TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
**************
NGUYỄN THỊ ÁNH TUYẾT
QUÁ TRÌNH XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
Ở HUYỆN TAM NÔNG (PHÚ THỌ)
TRONG NHỮNG NĂM 2006 - 2015
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS NGUYỄN VĂN DŨNG
H À NỘI – 2017
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp đại học em đã nhận
được sự giúp đỡ nhiệt tình của các ban ngành, đoàn thể, các tổ chức và cá
nhân, gia đình, bạn bè.
Em xin chân thành cảm ơn Ban Chủ nhiệm khoa Lịch sử - Trường ĐHSP
Hà Nội 2, các thầy cô giáo, cán bộ giảng viên khoa Lịch sử và các thầy, cô
giáo giảng dạy chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Văn Dũng - Người đã
tận tình quan tâm, chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành đề tài này trong suốt thời
gian vừa qua.
Em xin chân thành cảm ơn Đảng Bộ huyện Tam Nông, UBND huyện Tam
Nông, phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Tam Nông và tỉnh Phú
Thọ, thư viện huyện Tam Nông, thư viện tỉnh Phú Thọ, cục thống kê huyện tỉnh Phú Thọ đã tạo điều kiện và tận tình giúp đỡ em thực hiện đề tài này.
Khóa luận tốt nghiệp “Qúa trình xóa đói giảm nghèo của huyện Tam
Nông (Phú Thọ) trong những năm 2006 - 2015” là một đề tài hay và hấp
dẫn. Song do còn nhiều hạn chế cá nhân về thời gian cũng như khả năng tìm
kiếm, tiếp nhận thông tin vì vậy không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính
mong thầy cô và các bạn đọc xem xét và đóng góp ý kiến.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội ngày 26 tháng 4 năm 2017
Sinh viên
Nguyễn Thị Ánh Tuyết
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình khoa học do tự mình thực hiện với sự
hướng dẫn của thầy giáo - TS Nguyễn Văn Dũng, Trưởng khoa Lịch sử
trường ĐHSP Hà Nội 2. Nếu tôi sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 26 tháng 4 năm 2017
Sinh viên
Nguyễn Thị Ánh Tuyết
DANH MỤC VIẾT TẮT
BCĐ
: Ban chỉ đạo
LĐTB&XH
: Lao động thương binh và xã hội
MTTQ
: Mặt trận tổ quốc
NQ/TU
: Nghị quyết/ Trung ương
UBND
: Ủy ban nhân dân
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
……………………………………………………………
Chƣơng 1.
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HUYỆN TAM NÔNG, TỈNH
PHÚ THỌ…………………………………………………..
1.1.
1
8
Điều kiện tự nhiên và dân cƣ……………………………… 8
1.1.1. Điều kiện tự nhiên…………………………………………… 8
1.1.2. Dân cư ………………………………………………………. 15
1.2.
Tình hình kinh tế và thực trạng đói nghèo ở huyện Tam
Nông trƣớc năm 2006……………………………………… 15
1.2.1. Tình hình kinh tế ………………………………………………
15
1.2.2. Thực trạng đói nghèo ở huyện Tam Nông trước năm 2006
19
1.3.
Qúa trình xóa đói giảm nghèo ở huyện Tam Nông từ
năm 2006 - 2010 ………………………………………….
22
1.3.1. Chủ trương, chính sách xóa đói giảm nghèo của huyện
Tam Nông…………………………………………………..
22
1.3.2. Qúa trình triển khai và thành tựu đạt được trong công tác xóa
đói giảm nghèo ở Tam Nông…………………………..
1.3.3. Hạn chế …………………………………………………….
Chƣơng 2.
38
Chủ trƣơng, chính sách xóa đói giảm nghèo của huyện
Tam Nông………………………………………………….
2.2.
35
QUÁ TRÌNH XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở HUYỆN
TAM NÔNG GIAI ĐOẠN 2011 - 2015…………………
2.1.
