên, khi nghiên cứu tổng thể các quy định có liên quan trong
BLLĐ lẫn các văn bản hướng dẫn thi hành và kể cả BLDS 2015 thì không thấy đề cập
đến quyền thoả thuận lựa chọn pháp luật áp dụng cho quan hệ lao động tập thể.
Nghiên cứu pháp luật EU, theo mục (34) lời nói đầu và Điều 8 Nghị định Rome
I 2008 của EU có đề cập trực tiếp đến lĩnh vực lao động là hợp đồng lao động cá nhân.
Tuy nhiên, Điều 1 của Nghị định này lại không loại trừ việc điều chỉnh đối với quan hệ
lao động tập thể - thoả ước lao động tập thể, do đó, sẽ áp dụng quy định chung về hợp
đồng để điều chỉnh. Cách quy định tương tự cũng tìm thấy tại Bộ luật Tư pháp quốc tế
3
Theo khoản 1 Điều 2 BLLĐ 2019.
11
của Bỉ năm 2004…
Cũng có quan điểm cho rằng, bản chất của thoả ước lao động tập thể cũng là thoả
thuận, nên về lý luận vẫn có thể áp dụng Điều 3 của Nghị định Rome I cho phép các bên
minh thị hoặc ngụ ý về việc lựa chọn pháp luật áp dụng cho thoả ước. Tuy nhiên, vẫn
còn tranh cãi về việc quyền lựa chọn pháp luật áp dụng của các bên có thực sự được
chấp nhận trong vấn đề này hay không, vì nó có thể mâu thuẫn với các tác động quy
chuẩn của một số thỏa ước tập thể: thương lượng tập thể được thiết kế để đạt được sự
bình ổn xã hội trong một phạm vi lãnh thổ nhất định, ngành nghề nhất định. Đó là lý do
tại sao thị trường liên quan cần được xác định, không để các bên có cơ hội lựa chọn luật
điều chỉnh và để tránh sự tác động đến trật tự công liên quan đến các vấn đề kinh tế - xã
hội. Cũng có quan điểm cho rằng kể cả trường hợp các bên có thoả thuận lựa chọn pháp
luật áp dụng cho thoả ước thì nó vẫn bị loại trừ theo khoản 3 Điều 3, khi tất cả các yếu
tố có liên quan đến quan hệ này đều toạ lạc trên lãnh thổ của quốc gia khác với quốc gia
có pháp luật được lựa chọn thì sẽ không ngăn cản việc áp dụng pháp luật của quốc gia
này; và khoản 4 Điều 3 liên quan đến trường hợp nếu các yếu tố liên quan đến hợp đồng
tọa lạc tại một hoặc một số quốc gia thành viên của Liên minh Châu Âu nhưng các bên
thỏa thuận chọn một hệ thống pháp luật của quốc gia không phải là thành viên thì thỏa
thuận đó cũng phải đảm bảo không làm ảnh hưởng đến việc áp dụng các quy phạm trong
pháp luật của Cộng đồng.
Trong trường hợp các bên không không có thoả thuận thì sẽ áp dụng quy định tại
Điều 4, mà cụ thể là khoản 4 Điều 4 của Nghị định Rome I 2008, đó chính là pháp luật
có mối liên hệ gắn bó mật thiết nhất với thoả ước. Và thông thường, đó chính là pháp
luật thuộc của quốc gia có phạm vi lãnh thổ áp dụng Thoả ước, bỏi đó là nơi mà hầu hết
các yếu tố của quan hệ này được thực hiện. Ngoài ra, một số yếu tố khác cũng có thể
được cân nhắc như nơi cư trú thường xuyên hoặc nơi mà các bên mang quốc tịch, luật
áp dụng cho quan hệ hợp đồng lao động cá nhân, ngôn ngữ của thoả thuận…4
(ii). Chủ thể có yếu tố nước ngoài
Chủ thể của quan hệ lao động có YTNN căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 2
Điều 663 BLDS 2015 được xác định bao gồm cá nhân nước ngoài và pháp nhân nước
ngoài. Cách hiểu về khái niệm cá nhân nước ngoài được xác định theo quy định khoản
5 Điều 3 Luật Quốc tịch 2008, Khoản 1 Điều 3 Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh,
cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam 2014, quy định rằng: Người nước ngoài được
hiểu là người mang quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch. Cũng theo quy định
của Luật Quốc tịch 2008, “quốc tịch nước ngoài” là quốc tịch của nước khác không phải
quốc tịch Việt Nam, “người không quốc tịch” là người không có quốc tịch Việt Nam
cũng không có quốc tịch nước ngoài. Điều này có thể hiểu rằng, người lao động nước
ngoài làm việc tại Việt Nam trước hết họ phải là người nước ngoài và làm việc tại Việt
Nam. Tức là họ có thể là người mang quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch
làm việc tại Việt Nam
Tuy nhiên, theo quy định của Nghị định 152/2020/NĐ-CP quy định về người lao
4
Nguồn: https://lawexplores.com/collective-labour-relations-and-private-international-law/#Fn129 (truy cập ngày
4/1/2022).
