ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------
HOÀNG QUỐC CA
QUAN HỆ AN NINH - CHÍNH TRỊ
NHẬT BẢN - MỸ (2001 - 2014)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC
HÀ NỘI - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------
HOÀNG QUỐC CA
QUAN HỆ AN NINH - CHÍNH TRỊ
NHẬT BẢN - MỸ (2001 - 2014)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC
MÃ SỐ: 60310201
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: PGS.TS. PHẠM QUANG MINH
XÁC NHẬN HỌC VIÊN ĐÃ CHỈNH SỬA THEO GÓP Ý CỦA HỘI ĐỒNG
Giáo viên hướng dẫn
Chủ tịch hội đồng chấm luận văn
thạc sĩ khoa học
PGS.TS. Phạm Quang Minh
PGS.TS. Hoàng Khắc Nam
HÀ NỘI - 2016
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG QUAN HỆ AN NINH CHÍNH TRỊ NHẬT BẢN - MỸ (2001 - 2014).......................................... 9
1.1. Nhân tố pháp lý .................................................................................. 9
1.2. Nhân tố thực tiễn................................................................................ 13
1.2.1. Bối cảnh quốc tế .......................................................................... 13
1.2.2. Bối cảnh khu vực châu Á - Thái Bình Dương ........................... 16
1.2.2.1. Sự trỗi dậy của Trung Quốc .................................................. 18
1.2.2.2. Chính sách hướng Đông của Nga ......................................... 20
1.2.2.3. Tình hình an ninh khu vực Đông Á ........................................ 23
1.2.3. Bối cảnh nội tại ............................................................................ 25
1.2.3.1. Chiến lược của Nhật Bản ...................................................... 25
1.2.3.2. Chiến lược của Mỹ ................................................................. 31
1.3. Quan hệ an ninh - chính trị Nhật Bản Mỹ giai đoạn trước
năm 2001 ........................................................................................... 38
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ............................................................................. 43
CHƯƠNG 2. QUAN HỆ NHẬT BẢN - MỸ TRÊN LĨNH VỰC
AN NINH - CHÍNH TRỊ GIAI ĐOẠN 2001 - 2014 ................................. 44
2.1. Khái quát quan hệ an ninh - chính trị Nhật Bản - Mỹ giai đoạn
2001 - 2014 ................................................................................................... 44
2.2. Quan hệ an ninh - chính trị Nhật Bản - Mỹ trên một số lĩnh vực
cụ thể giai đoạn 2001 - 2014 ....................................................................... 51
2.2.1. Vấn đề tranh chấp biển đảo ở Đông Á ....................................... 51
2.2.2. Vấn đề hợp tác xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa .............. 63
2.2.3. Vấn đề các căn cứ quân sự của Mỹ tại Nhật Bản...................... 67
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ............................................................................. 72
CHƯƠNG 3.
AN HỆ AN NINH - CH NH TRỊ NHẬT ẢN - MỸ:
TÁC ĐỘNG VÀ TRIỂN VỌNG TỚI NĂM 2020 ................................... 73
3.1. Những điều chỉnh quan hệ an ninh - chính trị Nhật Bản - Mỹ
trong Định hướng hợp tác quốc phòng mới 2015 .................................... 73
3.2. T
động
a quan hệ an ninh - hính trị Nhật ản - Mỹ đối với
hu vự Ch u Á - Th i
nh ư ng ......................................................... 80
Đối
i
Đối
i ình hình h
Đối
i iệ
3.3. Triển vọng
n hệ hậ Bản -
ỹ .................................................. 80
Á - Thái Bình Dương ........................... 82
.......................................................................... 84
a li n minh Mỹ - Nhật đ n năm 2020 ....................... 87
h ng h ận ợi
an ninh - chính t ị hậ Bản -
h
hăn ch
ỹ đến nă
iệc há
iển
n hệ
0 0 ..................................... 88
3.3.1.1. Về thuận lợi ............................................................................ 88
3.3.1.2. Về thách th c ......................................................................... 89
Dự á
hậ Bản -
iển
ỹ đến nă
ng
n hệ củ
n hệ n ninh - chính ị
0 0 ..................................................................... 93
TIỂ KẾT CHƯƠNG 3 ............................................................................. 97
KẾT L ẬN .................................................................................................. 98
ANH MỤC TÀI LIỆ THAM KHẢO .................................................. 100
DANH MỤC VIẾT TẮT
ADB
ADIZ
ADMM +
AIIB
ANZUS
APEC
ARF
ASDF
ASEAN
ASEM
BMD
CHDCND
CLCS
COC
DOC
DPJ
EU
EAS
EEZ
EAMF
GDP
G7
G8
GSDF
JCG
LDP
MSDF
NATO
NDPG
ODA
RCEP
SSC
SACO
TPP
TIFA
UNCLOS
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
Ngân hàng Phát triển châu Á
Vùng nhận dạng phòng không
n
tr n qu p n
n
n
m m r n