26
38
Qúa trình triển khai và thành tựu đạt đƣợc trong công
tác xóa đói giảm nghèo ở Tam Nông…………………...
41
2.2.1. Quá trình triển khai………………………………………..
41
2.2.2. Thành tựu………………………………………………….
45
2.3.
Hạn chế …………………………………………………….
Chƣơng 3.
ĐẶC ĐIỂM VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CÔNG TÁC XÓA
61
ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở HUYỆN TAM NÔNG ………..
64
3.1.
Đặc điểm …………………………………………………..
64
3.2.
Tác động …………………………………………………..
65
3.2.1. Tác động đến tình hình kinh tế - xã hội…………………….
65
3.2.2. Tác động đến tình hình chính trị…………………………..
70
3.2.3. Tác động đến đời sống văn hóa - tinh thần………………..
71
KẾT LUẬN .………………………………………………………………. 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO.……………………………………………….
78
PHỤ LỤC………………………………………………………………….
82
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đói nghèo là một vấn đề mang tính toàn cầu. Nó không chỉ là thực tế
đang diễn ra ở nước ta mà còn tồn tại phổ biến trên toàn thế giới. Đây là trở
ngại không nhỏ đối với sự phát triển của các quốc gia.
Việt Nam là một trong những nước nghèo trên thế giới, với gần 80% dân
số sống ở khu vực nông thôn và 70% lực lượng lao động làm trong lĩnh vực
nông nghiệp. Do sự phát triển chậm của lực lượng sản xuất, sự lạc hậu về
kinh tế và trình độ phân công lao động xã hội kém, dẫn tới năng suất lao động
xã hội và mức tăng trưởng xã hội thấp. Với chủ trương phát triển một nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà
nước thì đây vừa là một nhiệm vụ chiến lược của công cuộc phát triển kinh tế
xã hội, vừa là phương tiện để đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng văn minh”. Muốn đạt được mục tiêu này cần trước hết xóa bỏ đói
nghèo và lạc hậu, hơn nữa xét cho tới cùng thì sự phát triển kinh tế là nhằm
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho con người, do đó Đảng và Nhà
nước ta hết sức quan tâm đến chính sách xã hội đặc biệt là xóa đói giảm
nghèo. Để tập trung các nguồn lực và triển khai đồng bộ, thống nhất có hiệu
quả các giải pháp, Đảng ta đã đưa xóa đói giảm nghèo trở thành chương trình
mục tiêu quốc gia phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước nhằm hỗ trợ trực tiếp các xã nghèo, hộ nghèo các điều kiện cần thiết để
phát triển sản xuất, tăng thu nhập, ổn định đời sống, tự vươn lên thoát khỏi
đói nghèo. Tháng 7 năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã chính thức phê duyệt
và triển khai chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo nhằm xóa bỏ
đói nghèo và lạc hậu trong cả nước, góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới
đất nước.
Vấn đề chính sách xã hội nói chung và chính sách xóa đói giảm nghèo ở
Việt Nam nói riêng đã có sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả trong và
1
ngoài nước. Tuy nhiên nghiên cứu về xóa đói giảm nghèo ở những địa
phương cụ thể để thấy được quá trình triển khai ở cấp địa phương như thế
nào, những ưu điểm, hạn chế, đánh giá tác động của quá trình này vẫn là cần
thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn hiện nay.
Tam Nông là một huyện bán trung du miền núi nằm ở phía Đông Nam
của tỉnh Phú Thọ với diện tích tự nhiên khoảng 15.596,92 ha, tổng dân số
77.067 người1 chủ yếu là người dân tộc Kinh, ngoài ra còn có các dân tộc
Thái, Dao, Mường và một số dân tộc khác. Đồng bào theo đạo chiếm 15,9%
trong đó: Đạo Thiên Chúa chiếm 7,4%, đạo Phật chiếm 8,5%. Điều kiện tự
nhiên còn gặp nhiều khó khăn, khắc nghiệt, trình độ dân trí còn thấp, việc
chăm sóc sức khỏe cho nhân dân còn kém, tốc độ tăng dân số còn cao, điều
kiện cơ sở vật chất hạ tầng như điện, đường, trường, trạm… còn thiếu và yếu.