12
động nước ngoài làm việc tại Việt Nam và tuyển dụng, quản lý người lao động Việt
Nam làm việc cho tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam thì lao động nước ngoài
làm việc tại Việt Nam có 02 loại theo quy định tại tại khoản 1 và khoản 4 Điều 2 của
Nghị định này. Đó là các trường hợp: (i). Lao động là công dân nước ngoài vào làm việc
tại Việt Nam theo các hình thức: Thực hiện hợp đồng lao động; Di chuyển trong nội bộ
doanh nghiệp; Thực hiện các loại hợp đồng hoặc thỏa thuận về kinh tế, thương mại, tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm, khoa học kỹ thuật, văn hóa, thể thao, giáo dục, giáo dục
nghề nghiệp và y tế; Nhà cung cấp dịch vụ theo hợp đồng; Chào bán dịch vụ; Làm việc
cho tổ chức phi chính phủ nước ngoài, tổ chức quốc tế tại Việt Nam được phép hoạt
động theo quy định của pháp luật Việt Nam; Tình nguyện viên; Người chịu trách nhiệm
thành lập hiện diện thương mại; Nhà quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia, lao động
kỹ thuật; Tham gia thực hiện các gói thầu, dự án tại Việt Nam; Thân nhân thành viên
cơ quan đại diện nước ngoài tại Việt Nam được phép làm việc tại Việt Nam theo quy
định tại điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;
(ii). Cá nhân nước ngoài tại Việt Nam là người nước ngoài làm việc tại tổ chức quy định
tại khoản 3 Điều 25 của Nghị định hoặc người được cơ quan có thẩm quyền của Việt
Nam cho phép cư trú tại Việt Nam.
Như vậy, với trường hợp thứ nhất phải là công dân nước ngoài, không phải là
người nước ngoài nói chung để có thể bao gồm thêm chủ thể là người không quốc tịch,
trong khi với trường hợp thứ (ii) được mở rộng đối tượng chủ thể là người nước ngoài,
bao gồm công dân nước ngoài và cả người không quốc tịch. Vậy với người không quốc
tịch làm việc tại Việt Nam dưới các hình thức được liệt kê từ điểm a đến điểm l của
Khoản 1 Điều 2 của Nghị định 152 thì không thuộc đối tượng điều chỉnh của Nghị định
này mà sẽ được điều chỉnh chung bởi quy định của BLLĐ 2019 như cách xác định đối
tượng áp dụng của Bộ luật tại khoản 3 Điều 2. Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều 151 của Đạo
luật này lại quy định người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam là người có quốc
tịch nước ngoài. Vậy suy ra BLLĐ 2019 có thể được sử dụng để điều chỉnh cho quan hệ
lao động có YTNN phát sinh đối với trường hợp người không quốc tịch giao kết và làm
việc tại Việt Nam hay không?
Dưới góc độ tư pháp quốc tế, chủ thể là người không quốc tịch khi giao kết hợp
đồng làm việc tại Việt Nam vẫn thoả mãn các dấu hiệu để xác định là quan hệ lao động
có YTNN và thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế Việt Nam. Trên thực tế số
lượng lao động là người không quốc tịch tại Việt Nam tương đối khá nhiều, xuất phát
từ người gốc Việt Nam đi định cư tại các nước, đặc biệt là các nước láng giềng rồi sau
đó quay về Việt Nam nhưng không có bất kỳ giấy tờ gì để chứng minh quốc tịch nước
ngoài hay có gốc Việt Nam để xin nhập tịch lại Việt Nam. Khi dựa trên các nguyên tắc
của tư pháp quốc tế để xác định pháp luật áp dụng, có thể dẫn chiếu đến pháp luật Việt
Nam để giải quyết cho quan hệ lao động đó. Khi đó, nguồn luật nào sẽ được áp dụng?