ân àn ầu t Cơ s hạ tầng Châu Á
Kh i hiệp c quân sự Australia - New Zealand - Mỹ
Diễn đàn ợp tác Kinh tế châu Á - T Bìn D ơn
Diễn đàn k u vực n
m
Thế trận lự l ợng phòng không Nhật Bản
Hiệp h i các Qu
n
m
Diễn đàn ợp tác Á - Âu
Hệ th ng phòng thủ tên lử đạn đạo
C ng hòa dân chủ nhân dân
Ủy ban ranh gi i thềm lụ đ a của Liên Hợp Qu c
B quy tắc ứng xử Biển n
Tuyên b của các bên về ứng xử trên Biển n
ảng Dân chủ Nhật Bản
Liên minh châu Âu
H i ngh cấp o n
Vùn đặc quyền kinh tế
Diễn đàn àn ải các qu
n
m m r ng
Tổng sản phẩm qu c n i
Nhóm 7 qu c gia có nền công nghiệp àn đầu thế gi i
Nhóm 7 qu c gia có nền công nghiệp àn đầu thế gi i và Nga
Lự l ợng phòng vệ trên b Nhật Bản
Lự l ợng Cảnh sát biển Nhật Bản
ảng Dân chủ Tự do
Lự l ợng phòng vệ biển Nhật Bản
Tổ chức Hiệp c Bắ ạ Tây D ơn
ờng l i chỉ đạo
ơn trìn qu c phòng Nhật Bản
Hỗ trợ phát triển chính thức
Hiệp đ n
i tác Kinh tế Toàn diện Khu vực
Tiểu ban an ninh Mỹ - Nhật
Ủy n àn đ n đặc biệt về Okinawa
Hiệp đ n
t xuyên T Bìn D ơn
Hiệp đ nh khung về t ơn mạ và ầu t
C n
c Liên Hiệp Qu c về Luật biển
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mặc dù chính sách đối ngoại của Nhật Bản giai đoạn hậu Chiến tranh
lạnh đang cố gắng khẳng định tiếng nói độc lập nhiều hơn nữa với Mỹ trong
các vấn đề an ninh và chính trị quốc tế, nhưng một thực tế không thể phủ
nhận rằng liên minh giữa Mỹ và Nhật Bản luôn là “hòn đá tảng” đảm bảo an
ninh ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Mỹ vẫn là “đồng minh số một”
của Nhật Bản trong khu vực cũng như trên thế giới.
Về lịch sử, liên minh an ninh - chính trị Nhật Bản - Mỹ là di sản của
Chiến tranh lạnh và đang được xem xét điều chỉnh cho phù hợp với bối cảnh
mới. Trước đây, có thời kỳ Liên Xô và Trung Quốc liên minh chống lại Mỹ,
Tây Âu và Nhật Bản; hoặc Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản cân bằng sức mạnh
chống lại ảnh hưởng của Liên Xô. Tuy nhiên, sau Chiến tranh lạnh, một số
liên minh quân sự đã bị giải thể. Những liên minh còn lại, vì lý do này hay lý
do khác, vẫn tồn tại nhưng thay vì đối đầu hoặc liên kết với nước này chống
nước kia trong bối cảnh mới chuyển sang vừa hợp tác vừa đấu tranh trong
điều kiện cùng tồn tại hòa bình, xây dựng các khuôn khổ quan hệ đối tác
mang tính chất chiến lược. Quan hệ an ninh - chính trị Nhật Bản - Mỹ là một
trong những mối quan hệ đang dịch chuyển dần theo xu hướng như vậy đã và
đang đóng một vai trò cốt yếu đối với môi trường an ninh khu vực châu Á Thái Bình Dương. Nghiên cứu quan hệ Nhật Bản - Mỹ giai đoạn 2001 - 2015
tiếp cận từ khía cạnh an ninh và chính trị là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn sâu sắc:
1. Liên minh Nhật Bản - Mỹ ra đời sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2
với trụ cột là Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ (1951). Trong Hiệp ước này, Nhật
Bản thông qua việc liên minh với Mỹ để giữ môi trường hòa bình, đối phó với
các nguy cơ về an ninh, thu hút các nguồn vốn và đầu tư thúc đẩy sự phát
triển quốc gia. Về phía Mỹ, đây là một trong những lựa chọn để duy trì ảnh
1
hưởng của mình ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, đồng thời ngăn chặn
ảnh hưởng của Liên Xô đối với khu vực này. Chiến tranh lạnh kết thúc, Liên
bang Xô Viết sụp đổ, sự đe dọa đó không còn, Nhật Bản cũng lớn mạnh trở
thành đối thủ trực tiếp của Mỹ trên nhiều lĩnh vực, tuy nhiên bất chấp nhiều
quan điểm từ 2 nước, liên minh này vẫn tồn tại và phát triển. Như vậy, nghiên
cứu mối quan hệ Nhật Bản - Mỹ đương đại giúp thấy rõ lợi ích cốt lõi mà hai
quốc gia theo đuổi trong phương thức hợp tác đặc biệt này.
2. Những chuyển dịch sâu sắc, chưa từng có trên toàn cầu trong hơn
một thập kỷ qua đã khẳng định, trong thế kỷ XXI, khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương tiếp tục là khu vực phát triển năng động nhất và đóng vai trò đầu
tàu trong liên kết kinh tế thế giới. Đây là khu vực tập trung 10 trong số 20 nền
kinh tế lớn nhất, với tỉ trọng thương mại xuyên Thái Bình Dương hiện đã
chiếm 2/3 thương mại toàn cầu, đóng góp gần 40% tăng trưởng toàn cầu. Tuy
nhiên ở khu vực này còn tồn tại nhiều vấn đề bất ổn, chưa có một cơ chế an
ninh để nhằm duy trì sự ổn định. “Sự trỗi dậy” của Trung Quốc, đặc biệt là
những hành động ngang ngược của quốc gia này trong những tranh chấp chủ
quyền tại các khu vực Biển Đông, Biển Hoa Đông… đang làm dấy lên những
lo ngại cho các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam. Hiện nay, các
quốc gia này đang hi vọng quan hệ liên minh Nhật Bản - Mỹ sẽ được duy trì
chặt chẽ để cân bằng với “sự trỗi dậy” của Trung Quốc. Nghiên cứu vấn đề
này giúp Việt Nam có được sự đánh giá khách quan về những chuyển biến
của cán cân quyền lực trong khu vực, từ đó có những điều chỉnh chính sách
đối ngoại phù hợp.