Những điều đó, đã làm cho nền kinh tế của huyện chậm phát triển, sản xuất
chủ yếu là tự cung, tự cấp. Do vậy, xóa đói giảm nghèo được coi là nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
Quán triệt quan điểm chỉ đạo, phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp
chủ yếu của Nghị quyết. UBND huyện đã ban hành Quyết định thành lập
BCĐ chương trình giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010, xây dựng chương trình
xoá đói giảm nghèo của huyện.
Là một người con của vùng đất Tổ, sinh ra và lớn lên tại huyện Tam
Nông, bản thân tác giả đã có những hiểu biết cụ thể về cuộc sống của người
dân địa phương. Nơi đây đời sống người dân còn gặp nhiều khó khăn vất vả,
còn rất nhiều những cảnh người cơ cực sống trong tình trạng nghèo đói, thiếu
ăn không có nhà ở phải dựa vào sự giúp đỡ của Đảng và Nhà nước. Với
những chính sách hỗ trợ xóa đói giảm nghèo đã có hiệu quả thiết thực, tác
động trực tiếp tới đời sống nhân dân: đã có rất nhiều những hộ dân tích cực
1
Theo số liệu niên giám thống kê huyện Tam Nông 2013 tính đến 31/12/2013.
2
xây dựng kinh tế giỏi góp phần xây dựng địa phương ngày một giàu đẹp hơn.
Xuất phát từ những lý do trên cùng với tình yêu mến, gắn bó với nơi này tác
giả đã lựa chọn nghiên cứu quá trình xóa đói giảm nghèo của huyện Tam
Nông trong vòng 10 năm (2006 -2015) để làm rõ những chủ trương, đường lối
trong công tác triển khai, thực hiện quá trình xóa đói giảm nghèo. Để từ đó
thấy được những thành tựu và hạn chế, qua đó đưa ra một số kiến nghị, rút ra
được những đặc điểm, tác động của công tác xóa đói giảm đến đời sống kinh
tế, văn hóa - xã hội của huyện Tam Nông. Vì vậy mà tác giả đã quyết định lựa
chọn đề tài “Quá trình xóa đói giảm nghèo ở huyện Tam Nông (Phú Thọ)
trong những năm 2006 - 2015” làm đề tài nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp
của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghèo đói là một trong năm vấn đề lớn có tính cấp thiết toàn cầu. Vì
vậy liên quan đến đề tài xóa đói giảm nghèo đã có nhiều những công trình
nghiên cứu trên phạm vi cả nước, các địa phương và tỉnh Phú Thọ, trong đó
tiêu biểu như:
Công trình nghiên cứu khoa học: “Chính sách xóa đói giảm nghèo,
thực trạng và giải pháp”, Lê Văn Quý (chủ biên), nhà xuất Chính trị quốc
gia, năm 2012. Công trình này tập trung nghiên cứu thực trạng đói nghèo ở
Việt Nam, những chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước
về công cuộc đổi mới chống đói nghèo, những thành tựu và hạn chế trong
thực thi chính sách xóa đói, giảm nghèo. Từ đó đề xuất định hướng và mục
tiêu, cơ chế và chính sách, những giải pháp để xóa đói, giảm nghèo, phát
triển cho giai đoạn tiếp theo.
Đề tài nghiên cứu: “Xóa đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số nước ta
hiện nay - thực trạng và giải pháp”, Hà Quế Lâm, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội (2002). Công trình phân tích những đặc điểm về địa lý, văn
hóa, kinh tế ở những vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, khái quát tình
3
trạng đói nghèo và thực trạng xóa đói giảm nghèo ở những vùng này trong
những năm cuối thế kỉ XX (1992 - 2000); đồng thời nêu những khuyến nghị
về định hướng và một số giải pháp xóa đói giảm nghèo cho đồng bào dân tộc
thiểu số.