Tổ chức nước ngoài tại Việt Nam là cơ quan, tổ chức nước ngoài được cấp có thẩm quyền của Việt Nam cho
phép hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, bao gồm: a) Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự nước ngoài, cơ
quan đại diện các tổ chức quốc tế thuộc hệ thống Liên hợp quốc, các tổ chức khu vực, tiểu khu vực; b) Văn phòng
thường trú cơ quan thông tấn, báo chí, phát thanh và truyền hình nước ngoài; c) Tổ chức quốc tế, tổ chức liên
Chính phủ, tổ chức thuộc Chính phủ nước ngoài; d) Tổ chức phi chính phủ nước ngoài được cơ quan có thẩm
quyền của Việt Nam cấp giấy đăng ký theo quy định của pháp luật; đ) Văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ
chức nước ngoài hoạt động trong các lĩnh vực: kinh tế, thương mại, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, khoa học - kỹ
thuật, văn hóa, giáo dục, y tế, tư vấn pháp luật nước ngoài.
5
13
BLLĐ 2019 lẫn Nghị định 152 đều đã trực tiếp hoặc gián tiếp loại trừ khả năng áp dụng
cho đối tượng chủ thể này trong quan hệ lao động.
Như vậy, với những phác thảo cơ bản về một số vấn đề pháp lý đặt ra hiện nay
đối với quy định của pháp luật Việt Nam về căn cứ xác định đối tượng điều chỉnh của
tư pháp quốc tế trong lĩnh vực lao động cho thấy cũng còn có khá nhiều bất cập, một số
quy định chưa rõ ràng. Đây được xem là những vấn đề có tính gợi mở cho việc nghiên
cứu chuyên sâu và tìm kiếm kinh nghiệm từ các nước.
2.2. Xác định pháp luật áp dụng
Vấn đề xác định pháp luật áp dụng cho quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài,
như đã đề cập ở trên, sẽ căn cứ dựa vào quy định tại Điều 683 BLDS 2015. Theo đó,
các bên trong quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài, mà cụ thể là hợp đồng lao động
sẽ được quyền thoả thuận lựa chọn pháp luật áp dụng theo quy định tại khoản 1 Điều
này. Tuy nhiên, quyền thoả thuận lựa chọn pháp luật áp dụng sẽ bị giới hạn bởi quy định
tại khoản 5 liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi tối thiểu của người lao động và khoản 6
liên quan đến vấn đề thay đổi pháp luật được lựa chọn nếu ảnh hưởng đến lợi ích của
bên thứ ba.
Nếu các bên không có thoả thuận, thì sẽ áp dụng pháp luật có mối liên hệ gắn bó
nhất theo sự giả định của nhà làm luật là pháp luật của nước nơi người lao động thường
xuyên thực hiện công việc đối với hợp đồng lao động. Nếu người lao động thường xuyên
thực hiện công việc tại nhiều nước khác nhau hoặc không xác định được nơi người lao
động thường xuyên thực hiện công việc thì pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó
nhất với hợp đồng lao động là pháp luật của nước nơi người sử dụng lao động cư trú đối
với cá nhân hoặc thành lập đối với pháp nhân. Tuy nhiên, trong trường hợp xác định có
sự tồn tại có nguồn luật có mối liên hệ gắn bó hơn so với nguồn luật được xác định ở
trên thì sẽ áp dụng nguồn luật có mối liên hệ gắn bó hơn đó. Riêng đối với vấn đề hình
thức của hợp đồng lao động sẽ áp dụng quy định tại khoản 7 Điều 6836.
Từ nội dung về giải quyết xung đột pháp luật được đề cập, có thể thấy còn nhiều
vấn đề chưa rõ và cần phải được hướng dẫn một cách chi tiết nhằm đảm bảo cho sự hiểu
và áp dụng thống nhất các vấn đề có liên quan. Cụ thể đó là pháp luật được lựa chọn có
thể bị loại trừ áp dụng bởi các quy phạm có tính bắt buộc cho các hợp đồng lao động
nói chung lẫn hợp đồng lao động có yếu tố nước ngoài hay không? Ví dụ như quy định
về hình thức của hợp đồng lao động tại Điều 14 BLLĐ 2019, khoản 2 Điều 112 về ngày
nghỉ lễ, tết của người nước ngoài…; căn cứ nào để xác định pháp luật áp dụng là pháp
luật có mối liên hệ gắn bó hơn?; quy định tại khoản 7 về hình thức hợp đồng lao động
có bị ràng buộc bởi quy định bắt buộc trong BLLĐ 2019 về hình thức bằng văn bản của
hợp đồng lao động? Đây có được xem là nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam hay
không để từ đó có thể sử dụng quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 670 BLDS 2015?.