3. Đối với Việt Nam, một quốc gia đang trên đường tích cực và chủ
động hội nhập quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa để phát triển,
do đó rất cần môi trường hòa bình, hữu nghị và hợp tác có hiệu quả với tất cả
các nước, đặc biệt là các cường quốc. Nhật Bản và Hoa Kỳ là hai đối tác quan
trọng của Việt Nam, là hai cường quốc có tiếng nói và tầm ảnh hưởng lớn đến
2
các vấn đề trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, tìm hiểu được mối quan hệ
giữa hai cường quốc này ta có thể hiểu rõ thêm được chủ trương, chính sách
của họ, từ đó rút ra được những kinh nghiệm và có chính sách phù hợp đảm
bảo yêu cầu an ninh và phát triển.
Với những ý nghĩa khoa học và thực tiễn nêu trên, tác giả quyết định
chọn vấn đề “Quan hệ an ninh - chính trị Nhật Bản - Mỹ (2001 - 2014)” làm
đề tài Luận văn thạc sĩ.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về quan hệ Nhật Bản - Mỹ nói chung và phạm vi quan hệ
an ninh - chính trị giữa hai đối tác trên nói riêng đã được nhiều học giả trong
và ngoài nước quan tâm từ rất sớm và có nhiều cách tiếp cận nghiên cứu khác
nhau, về cơ bản có thể khái quát như sau:
2.1. Các nghiên cứu trong nước
Có thể kể đến một số tác phẩm như: “Quan hệ Mỹ - Nhật Bản sau
Chiến tranh Lạnh” của tác giả Ngô Xuân Bình, xuất bản bởi Nhà xuất bản
Khoa học Xã hội năm 1995 đã phân tích mối quan hệ giữa hai nước trên các
phương diện chính trị - ngoại giao, an ninh - quốc phòng và kinh tế - xã hội,
đồng thời cũng đưa ra những đánh giá, nhận xét về những thay đổi về chất
trong mối quan hệ giữa hai nước trong giai đoạn sau Chiến tranh lạnh. Sau khi
Chiến tranh lạnh kết thúc, Nhật Bản tỏ ra ít phụ thuộc hơn và có mong muốn
đóng vai trò chính trị chủ động hơn trong các vấn đề của khu vực và thế giới;
Trong cuốn “Chiến lược và quan hệ kinh tế Mỹ - EU - Nhật Bản thế kỷ XXI”
của PGS, TS Lê Văn Sang, xuất bản bởi Nhà xuất bản Khoa học Xã hội năm
2002 lại tập trung phân tích chiến lược của từng quốc gia và đề cập đến mối
quan hệ về thương mại, tài chính và đầu tư trực tiếp của Nhật Bản - Mỹ. Hay
trong cuốn “Quan hệ giữa ba trung tâm tư bản (Mỹ - Tây Âu - Nhật Bản) sau
Chiến tranh lạnh”, tác giả TS Phạm Thành Dung, xuất bản bởi Nhà xuất bản
Lý luận Chính trị năm 2004, đề cập đến sự chuyển hướng chiến lược của các
3
nước và mối quan hệ giữa Nhật Bản - Mỹ trên phương diện chiến lược chung
chứ không cụ thể theo từng lĩnh vực.
Trong bài viết “Liên minh an ninh Mỹ - Nhật: Sự chuyển biến và tái
xác định” của tác giả Hà Hồng Hải trong cuốn “Quan hệ của Mỹ với các nước
lớn ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương” xuất bản bởi Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia năm 2003 đã nêu lên những chuyển biến trong quan hệ giữa hai
nước Mỹ và Nhật Bản so với thời kỳ 10 năm sau Chiến tranh lạnh, xác định
lại tầm quan trọng của liên minh Mỹ - Nhật Bản trong bối cảnh khu vực châu
Á - Thái Bình Dương có những thay đổi vượt bậc về cả kinh tế lẫn vai trò
chính trị của một số nước tác động tới đời sống quốc tế.
Trong bài viết “Những bất đồng trong quan hệ đồng minh Mỹ - Nhật?”
của tác giả Nguyễn Ngọc Ánh đăng trên tạp chí Quan hệ Quốc phòng - An
ninh số 2 năm 2010 đã chỉ ra một số dấu hiệu bất đồng cũng như nguyên nhân
dẫn đến sự bất đồng trong liên minh Mỹ - Nhật và đưa ra giả thiết liệu hai
nước có thể tách rời nhau không? Tác giả cũng đưa ra những lý do chứng
minh sự cần thiết phải phát triển mối quan hệ đồng minh mặc dù vẫn có một
vài yếu tố kìm hãm sự phát triển tốt đẹp của cặp quan hệ này.