Khóa luận tốt nghiệp: “Đảng bộ tỉnh Yên Bái lãnh đạo công tác xóa đói
giảm nghèo trong những năm đổi mới (2001-2010)” của tác giả Nguyễn Thị
Đào trường ĐHSP Hà Nội 2, tập trung nghiên cứu về thành tựu, hạn chế trong
công tác xóa đói giảm nghèo để từ đó nêu ra một số giải pháp để đẩy mạnh
xóa đói giảm nghèo của Tỉnh Yên Bái trong thời gian tới.
Khóa luận tốt nghiệp: “Phát triển kinh tế với việc xóa đói giảm nghèo ở
huyện Thanh Sơn - Phú Thọ”của tác giả Sa Thị Quyết trường Đại học kinh tế
quốc dân. Ở đề tài này tác giả chủ yếu đề cập vấn đề xóa đói giảm nghèo kết
hợp với phát triển kinh tế trên phạm vi một huyện.
Khóa luận tốt nghiệp: “Đảng bộ huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ lãnh đạo
xóa đói giảm nghèo từ năm 2001 - 2010” của tác giả Đỗ Thu Hà trường
ĐHSP Hà Nội 2. Đề tài này tác giả nghiên cứu dưới góc độ lịch Đảng để từ
đó rút ra những nhận xét chung và bài học kinh nghiệm cho huyện Hạ Hòa.
Ngoài ra còn có các báo cáo về công tác xóa đói giảm nghèo của huyện
Tam Nông, phòng LĐTB&XH huyện Tam Nông, Lịch sử Đảng bộ huyện
Tam Nông, các báo cáo của phòng lao động, sở LĐTB&XH tỉnh Phú Thọ…
Tuy nhiên các nguồn tài liệu trên chủ yếu là tập trung vào việc báo cáo
những thành tựu, hạn chế trong quá trình thực hiện công tác xóa đói giảm
nghèo chung của cả nước và các tỉnh, huyện lân cận của huyện Tam Nông để
từ đó tìm ra nguyên nhân của những hạn chế, rút ra bài học kinh nghiệm để
khắc phục những tồn tại nêu trên. Chưa có nguồn tài liệu và đề tài nào đề cập
đến một cách hệ thống và nổi bật được chủ trương, đường lối của huyện Tam
Nông trong công tác xóa đói giảm nghèo trong những năm 2006 - 2015. Đặc
4
biệt chưa có công trình nào đưa ra những đánh giá, nhận xét, đặc điểm, tác
động của công tác xóa đói giảm nghèo đến tình hình kinh tế, văn hóa -xã hội
huyện Tam Nông mà đề tài khóa luận đặt ra.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Qúa trình xóa đói giảm nghèo ở huyện Tam Nông (Phú Thọ) trong
những năm 2006 - 2015
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ
Phạm vi thời gian: giai đoạn 2006 - 2015.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu vấn đề
Góp phần tích cực vào công tác xóa đói giảm nghèo tại huyện Tam
Nông, nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, đưa huyện nhanh chóng
vươn lên thoát nghèo bền vững, trở thành huyện công nghiệp vào năm 2020.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu vấn đề
- Làm rõ quá trình thực hiện xóa đói giảm nghèo ở huyện Tam Nông,
(Phú Thọ) trong những năm 2006 - 2015
- Làm rõ đặc điểm và sự tác động của quá trình xóa đói giảm nghèo ở
huyện Tam Nông tới tình hình kinh tế, văn hóa - xã hội ở địa phương.
- Đưa ra một số khuyến nghị nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại
trong công tác xóa đói giảm nghèo tại Tam Nông.
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu
Nguồn tư liệu được sử dụng trong khóa luận tốt nghiệp chủ yếu là:
- Các văn kiện, Nghị quyết của Trung ương Đảng, tỉnh Phú Thọ và Đảng
bộ huyện Tam Nông về xóa đói giảm nghèo để nói được chủ trương trong
công tác xóa đói giảm nghèo ở mỗi chương.