Những vấn đề này được xác định là chưa rõ câu trả lời lẫn hướng giải quyết cụ
Hình thức của hợp đồng được xác định theo pháp luật áp dụng đối với hợp đồng đó. Trường hợp hình thức của
hợp đồng không phù hợp với hình thức hợp đồng theo pháp luật áp dụng đối với hợp đồng đó, nhưng phù hợp với
hình thức hợp đồng theo pháp luật của nước nơi giao kết hợp đồng hoặc pháp luật Việt Nam thì hình thức hợp
đồng đó được công nhận tại Việt Nam
6
14
thể trong tư pháp quốc tế hiện nay, đặc biệt là việc áp dụng các quy phạm bắt buộc –
mandatory provision (rule). Trong việc giải quyết hiện tượng xung đột pháp luật đối với
quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài, pháp luật các nước thường dựa trên hai phương
pháp để giải quyết vấn đề xung đột pháp luật đối với quan hệ lao động có yếu tố nước
ngoài: phương pháp thực chất và phương pháp xung đột. Trong đó, việc xây dựng và áp
dụng các quy phạm thực chất theo pháp luật các nước khác nhau là có sự khác biệt dựa
trên đặc điểm riêng của thị trường lao động, bao gồm nhu cầu xuất khẩu lao động và
nhu cầu tiếp nhận lao động nước ngoài của quốc gia đó.
Chẳng hạn như đối với các quốc gia đang và kém phát triển, thông thường các
quy phạm thực chất được xây dựng để điều chỉnh các quan hệ lao động có yếu tố nước
ngoài thường ràng buộc chặt chẽ đối với người lao động nước ngoài làm việc trên lãnh
thổ của quốc gia mình. Điều này xuất phát từ vấn đề không khuyến khích vấn đề nhập
khẩu lao động nước ngoài cũng như vấn đề nhập khẩu lao động nước ngoài sẽ có tác
động rất lớn đối với các vấn đề xã hội khác như vấn đề cư trú, kết hôn, sở hữu, đi lại…
Ví dụ như Đạo luật về nhập cư của Thái Lan năm 1979 quy định các vấn đề về giấy
phép lao động như là một trong những điều kiện để được nhập cư vào lãnh thổ Thái Lan
hoặc điều kiện ưu tiên dành cho lao động nước ngoài nhập cư bất hợp pháp vẫn được ở
lại Thái Lan với những trường hợp đặc biệt được quy định tại Điều 17 của Đạo luật này.
Với góc nhìn về tính chất đặc biệt của lĩnh vực lao động có tính xuyên biên giới này mà
tư pháp quốc tế đều có quy định khá nhiều quy phạm mang tính bắt buộc trong pháp luật
nội địa về vấn đề này và giá trị ràng buộc bắt buộc của nó sẽ được dẫn chiếu từ quy định
trong các đạo luật có liên quan đến tư pháp quốc tế về việc áp dụng bắt buộc các quy
phạm loại này. Ví dụ như quy định tại Điều 9 Nghị định Rome I 2008 của EU, Điều 20
Đạo luật về tư pháp quốc tế của Bỉ năm 2004…
Một vụ việc điển hình cho vấn đề áp dụng quy định bắt buộc trong pháp luật lao động
nội địa là trong vụ Nervion7. Toà án Thuỵ Điển đã áp dụng pháp luật Panama để tuyên
thoả ước lao động tập thể là vô hiệu vì hành động đằng sao thoả ước là bất hợp pháp.
Tuy nhiên, nếu căn cứ theo pháp luật Thuỵ Điển thì hành động đó là hợp pháp và được
chấp nhận. Từ phán quyết gây chỉ trích của Toà án Thuỵ Điển, một quy định mang tính
bắt buộc trong pháp luật lao động của Thuỵ Điển ra đời đó là nếu căn cứ theo luật áp
dụng cho thoả ước khiến cho thoả ước bị vô hiệu nhưng căn cứ theo luật Thuỵ Điển nó
vẫn có hiệu lực thì thoả ước đó vẫn được công nhận giá trị hiệu lực tại Thuỵ Điển.