Bài viết “Quan hệ Mỹ - Nhật Bản đến 2020” trong cuốn “Cục diện thế
giới đến năm 2020” xuất bản bởi Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia năm 2010,
tác giả Lê Chí Dũng đã khái quát quan hệ Mỹ - Nhật Bản từ năm 2000 đến
năm 2010, đưa ra những yếu tố tác động tới sự phát triển quan hệ và một vài
dự báo mối quan hệ sẽ phát triển và liên kết chặt chẽ hơn bởi các yếu tố nội
tại hai nước cũng như các yếu tố bên ngoài,…
2.2. Các nghiên cứu quốc tế
Ở phạm vi quốc tế, có một số ấn phẩm, bài viết được công bố liên quan
đến quan hệ Mỹ - Nhật Bản, có thể kể đến: “U.S - Japan Relations for the
21th Century” của trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Kurt M.Campbell viết vào 27
tháng 6 năm 2010 đã khẳng định Nhật Bản và Mỹ sẽ cùng nhau đối phó với
4
những thách thức mà thế giới hiện nay đang đối mặt, khẳng định mối quan hệ
Mỹ - Nhật Bản là một yếu tố quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề quốc
tế, những lợi ích chiến lược chung sẽ là động lực để hai nước phát triển tốt
đẹp mối quan hệ trong thời gian tới; “The U.S - Japan Security Alliance in the
21st Century” của tác giả Michael J.Green và Mike M. Mochizuki đưa ra ba
kịch bản cho liên minh an ninh Mỹ - Nhật trong thế kỷ 21, kịch bản thứ nhất
liên quan đến quân sự, kịch bản thứ hai về chủ nghĩa kinh tế và kịch bản thứ
ba là sự bất đồng. Trong phần kết luận, tác giả cho rằng các kịch bản đưa ra
đều dựa trên những yếu tố tác động bên trong và bên ngoài, nhưng tất cả đều
khó xác định một cách chính xác. Trong ba kịch bản trên, tác giả nghiêng về
khả năng diễn ra kịch bản thứ ba - sự bất đồng là rõ ràng và dễ diễn ra hơn
trong bối cảnh lợi ích quốc gia và tham vọng của từng nước.
Bên cạnh đó còn nhiều tác phẩm khác như “Cultural Norms and
National Security: Police and Military in Postwar Japan” của Peter J.
Katzenstein, viết năm 1996, “The US - Japan Alliance : Past, Present, and
Future” của Green, Michael J Cronin, Patrick M. viết năm 1999, “U.S - Japan
- China Relations: Trilateral Coopration in the 21th Century” của tác giả Brad
Glosserman viết năm 2005, “A Strategy for the U.S - Japan Alliance” của tác
giả Sheila A. Smith viết năm 2012…
Nhìn chung các bài viết này cung cấp nhiều thông tin phong phú và
được cập nhật, tuy nhiên chưa phân tích sâu về cơ sở và thực trạng phát triển
của mối quan hệ này. Các bài viết đề cập một cách toàn diện các lĩnh vực chứ
không nghiên cứu sâu từ khía cạnh chính trị - an ninh. Ngoài ra, các bài viết
tập trung nghiên cứu quan hệ này từ khía cạnh Mỹ và những lợi ích của Mỹ
chứ chưa làm rõ các lợi ích và sự điều chỉnh từ phía Nhật Bản. Từ phân tích
các công trình đi trước, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu về quan hệ Nhật Bản Mỹ từ khía cạnh chính trị - an ninh, đặc biệt là từ quan điểm của Nhật Bản để
góp phần làm rõ hơn quan hệ đồng minh chiến lược này.
5
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chính của luận văn là phân tích quan hệ an ninh - chính trị
Nhật Bản - Mỹ giai đoạn 2001 - 2014, từ đó rút ra tác động của quan hệ này
đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dương và triển vọng của quan hệ này
trong tương lai, đồng thời đưa ra một số gợi ý chính sách cho Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn hướng đến giải quyết 3 nhiệm vụ:
- Làm rõ các nhân tố tác động đến mối quan hệ an ninh - chính trị Nhật
Bản - Mỹ (2001 - 2014)
- Phân tích mối quan hệ an ninh - chính trị Nhật Bản - Mỹ (2001 2014).
- Đánh giá tác động của quan hệ an ninh - chính trị Nhật Bản - Mỹ
(2001 - 2014) và dự báo triển vọng của quan hệ này đến năm 2020.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quan hệ an ninh - chính trị Nhật
Bản - Mỹ giai đoạn 2001 - 2014.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung, trong khuôn khổ thời lượng cho phép của luận văn tác
giả chỉ tập trung vào phân tích mối quan hệ an ninh - chính trị Nhật Bản - Mỹ.
- Về phạm vi thời gian: tập trung vào giai đoạn 2001 - 2014.