5
- Các sách thông sử và lịch sử Đảng bộ huyện Tam Nông.
- Các bài viết, báo cáo tổng kết hàng năm, báo cáo tổng kết từng giai
đoạn của phòng Lao động - Thương binh và xã hội tỉnh Phú Thọ và huyện
Tam Nông, về xóa đói giảm nghèo.
- Tài liệu thống kê của phòng thống kê huyện Tam Nông.
- Các kênh thông tin đại chúng, báo đài của chính phủ và điạ phương
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận sử học của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Sử dụng phương pháp: Phương pháp Lịch sử, phương pháp logic,
phương pháp thống kê, sưu tầm tài liệu, phương pháp tổng hợp, phân tích, so
sánh, điền dã. Trong đó phương pháp lịch sử và logic là chủ yếu.
6. Đóng góp của khóa luận
- Đề tài làm sáng tỏ quá trình triển khai cụ thể xóa đói giảm nghèo ở địa
phương phù hợp với đặc điểm về điều kiện tự nhiên, dân cư, tôn giáo ở huyện
Tam Nông, tỉnh Phú Thọ trong những năm đổi mới 2006 - 2015. Qua đó tác
giả đưa ra những đặc điểm nổi bật trong công tác xóa đói giảm nghèo huyện
Tam Nông, có sự nhận xét bước đầu và rút ra những tác động tới đời sống
kinh tế, văn hóa - xã hội. Bên cạnh đó tác giả còn đưa ra một số khuyến nghị
nhằm khắc phục những hạn chế trong công tác thực hiện xóa đói giảm nghèo
tại Tam Nông. Đây có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan, chính
quyền ở huyện Tam Nông cũng như các địa phương khác trong công tác xã
hội, đặc biệt là xóa đói giảm nghèo trong thời gian tới.
- Nguồn tư liệu phong phú và hệ thống được trình bày trong khóa luận có
thể giúp cho các nhà nghiên cứu lịch sử ở địa phương tham khảo.
6
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phụ lục và tài liệu tham khảo, khóa luận gồm có
3 chương:
Chương 1: Quá trình xóa đói giảm nghèo ở huyện Tam Nông từ năm
2006 đến năm 2010
Chương 2: Quá trình xóa đói giảm nghèo ở huyện Tam Nông giai đoạn
2011 - 2015
Chương 3: Đặc điểm và tác động của công tác xóa đói giảm nghèo ở
huyện Tam Nông
7
Chƣơng 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HUYỆN TAM NÔNG, TỈNH PHÚ THỌ
1.1. Điều kiện tự nhiên và dân cƣ
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
1.1.1.1. Vị trí địa lý và địa giới hành chính
Vị trí địa lý
Tam Nông là một huyện bán trung du miền núi (nơi chuyển tiếp giữa
đồng bằng và miền núi), nằm ở phía Đông Nam của tỉnh Phú Thọ. Nằm cạnh
sông Thao, r1anh giới tự nhiên với thị xã Phú Thọ ở phía Bắc và huyện Lâm
Thao về phía Đông Bắc. Phía Đông Nam giáp với sông Đà, là danh giới tự
nhiên với Hà Nội (Hà Tây cũ); phía Tây Nam giáp huyện Thanh Thủy và
huyện Thanh Sơn; phía Tây Bắc giáp với huyện Thanh Ba và huyện Cẩm
Khê, danh giới tự nhiên là sông Hồng, sông Bứa và sông Đà nằm về phía
Đông Nam của tỉnh. Huyện Tam Nông có diện tích tự nhiên là 15.596,92ha
chiếm 4,43% diện tích tỉnh Phú Thọ, trong đó có 20 đơn vị hành chính bao
gồm 19 xã và 1 thị trấn với số dân 77.067, mật độ dân số trung bình là 528
người/km2 người [20].