2.3. Xác định thẩm quyền của Toà án Việt Nam
Thẩm quyền của Toà án Việt Nam đối với các vụ việc lao động có yếu tố nước ngoài sẽ
được xác định dựa trên điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Nếu không có điều
ước quốc tế điều chỉnh, việc xác định thẩm quyền sẽ căn cứ vào Bộ luật tố tụng dân sự
2015. BLTTDS 2015 phân chia làm hai trường hợp xác định thẩm quyền là thẩm quyền
riêng biệt tại Điều 470 và thẩm quyền chung tại Điều 469.
Về thẩm quyền riêng biệt, nghiên cứu các quy định tại Điều 470 cho thấy khả năng để
Toà án Việt Nam có thể phát sinh thẩm quyền riêng biệt cho các vụ án lao động có yếu
7
Laura Carballo Piñeiro (2015), International Maritime Labour Law, NXB. Springer, tr.263.
15
tố nước ngoài khi các bên trong quan hệ lao động đó có thoả thuận lựa chọn Toà án Việt
Nam để giải quyết khi có tranh chấp xảy ra. Tuy nhiên, với điều kiện, điều ước quốc tế
mà Việt Nam là thành viên hoặc pháp luật Việt Nam cho phép lựa chọn và các bên đồng
ý lựa chọn. Thống kê các quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên, mà cụ thể là các hiệp định tương trợ tư pháp cho thấy không có bất kỳ quy định
nào cho phép các bên trong quan hệ hợp đồng lao động được quyền lựa chọn Toà án.
BLLĐ lẫn các văn bản hướng dẫn thi hành cũng thiếu vắng quy định cho phép lựa chọn
Toà án mà chỉ có quy định về thẩm quyền của Toà án nhân dân cho việc giải quyết tranh
chấp lao động cá nhân tại khoản 3 Điều 187 và tranh chấp lao động tập thể về quyền tại
điểm c, khoản 1 Điều 191 BLLĐ 2019.
Theo đó, các quy định về thẩm quyền chung tại khoản 1 Điều 469 sẽ được áp dụng.
Theo đó, ngoại trừ quy định đặc thù cho vấn đề ly hôn tại điểm d, các điều khoản còn
lại của khoản 1 Điều 469 BLTTDS 2015 đều có khả năng được sử dụng để xác định
thẩm quyền của Toà án Việt Nam đối với các vụ việc về lao động có yếu tố nước ngoài.
Từ những quy định về xác định thẩm quyền của Toà án Việt Nam kể trên cho thấy vẫn
còn phát sinh một số vấn đề cần phải được làm rõ, đó là quyền lựa chọn Toà án Việt
Nam và mở rộng là Toà án nước ngoài cho việc giải quyết các tranh chấp lao động có
yếu tố nước ngoài; nếu chấp nhận quyền này, vấn đề nội hàm "các bên đồng ý lựa chọn"
sẽ được hiểu như thế nào, một sự ngụ ý bằng một điều khoản, nội dung có tính ngụ ý
nào đó hoặc thậm chí là ý chí được xác định chung ở giai đoạn giao kết hợp đồng có
được xem là một sự "đồng ý" của các bên trong tranh chấp lao động có yếu tố nước
ngoài hay không?
2.4. Công nhận và cho thi hành
Tại Việt Nam, vấn đề công nhận và cho thi hành đối với các bản án, quyết định dân sự
của Toà án nước ngoài được quy định chung tại chương XXXVI, không phân biệt các
loại bản án, quyết định trong từng lĩnh vực pháp luật cụ thể. Theo đó, tại khoản 1 Điều
423 quy định các bản án, quyết định về lao động của Tòa án nước ngoài sẽ được xem
xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam là những bản án, quyết định được quy định
tại điều ước quốc tế mà nước đó và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;
Bản án, quyết định về lao động; của Tòa án nước ngoài mà nước đó và Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam chưa cùng là thành viên của điều ước quốc tế có quy định về công
nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài trên cơ sở nguyên tắc
có đi có lại.