Giai đoạn 2001 - 2014 là một giai đoạn biến động của chính sách đối
ngoại Nhật Bản. Sau giai đoạn ổn định của 10 năm cuối thế kỷ XX, những
năm đầu thế kỷ XXI, những vấn đề phức tạp về an ninh xuất hiện đe dọa đến
Nhật Bản. Đầu tiên là việc CHDCND Triều Tiên tái khởi động chương trình
hạt nhân, thứ hai là Trung Quốc kết thúc thời kỳ “giấu mình chờ thời” đang
6
trỗi dậy mạnh mẽ. Bên cạnh đó, những phức tạp về vấn đề an ninh toàn cầu và
khu vực cũng là yếu tố quan trọng khiến Nhật Bản buộc phải tăng cường vai
trò an ninh - chính trị của mình. Thế kỷ XXI, nước Mỹ cũng đối mặt với
nhiều thách thức. Khác với vai trò “sen đầm” trước đây, Mỹ phải tập trung
vào giải quyết nhiều vấn đề hơn trong bài toán kiểm soát quyền lực và vị thế
của mình, Mỹ tìm kiếm sự san sẻ của các đồng minh, đặc biệt là vai trò của
Nhật Bản trong chiến lược “tái cân bằng” sang khu vực châu Á - Thái Bình
Dương. Và sự thay đổi mạnh mẽ của mối quan hệ này dẫn đến điểm mốc
2014, khi 2 bên thống nhất cần phải có sự thay đổi trong hợp tác, mở rộng
phạm vi và ảnh hưởng của Liên minh, để quan hệ Nhật Bản - Mỹ trở thành
một Liên minh mạnh mẽ hơn, mang tính toàn cầu.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh. Tác giả sử dụng các phương
pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, logic - lịch sử và phân tích quốc tế để hoàn
thành luận văn.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, luận văn kết cấu bao gồm 3
chương với các nội dung chính như sau:
Chương 1. Cơ sở quan hệ an ninh - chính trị Nhật Bản - Mỹ giai
đoạn 2001 - 2014
Nội dung chương 1 phân tích nhưng cơ sở hình thành mối quan hệ an
ninh - chính trị Nhật Bản Mỹ. Đây là những căn cứ quan trọng để đánh giá
những thay đổi của liên minh này. Bên cạnh đó, tác giả khái quát lại thực
trạng quan hệ an ninh - chính trị giữa hai nước giai đoạn trước năm 2001 để
làm rõ tính lịch sử của vấn đề, thông qua đó làm rõ những vấn đề lợi ích cốt
lõi, xuyên suốt trong quá trình hình thành, phát triển quan hệ.
7
Chương 2. Sự phát triển của quan hệ an ninh - chính trị Nhật Bản Mỹ giai đoạn 2001 - 2014
Trong chương này, tác giả tập trung phân tích mối quan hệ an ninh chính trị Nhật Bản - Mỹ theo một góc độ thống nhất là dựa trên lợi ích của
Nhật Bản. Mặc dù có những sự thay đổi về đảng cầm quyền trong giai đoạn
2001 - 2014, nhưng hai bên đều có sự thống nhất về tầm quan trọng của nhau
trong chiến lược, đặc biệt trên lĩnh vực an ninh - chính trị. Nhật Bản nhất
quán chính sách muốn trở thành “một quốc gia bình thường”, và Mỹ “xoay
trục” sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Phân tích sự phát triển mối
quan hệ này để thấy được những điểm mới trong quan hệ giữa hai nước,
những lợi ích mới mà hai bên theo đuổi trong thế kỷ XXI.
Chương 3. Quan hệ an ninh - chính trị Nhật Bản - Mỹ: Tác động và
triển vọng đến năm 2020
Chương này tập trung đánh giá những tác động, ảnh hưởng của quan hệ
này đối với bản thân hai nước cũng như với khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương và Việt Nam. Trên cơ sở tác động đó để dự báo một số nhân tố tác
động đến mối quan hệ này và đưa ra các kịch bản dự báo triển vọng quan hệ
đến năm 2020.
8
CHƢƠNG 1
CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG
QUAN HỆ AN NINH - CHÍNH TRỊ NHẬT BẢN - MỸ (2001 - 2014)
1.1. Nhân tố pháp lý
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Nhật Bản là quốc gia bại trận
và buộc phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện ngày 14/8/1945, chấp
nhận thi hành những điều kiện của Tuyên bố Potsdam. Các điều khoản chủ
yếu bao gồm:
1. Vĩnh viễn loại trừ chủ nghĩa quân phiệt ở Nhật Bản;
2. Giới hạn lãnh thổ của Nhật (trong các đảo Honshu, Hokkaido,
Kyushu, Shikoku và các đảo nhỏ xung quanh);
3. Quân đội đồng minh sẽ chiếm đóng Nhật Bản;
4. Giải giáp hoàn toàn quân đội Nhật Bản;
5. Nghiêm trị tội phạm chiến tranh, tôn trọng tự do ngôn luận, tôn giáo,
tín ngưỡng và những quyền con người căn bản;
6. Bồi thường chiến tranh và cấm phát triển công nghệ chiến tranh [14;
tr. 16-17].
Sau khi Nhật Bản đầu hàng, Mỹ là nước chủ yếu đưa quân đội
vào chiếm đóng Nhật Bản. Mục đích chủ yếu của Mỹ lúc này là trừng trị tội
phạm chiến tranh, phá bỏ toàn bộ cơ sở vật chất và tinh thần của chủ nghĩa
quân phiệt Nhật, dân chủ hóa Nhật Bản, không để nước này có điều kiện tái
vũ trang làm mầm mống cho chiến tranh trở lại. Với mục tiêu như vậy, Mỹ đã
tiến hành cải cách mạnh mẽ kết cấu kinh tế và xã hội Nhật Bản theo hướng
dân chủ hóa và biến Nhật Bản trở thành một quốc gia hòa bình.
Với lợi thế là nước thắng trận (đất nước hầu như không bị tàn phá, các
cơ sở kinh tế, công nghiệp hầu như nguyên vẹn, thu lợi do bán vũ khí cho các
nước, tham gia chiến tranh muộn nhưng lại thu nhiều lợi khi chiến tranh kết
thúc), Mỹ trở thành quốc gia mạnh nhất thế giới. Về kinh tế Mỹ chiếm 52%
tổng sản phẩm quốc dân của thế giới, là chủ nợ lớn nhất (riêng về vũ khí, các
9
nước Đồng minh châu Âu nợ Mỹ đến 41,751 tỷ USD [15; tr. 12]). Mỹ vượt xa
các nước khác về sản lượng công nghiệp. Về quân sự, Mỹ cũng chiếm ưu thế
tuyệt đối về cả lục quân, hải quân và không quân. Mỹ là nước duy nhất có vũ
khí nguyên tử và có căn cứ quân sự tại 58 nước [10; tr. 105].