Tam Nông là vùng đầu mối giao thông thủy, bộ nối vùng hợp lưu của
sông Hồng và sông Đà, Bắc Trung Bộ, đồng bằng châu thổ sông Hồng với các
tỉnh Tây Bắc… Do đó, từ xa xưa vùng đất này có vị trí rất quan trọng về kinh
tế và quốc phòng. Thị trấn Hưng Hóa là trung tâm kinh tế - chính trị của
huyện, nơi đây đã từng có vị trí quan trọng trong lịch sử dựng nước và giữ
nước, là nơi đặt trụ sở hành chính của tỉnh lỵ qua nhiều thời kì.
Thời gian gần đây huyện Tam Nông còn vinh dự khởi công xây dựng
tuyến đường Hồ Chí Minh đi qua địa bàn huyện với chiều dài 30,7km. Điều
này đáp ứng nhu cầu vận tải ngày càng tăng cao, giảm ùn tắc và tai nạn giao
8
thông, góp phần quan trọng phục vụ phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh
quốc phòng trong khu vực dự án, tỉnh Phú Thọ nói riêng và vùng kinh tế
trọng điểm Bắc Bộ nói chung. Với những điều kiện thuận lợi đó, Tam Nông
ngày càng chứng tỏ được vị trí quan trọng của mình trong sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
Địa giới hành chính
Tam Nông là một vùng đất cổ, trải qua các thời kì lịch sử, địa danh và
địa giới hành chính của huyện đã có nhiều thay đổi. Trong thời kì các vua
Hùng dựng nước, địa bàn huyện thuộc vùng trung tâm quốc gia Văn Lang Nhà nước đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Trong thời kì nước ta bị phong kiến
phương Bắc đô hộ (từ thế kỉ II TCN đến thế kỉ thứ X), Tam Nông thuộc
huyện Mê Linh và sau đó thuộc quận Giao Chỉ, Tân Xương và Phong Châu.
Thời nhà Lý (thế kỉ thứ XVI - XVIII), nhà nước phong kiến tự chủ bắt đầu
xây dựng nề nếp chính quy, sửa lại tên nước, chia khu vực hành chính thành
24 lộ, phủ, châu, dưới là hương, giáp, thôn. Vùng trung du và miền núi chia
thành châu, trại. Tam Nông lúc đó thuộc châu Chân Đăng. Thời nhà Trần,
Tam Nông lúc đó thuộc bộ Tam Giang, châu Đà Giang tên gọi của huyện là
Cổ Nông. Thời nhà Lê (triều Lê Thánh Tông) nước ta chia làm 13 đạo, sau
đổi thành xứ, trấn, dưới là phủ, huyện (miền núi đặt là châu), địa bàn huyện
Tam Nông nằm trong trấn Sơn Tây, phủ Lâm Thao. Đời vua Lê Vĩnh Thịnh
(1705-1720) đổi tên huyện Cổ Nông thành huyện Tam Nông. Thời nhà
Nguyễn cả nước chia làm 30 tỉnh, dưới tỉnh chia ra phủ, huyện rồi đến tổng,
xã, làng. Huyện Tam Nông thuộc tỉnh Sơn Tây về sau thuộc tỉnh Hưng Hóa.
Tỉnh lỵ của tỉnh Hưng Hóa lúc đầu đặt trên đất Trấn Yên - Yên Bái, đến đầu
thời Nguyễn (1830) dời về làng Trúc Phê (còn gọi là Trúc Khê), thị trấn Hưng
Hóa ngày nay. Hưng Hóa tỉnh lỵ thời phong kiến Nguyễn là một trong ba
trung tâm văn hóa sầm uất của tỉnh lúc đó (thị xã Phú Thọ, thị trấn Việt Trì,
9
thị trấn Hưng Hóa).