Về vấn đề công nhận và cho thi hành đối với phán quyết của trọng tài liên quan đến các
tranh chấp lao động có tính xuyên biên giới, một câu hỏi đặt ra là hiện nay một số quốc
gia cho phép sử dụng phương thức giải quyết tranh chấp lao động bằng trọng tài như là
một trong những phương thức giải quyết tranh chấp thay thế - ADR khá hiệu quả. Ví dụ
như Trung Quốc, trước năm 2007, quốc gia này đã vận hành một hệ thống giải quyết
tranh chấp khá giống với Việt Nam. Tuy nhiên, sau khi các tranh chấp lao động lan rộng,
đặc biệt là trong lĩnh vực xây dựng, quốc gia này đã cải cách mạnh mẽ hệ thống giải
quyết tranh chấp lao động cá nhân, trong đó có phương thức trọng tài với những quyền
16
hạn ràng buộc về pháp lý89. Hoặc ví dụ như tại Hoa Kỳ, phương thức trọng tài trước đây
chỉ mới được thừa nhận ở những năm 1980 và được chính thức thừa nhận một cách rộng
rãi bởi Toà án Tối cao Liên bang thông qua vụ Gilmer v Interstate/Johnson-Lane vào
năm 199110, hoặc không mở rộng như ở Hoa Kỳ nhưng một số nước vẫn chấp nhận
trong phạm vi thẩm quyền hạn chế như ở Anh hoặc Hà Lan11…
Như vậy, một câu hỏi lớn đặt ra là liệu rằng, các phán quyết của trọng tài trong trường
hợp này có được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hiện nay hay không?
Lưu ý rằng, điều ước quốc tế đa phương, toàn cầu liên quan đến vấn đề này mà Việt
Nam là thành viên, đó chính là Công ước NewYork 1958, khi Việt Nam tham gia đã
tuyên bố sẽ chỉ áp dụng Công ước đối với tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp luật
thương mại tại Điều 2 Quyết định số 453/QĐ-CTN về việc tham gia Công ước. Ngoài
ra, điểm a, khoản 2 Điều 459 BLTTDS 2015 cũng quy định về trường hợp không công
nhận và cho thi hành phán quyết trọng tại nếu theo pháp luật Việt Nam, vụ tranh chấp
không được giải quyết theo thể thức trọng tài. Điều 2 Luật trọng tài thương mại 2010
cũng khẳng định 03 trường hợp được sử dụng phương thức giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài: Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; Tranh chấp phát
sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; Tranh chấp khác
giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài.
Như vậy, khả năng để có thể được dùng phương thức trọng tài cho việc giải quyết tranh
chấp lao động, được Trọng tài nước ngoài thụ lý và có khả năng công nhận và cho thi
hành tại Việt Nếu pháp luật về lao động có cho phép. Tuy nhiên, khi nghiên cứu BLLĐ
2019 lẫn các văn bản hướng dẫn thi hành thì có đề cập đến cơ quan có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp là trọng tài lao động, song quyết định và phương thức giải quyết tranh
chấp hoàn toàn khác với phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ở khía cạnh
về giá trị cuối cùng và ràng buộc đối với các bên của quyết định. Điều này xuất phát từ
cơ chế khiến cho Hội đồng trọng tài lao động không thực sự có quyền tài phán.
Như vậy, đối với những phán quyết loại này, có thể xếp vào nhóm các bản án, quyết
định dân sự khác của Tòa án nước ngoài được pháp luật Việt Nam quy định công nhận
và cho thi hành theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 423 BLTTDS 2015.
3. Kết luận
Quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài trong tư pháp quốc tế Việt Nam hiện nay vẫn
còn nhiều nội dung chưa rõ trong khung pháp luật điều chỉnh. Những nội dung được đề
cập trong bài viết này chỉ mang tính gợi mở cho các vấn đề. Để có cái nhìn mang tính
rõ ràng và nhất quán hơn đòi hỏi cần phải có thêm các nghiên cứu chuyên sâu, đặc biệt
Xem Điều 47, Điều 48, Điều 49 và Điều 50 Luật Hòa giải và Trọng tài Tranh chấp Lao động 2007 của Trung
Quốc. Nguồn: http://www.npc.gov.cn/zgrdw/englishnpc/Law/2009-02/20/content_1471614.htm (truy cập ngày
04/1/2022).
9
Sean Cooney & Trần Thị Kiều Trang (2012), Giải quyết tranh chấp lao động ở Việt Nam – Báo cáo chẩn đoán
nhanh,
tr.18.
Nguồn:
https://www.ilo.org/wcmsp5/groups/public/---asia/---ro-bangkok/---ilohanoi/documents/publication/wcms_715203.pdf (truy cập ngày 04/1/2022).