Trong khi đó, Nhật Bản ở một hoàn cảnh trái ngược lại. Là nước bại
trận, Nhật Bản bị kiệt quệ về kinh tế, bị đè bẹp về quân sự, suy sụp về tinh
thần, chịu thiệt hại lớn về người và của. Tổng số người Nhật Bản chết, bị
thương và mất tích trong chiến tranh lên tới 2,53 triệu người. Tổng giá trị vật
chất bị thiệt hại trong chiến tranh lên tới 64,3 tỷ Yên, chiếm tới 1/3 tổng giá
trị tài sản còn lại của đất nước. Chiến tranh đã thiêu hủy giá trị tài sản tương
đương với toàn bộ của cải mà nước này tích lũy được trong 10 năm từ 1935
đến 1945 [14; tr. 24].
Trong hoàn cảnh đó, Nhật Bản buộc phải chấp nhận vô điều kiện sự chỉ
đạo của Mỹ trên tất cả các lĩnh vực, trong đó là việc chấp nhận bản Hiến pháp
do Mỹ soạn thảo được công bố ngày 3/11/1946. Đây là văn kiện pháp lý có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với Nhật Bản, nó ràng buộc Nhật Bản không chỉ
trong lĩnh vực quân sự mà còn trong quan hệ an ninh - chính trị Nhật Bản Mỹ. Một trong những điều khoản quan trọng nhất và có tác động lớn của Hiến
pháp 1946 là Điều 9. Điều 9, Hiến pháp Nhật Bản nêu rõ, nước này: “khao
khát chân thành cho hòa bình thế giới dựa trên công lý và trật tự. Nhân dân
Nhật Bản mãi mãi từ bỏ chiến tranh như là điều tối cao của quốc gia, từ bỏ
việc đe dọa hoặc sử dụng quân sự làm phương tiện giải quyết các tranh chấp
quốc tế. Để thực hiện mục đích trên lực lượng hải, lục quân cũng như các
tiềm năng chiến tranh khác sẽ không được duy trì; quyền tham chiến của nhà
nước không được công nhận” [14; tr. 232]. Như vậy, Nhật Bản đã từ bỏ quyền
tham gia giải quyết xung đột quốc tế bằng vũ lực, không công nhận quyền
tham chiến của nhà nước, không xây dựng lực lượng quốc phòng và chỉ có
lực lượng phòng vệ.
10
Khi bắt đầu vào Nhật giải giáp quân sự (1945), Mỹ tìm mọi cách áp đặt
các hạn chế để xóa bỏ nguy cơ phục hồi chủ nghĩa quân phiệt Nhật, kiềm chế
sự phát triển của Nhật Bản. Tuy nhiên bắt đầu từ năm 1947, chính sách của Mỹ
đối với Nhật Bản dần có sự điều chỉnh khi quan hệ giữa Mỹ và Liên Xô ngày
càng trở nên gay gắt. Đặc biệt với 2 sự kiện: thứ nhất là việc chế độ Tưởng
Giới Thạch ở Trung Quốc sụp đổ, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời
(1949) và kí Hiệp ước thân thiện và hợp tác với Liên Xô (tháng 2/1950); thứ
hai là Liên Xô công bố chế tạo thành công bom nguyên tử vào ngày 8/3/1950,
chấm dứt sự độc quyền của Mỹ về vũ khí hạt nhân. Với sự tác động của hai sự
kiện này, tương quan lực lượng ở châu Á nghiêng theo hướng có lợi cho Liên
Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, Mỹ đã thay đổi tư duy về vai
trò của Nhật Bản đối với Mỹ ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Mỹ ráo riết
kí kết hòa ước với Nhật Bản nhằm mục đích biến Nhật Bản thành một đồng
minh cơ bản, một “pháo đài” chống lại chủ nghĩa cộng sản. Mục tiêu của Mỹ là
muốn Nhật Bản thành một khâu chủ chốt trong chiến lược toàn cầu của Mỹ ở
khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đồng thời vẫn tiếp tục khống chế Nhật
Bản về cả chính trị - kinh tế - quân sự trong quỹ đạo của Mỹ.
Về phần Nhật Bản, thất bại từ thế chiến thứ hai, đã rút ra bài học lịch sử
cho mình. Đó là muốn xây dựng một quốc gia giàu có, hùng mạnh, người
Nhật phải lao động bằng “khối óc và đôi bàn tay của mình” chứ không phải
bằng những hành động xâm lược, chà đạp lên lợi ích của các quốc gia và dân
tộc khác. Sự thay đổi nhận thức này đã tạo điều kiện cho chủ nghĩa hòa bình
bám rễ và ngày càng trở thành trào lưu tư tưởng chủ đạo ở Nhật. Từ đây, Nhật
Bản thấy rằng chỉ có thể tìm cách mở rộng ảnh hưởng, nâng cao vai trò của
mình thông qua phát triển kinh tế, chính sách đối ngoại hòa bình, chứ không
phải bằng bạo lực chiến tranh. Tuy nhiên những thay đổi của tình hình trong
nước và khu vực, đặt ra cho Nhật Bản nhiều vấn đề về phát triển an ninh và
nhu cầu về các nguồn vốn viện trợ nhằm phục vụ tái thiết nền kinh tế.