10
Gilmer v Interstate/Johnson Lane Corp., 500 U.S. 20 (1991).
11
Rob Jagtenberg & Annie de Roo (2018), Employment Disputes and Arbitration. An Account of irreconcilability,
with reference to the EU and the USA, Zbornik PFZ, 68, (2), tr.179.
8
17
là kinh nghiệm của các nước cùng là thành viên với Việt Nam trong các FTA thế hệ
mới.
18
QUYỀN TỰ DO HIỆP HỘI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG DƯỚI GÓC NHÌN SO
SÁNH GIỮA CÔNG ƯỚC 87 CỦA TỔ CHỨC LAO ĐỘNG QUỐC TẾ VÀ
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Võ Hưng Đạt1
Tóm tắt
Bài viết phân tích và so sánh quyền tự do hiệp hội của người lao động theo pháp
luật Việt Nam và Công ước 87 của Tổ chức lao động quốc tế. Thông qua việc so sánh,
tác giả chỉ ra những điểm chưa phù hợp hoặc chưa rõ ràng của pháp luật Việt Nam về
quyền tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp cũng như các quy định về công đoàn
cơ sở. Dựa trên kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện
quy định pháp luật về quyền tự do hiệp hội của người lao động với mục đích gia nhập
Công ước 87.
Từ khóa: Công ước 87 ILO; Quyền tự do hiệp hội; Công đoàn cơ sở; Tổ chức đại
diện người lao động.
Nội dung
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Việt Nam đã tham gia nhiều Điều ước quốc tế về
mậu dịch tự do (FTA), nổi bật gần đây phải kể đến như CPTPP hay EVFTA. Cùng với
những tác động về mặt thương mại - kinh tế, việc thực hiện những cam kết trong các
Hiệp định này còn có những tác động mạnh mẽ đến hệ thống pháp luật của Việt Nam,
trong đó có vấn đề về lao động. Theo các chuyên gia, các vấn đề về lao động ngày càng
hiện diện phổ biến hơn trong các văn bản FTA2. Các FTA thế hệ mới yêu cầu tất cả các
nước tham gia phải thông qua và duy trì các quyền được nêu trong Tuyên bố năm 1998
của Tổ chức Lao động thế giới (ILO). Các quyền này được quy định trong 8 công ước
cơ bản của ILO, với nền tảng là: i) tự do hiệp hội và quyền thương lượng tập thể được
quy định trong Công ước ILO số 87 và 98; ii) Loại bỏ tất cả các hình thức lao động
cưỡng bức hoặc bắt buộc quy định ở Công ước ILO số 29 và 105; iii) Xoá bỏ lao động
trẻ em theo Công ước ILO số 138 và 182; iv) Xóa bỏ phân biệt đối xử trong việc làm và
nghề nghiệp quy định ở Công ước ILO số 100 và 111. Với nỗ lực thực hiện các cam kết
trong FTA, Việt Nam đã thông qua 7/8 Công ước nêu trên. Công ước duy nhất còn lại
là Công ước số 87 về Tự do hiệp hội và bảo vệ quyền được tổ chức (Công ước 87) dự
kiến sẽ được thông qua vào năm 20233.
Quyền tự do hiệp hội của người lao động và người sử dụng lao động được xem là
một mục tiêu quan trọng của ILO và được thể hiện rõ trong Hiến chương của của cơ
quan này4. Điều này tiếp tục được thể hiện trong Tuyên bố của Philadelphia do Hội nghị
Thạc sĩ, Giảng viên Bộ môn Tư pháp quốc tế - Luật So sánh, Khoa Luật Quốc tế, Trường ĐH Luật TP.HCM
Theo thống kê thì khi thành lập WTO vào năm 1995 chỉ có 4 FTA có nội dung về lao động nhưng đến nay đã có
đến 72 FTA có nội dung về vấn đề này, https://trungtamwto.vn/hiep-dinh-khac/13303-yeu-to-lao-dong-trong-cacfta-the-he-moi, truy cập ngày 21/6/2021
3
https://www.ilo.org/hanoi/Areasofwork/international-labour-standards/lang--vi/index.htm, truy cập ngày
22/6/2021
4
Preamble, ILO Constitution.
1
2
19
Lao động Quốc tế năm 1944 đưa ra. Theo đó, Hội nghị tái khẳng định rằng tự do hiệp
hội là quyền thiết yếu để duy trì tiến bộ trong quan hệ lao động và đưa quyền này thành
một phần của chương trình nghị sự5. Quyền tự do hiệp hội còn đóng vai trò quan trọng
trong cơ chế ba bên trong quan hệ lao động6, một trong những trọng tâm của ILO. Nếu
không có tự do hiệp hội, hay nói cách khác, không có các tổ chức được hình thành một
cách tự chủ, độc lập của người sử dụng lao động và người lao động thì nguyên tắc ba
bên sẽ bị suy yếu, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tiến bộ và cân bằng xã hội7. Với bối
cảnh đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu về quyền tự do hiệp hội theo quy định của ILO,
những khó khăn, thách thức khi ký kết và thực thi Công ước là thật sự cần thiết. Tuy
nhiên, do giới hạn về dung lượng, bài viết chỉ đề cập đến quyền tự do hiệp hội của người
lao động, quyền tự do hiệp hội của người sử dụng lao động sẽ được đề cập ở một bài
viết khác.
1. Quyền tự do hiệp hội của người lao động theo Công ước 87
Công ước 87 được xem là Công ước nổi bật và mang tính nền tảng nhất trong số hơn 50
Điều ước, Khuyến nghị của ILO có liên quan đến quyền tự do hiệp hội. Tuy nhiên, khi
đề cập đến quyền tự do hiệp hội theo các tiêu chuẩn của ILO, người ta còn đề cập đến
Công ước 98 về quyền tổ chức và thương lượng tập thể8. Mặc dù có sự độc lập về nội
dung, hai Công ước cơ bản này của ILO được xem là “cặp đôi” quan trọng trong việc
thực thi quyền tự do hiệp hội9. Do đó, trong phạm vi bài viết, ngoài Công ước 87 thì tác
giả còn có thể đề cập đến Công ước 98 khi nói về quyền tự do hiệp hội. Quyền tự do
hiệp hội theo Công ước 87 gồm các nội dung chính sau.
Thứ nhất, Công ước 87 ghi nhận quyền tự do thành lập và tham gia hiệp hội của người
lao động. Cụ thể, người lao động, không phân biệt dưới bất kỳ hình thức nào, có quyền
được thành lập và gia nhập các tổ chức theo sự lựa chọn của mình mà không phải xin
phép trước, với một “điều kiện duy nhất là phải tuân theo điều lệ của chính tổ chức
đó”10. Sự tự do lập hội còn được thể hiện ở việc các tổ chức của người lao động phải
được hưởng sự bảo vệ thích đáng chống lại mọi hành vi can thiệp của bên kia hoặc của
những phái viên hay thành viên của bên kia trong quá trình thành lập, hoạt động hoặc
điều hành hoạt động của mình11. Có nghĩa, theo Công ước thì người lao động và người
sử dụng lao động đều được thành lập tổ chức của mình và không được can thiệp vào
hoạt động của nhau. Tuy nhiên, người lao động là chủ thể có vị thể yếu hơn so với người
sử dụng lao động, do đó, Điều 1 Công ước số 98 có quy định nhằm bảo vệ hơn cho chủ
thể này. Theo đó, người sử dụng lao động không được phân biệt đối xử người lao động
vì lý do họ tham gia thành lập, gia nhập hoặc hoạt động công đoàn hợp pháp. Đồng thời,
người sử dụng lao động cũng không được chi phối hoặc hỗ trợ tổ chức của người lao
5
David A. Morse, ILO Convention (No. 98) Concerning the Application of the Principles of the Right to Organize
and to Bargain Collectively, Industrial and Labor Relations Review, Vol. 3, Issue 3 (April 1950), p. 413
6
Việc thương lượng, giải quyết các vấn đề lao động có sự tham gia của tổ chức đại diện người lao động, người sử
dụng lao động và cơ quan nhà nước.
7
Alberto Odero - Horacio Guido, ILO law on freedom of association: Standards and procedures, International
Labour Office, 1995, Preface.
8
Việt Nam đã phê chuẩn Công ước 98 vào ngày 5/7/2019 và trở thành thành viên thứ 167 của Công ước
9
https://quochoi.vn/UserControls/Publishing/News/BinhLuan/pFormPrint.aspx?UrlListProcess=/content/tintuc/L
ists/News&ItemID=40472, truy cập ngày 20/6/2021
10
Điều 2 Công ước 87
11
Điều 2 Công ước 98
20
- Xem thêm -