11
Trong bối cảnh chung đó, tháng 9 năm 1951, Hòa ước San Fransisco
được ký kết, theo hòa ước này, hòa bình chưa được khôi phục, quan hệ giữa
Nhật Bản với các nước châu Á (Liên Xô và Trung Quốc) vẫn chưa được giải
quyết, vấn đề lãnh thổ chưa được xác định rõ ràng. Hòa ước cũng phê chuẩn
việc ở lại vô thời hạn của quân đội Mỹ.
Với Hòa ước này, Mỹ đã đạt được mục đích của mình, mở đường cho
Mỹ và Nhật Bản ký kết một loạt hiệp ước song phương khác, đặc biệt là Hiệp
ước an ninh Mỹ - Nhật Bản được ký cùng ngày với Hòa ước San Fransisco và
có hiệu lực từ tháng 4/1952; Hai hòa ước này là cơ sở pháp lý làm nền tảng
cho việc thiết lập quan hệ an ninh - chính trị Nhật Bản - Mỹ sau Chiến tranh
lạnh đến nay.
Nhật Bản cũng có những toan tính riêng trong mối quan hệ này. Nếu
như sau Hiệp ước an ninh 1951, do chịu sự lệ thuộc vào Mỹ nên tồn tại sự bất
bình đẳng. Thì với sự hồi phục kinh tế mạnh mẽ, đặc biệt là mối quan hệ được
cải thiện với Liên Xô, Trung Quốc và các nước Đông Nam Á, vị thế của Nhật
đã được cải thiện, buộc Mỹ phải thay đổi cách nhìn nhận, đi đến đàm phán và
đi đến sự nhượng bộ với Hiệp ước an ninh và hợp tác tương hỗ ngày
19/01/1960 tại Washington (Mỹ) thay thế cho Hiệp ước an ninh năm 1951.
Với Hiệp ước mới này, Nhật Bản đã đạt được hai mục đích. Thứ nhất, Nhật
tiếp tục được bảo vệ nhờ chiếc “ô an ninh” của Mỹ, coi đó như một sự đảm
bảo an ninh từ xa nếu bị tấn công. Đây là giải pháp hợp lý trong bối cảnh
những nguy cơ từ xa do việc Liên Xô ngày càng tăng cường tiềm lực quốc
phòng và sở hữu vũ khí hạt nhân. Đồng thời vẫn đáp ứng được nhu cầu của
phần lớn dân chúng Nhật Bản lúc này, đó là đấu tranh ngăn chặn quân sự hóa
Nhật Bản và bảo vệ chế độ dân chủ, chứ không chống Mỹ. Thứ hai, thông qua
Hiệp ước này, Nhật Bản sẽ tiết kiệm được một khoản chi phí quốc phòng lớn
và cho phép Nhật Bản tập trung phát triển kinh tế. Đồng thời, thông qua Hiệp
ước an ninh mới Nhật Bản có điều kiện tiếp cận các tổ chức quốc tế, nhận
được các khoản đầu tư viện trợ, đồng thời tránh được thái độ nghi kỵ của Mỹ.
12
Với những sự thay đổi của bối cảnh từng nước, sự thay đổi của xu thế
chung, Mỹ và Nhật Bản đã có những sự thay đổi về Hiệp ước an ninh sau này.
Những sự thay đổi này theo hướng nâng cao vai trò của Nhật Bản trong mối
quan hệ liên minh. Tuy nhiên, Hiệp ước an ninh 1951 và Hiệp ước an ninh và
hợp tác tương hỗ năm 1960 là những tiền đề quan trọng, thúc đẩy sự hình
thành và phát triển của mối quan hệ an ninh - chính trị Nhật Bản - Mỹ.
1.2. Nhân tố thực tiễn
Sự sụp đổ của Liên Xô, Chiến tranh lạnh kết thúc đã khiến một trong
những đối tượng quan trọng nhất của liên minh an ninh - chính trị Nhật Bản Mỹ không còn nữa. Trật tự thế giới hai cực tan rã, thế giới bước vào 10 năm
đầu trong kỷ nguyên “nhất siêu, đa cường” - giai đoạn 1991 - 2000. Đây là
thời kỳ nước Mỹ ở vị trí đỉnh cao của thế giới, giành quyền lực gần như tuyệt
đối. Tuy nhiên, trong bối cảnh đó, những vấn đề mới bắt đầu nảy sinh, tạo nên
những nguy cơ tiềm tàng, những tác động tiêu cực đến môi trường an ninh chính trị của hai nước.
1.2.1. Bối cảnh quốc tế
Chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới bước vào một kỷ nguyên mới, quan
hệ quốc tế biến đổi đa dạng và phức tạp hơn. Mười năm đầu sau Chiến tranh
lạnh, thế giới đã trải qua nhiều biến chuyển, trật tự thế giới chuyển dần từ thời
kỳ hai “cực” sang “nhất siêu, đa cường” và dần hình thành xu thế “đa cực”.
Là siêu cường duy nhất còn lại (trong 2 siêu cường thời kỳ Chiến tranh lạnh),
có sức mạnh tổng hợp vượt trội so với các cường quốc còn lại, tuy nhiên, Mỹ
vẫn không đủ khả năng kiểm soát thế giới. Những khó khăn trong cuộc chiến
vùng Vịnh năm 1991 hay cuộc chiến ở Kosovo năm 1999 đã cho thấy những
hạn chế trong việc áp đặt các giá trị Mỹ trên phạm vi toàn thế giới. Bước sang
thế kỷ XXI, những thách thức mới, lớn hơn, khó kiểm soát hơn đã xuất hiện,
buộc các quốc gia trên thế giới, trong đó có Mỹ và Nhật Bản này phải đánh
giá lại vai trò của các quốc gia khác, các liên minh trong cơ chế chung để
13
kiểm soát sự vận động của thế giới. Yếu tố kinh tế được tất cả các quốc gia
trên thế giới chú trọng hơn bao giờ hết, là nhân tố quyết định vị thế quốc gia,
trở thành nội dung quan trọng trong các chương trình nghị sự của các nước
lớn, vừa và nhỏ. Cùng với quá trình toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ
của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, các vấn đề mang tính
toàn cầu ngày càng chi phối lớn hơn đối với các quan hệ quốc tế. Có thể khái
quát qua một số đặc điểm và xu thế phát triển của thế giới giai đoạn 2001 2014 như sau:
Thứ nhất, hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển là xu thế lớn trên thế
giới, là đòi hỏi ngày càng bức xúc của các dân tộc và các quốc gia trên thế
giới. Các nước đều ưu tiên cho phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý
nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp của mỗi nước;
đồng thời tạo sự ổn định chính trị và mở rộng quan hệ quốc tế. Trong xu thế
toàn cầu hóa và điều kiện khoa học công nghệ phát triển, mỗi quốc gia không
thể sống biệt lập, mà cần phải có chính sách liên kết, hợp tác để phát triển.
Cùng với việc mở rộng quan hệ chính trị đối ngoại với các nước trong khu
vực và trên thế giới, nhằm duy trì và củng cố hòa bình, ổn định, các nước còn
thực hiện liên kết kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng… tạo điều kiện đẩy
mạnh tiến trình hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới. Hội
nhập quốc tế làm tăng cường vai trò của các chủ thể phi quốc gia trong quan
hệ quốc tế. Các liên kết khu vực, các liên minh như EU, ASEAN, NATO,…
đóng vai trò quan trọng, là cầu nối cho sự ổn định và phát triển của các thành
viên tham gia. Hội nhập cũng khiến tính chất quan hệ của các nước lớn thay
đổi, các nước tồn tại hòa bình bên cạnh nhau, vừa hợp tác vừa đấu tranh vì lợi
ích quốc gia dân tộc, tìm kiếm cho mình một vị trí trong trật tự thế giới mới.
Thứ hai, những vấn đề toàn cầu, những nguy cơ an ninh phi truyền
thống như xung đột sắc tộc, tôn giáo, nguy cơ phổ biến vũ khí hạt nhân, tội
phạm xuyên quốc gia, chủ nghĩa khủng bố… trước kia bị kìm giữ trong Chiến
14
tranh lạnh nay bùng phát. Tác động của chúng không chỉ nằm trong phạm vi
biên giới một quốc gia mà có ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ đến an ninh và
hòa bình thế giới. Trước những vấn đề này, không có một quốc gia nào, dù có
là siêu cường như Mỹ có thể đương đầu giải quyết được. Chính vì vậy các
nước, đặc biệt là các nước lớn đều muốn hợp tác với nhau để giải quyết, thông
qua đó để tập hợp lực lượng, nâng cao vai trò, vị thế và tầm ảnh hưởng của
mình trong các vấn đề quốc tế. Nhật Bản hiện tại là một quốc gia đang tích
cực tham gia vào các nỗ lực quốc tế, giải quyết các vấn đề toàn cầu nhằm
nâng cao hơn vai trò của mình trên lĩnh vực an ninh - chính trị, phấn đấu trở
thành một quốc gia “bình thường”. Ngay cả Mỹ với sức mạnh tổng hợp vượt
trội, nhưng cũng không thể bỏ qua cơ hội này, dựa vào đó làm chiêu bài để
tập hợp lực lượng, nâng cao vị thế siêu cường của mình trong tất cả mọi lĩnh
vực của đời sống kinh tế - xã hội thế giới.
Thứ ba, các quốc gia trên thế giới thay đổi tư duy về đối ngoại, an ninh
- chính trị. Sự thay đổi này thể hiện rõ nét ở việc đánh giá vị thế quốc gia.
Nếu như trong Chiến tranh lạnh, sức mạnh quân sự được xem như là một yếu
tố then chốt để đánh giá vai trò và tầm ảnh hưởng quốc gia đối với tình hình
quốc tế, nhưng hiện nay đã thay đổi. Vị thế quốc gia được đánh giá trên cơ sở
một sức mạnh tổng hợp, từ chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh… trong đó
hai yếu tố được đặc biệt đề cao là sức mạnh kinh tế và trình độ khoa học công
nghệ. Với sự thay đổi như vậy, Nhật Bản là một quốc gia không có quân đội,
nhưng với vị thế là 1 trong 3 nền kinh tế lớn nhất thế giới, là quốc gia có trình
độ khoa học công nghệ tiên tiến có cơ hội mở rộng vai trò, tầm ảnh hưởng của
mình. Sự thay đổi thứ hai thể hiện ở cách thức tập hợp lực lượng chính trị
trong quan hệ quốc tế. Chiến tranh lạnh kết thúc, không còn bị chi phối bởi
yếu tố ý thức hệ, các quốc gia đều đặt mục tiêu lợi ích quốc gia dân tộc lên
làm yếu tố hàng đầu trong quan hệ quốc tế. Chính vì vậy, cách thức tập hợp
lực lượng trở nên đa dạng, phức tạp và khó lường hơn. Các quốc gia vừa hợp
15
- Xem thêm -