Sau khi đánh chiếm xong các tỉnh Bắc Kỳ, thực hiện chính sách “chia để
trị”, thực dân Pháp chia nhỏ, điều chỉnh một số tỉnh, huyện cũ, đặt cấp phủ
ngang huyện, lập các trung tâm cai trị mới. Ngày 08 tháng 09 năm 1891, toàn
quyền Đông Dương ra nghị định thành lập tỉnh Hưng Hóa mới gồm các huyện
Tam Nông, Thanh Thủy (của tỉnh Hưng Hóa cũ), Sơn Vi, Thanh Ba, Phù
Ninh (thuộc Phú Lâm Thao, tỉnh Sơn Tây). Tỉnh lỵ của tỉnh Hưng Hóa đặt ở
Trúc Phê ( thuộc huyện Tam Nông ngày nay cách Hà Nội 72km về phía Tây
Bắc). Trong thời kì Pháp thuộc này Tam Nông còn có nhiều lần thay đổi về
tên gọi và địa giới hành chính khác nhau [3; tr.19].
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, về mặt hành chính, Nhà
nước ta bỏ cấp tổng, phủ, châu gọi chung là huyện và tiến hành hợp nhất các
làng nhỏ thành xã lớn. Huyện Tam Nông đã tiến hành đợt liên xã đầu tiên
được thực hiện năm 1946, các làng cũ thuộc 5 tổng được phân chia thành 10
xã với 36 thôn, gần 32.000 dân.
Ngày 01 tháng 10 năm 1947, Hội đồng chính phủ (nay là Chính phủ) ra
Sắc lệnh số 91/SL thành lập khu 14 và quyết định 5 huyện hữu ngạn sông
Thao là Cẩm Khê, Tam Nông, Thanh Thủy, Thanh Sơn, Yên Lập được sát
nhập vào. Khu XIV không thuộc tỉnh Phú Thọ. Đến tháng 02 năm 1948, Khu
XIV hợp nhất với Khu X thành Liên Khu V; như vậy huyện Tam Nông trở về
thuộc tỉnh Phú Thọ. Thời kì cải cách ruộng đất và sửa sai (1954 - 1957) các
xã lại có sự điều chỉnh, chia tách toàn huyện thành 19 xã. Đến tháng 08 năm
1964, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân địa phương, Bộ nội vụ ra quyết
định cho 13 xã của huyện Tam Nông đổi tên mới.
Ngày 26 tháng 01 năm 1968, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra quyết định sát nhập hai tỉnh Phú Thọ và Vĩnh
Phúc thành tỉnh Vĩnh Phú. Đến ngày 05 tháng 07 năm 1977 Hội đồng Chính
10
phủ ra quyết định hợp nhất hai huyện Tam Nông và Thanh Thủy thành huyện
mới là huyện Tam Thanh bao gồm 35 xã, trụ sở huyện đặt tại thị trấn Hưng
Hóa. Tiếp đến ngày 24 tháng 07 năm 1999, Chính phủ ra nghị định chia tách
2 huyện hợp nhất còn lại của tỉnh Phú Thọ là Phong Châu và Tam Thanh.
Huyện Tam Nông được tái thiết lập và địa giới lại trở về như cũ với 1 thị trấn
và 19 xã (đi vào hoạt động từ ngày 1/9/1999) [3; tr.11].
Hiện nay huyện Tam Nông vẫn giữ nguyên địa giới hành chính như năm
1999 với 19 xã và 1 thị trấn, trong đó bao gồm: thị trấn Hưng Hóa (trung tâm
kinh tế - chính trị, văn hóa xã hội của huyện) và các xã: Vực Trường, Hương
Nha, Hiền Quan, Tứ Mỹ, Thanh Uyên, Tam Cường, Văn Lương, Xuân
Quang, Cổ Tiết, Quang Húc, Hùng Đô, Tề Lễ, Thọ Văn, Hương Nộn, Dị Nậu,
Dậu Dương, Hồng Đà, Phương Thịnh, Thượng Nông.
1.1.1.2. Địa hình
Nhìn tổng thể địa hình của huyện Tam Nông phần lớn là đồi núi thấp,
xen kẽ có các dộc ruộng, đột xuất có các núi cao như núi Chi, đèo Khế phía
Tây Nam và một số đầm lầy nước. Dựa vào điều kiện địa lý có thể chia đất
đai của huyện thành 2 vùng: vùng đất thấp và vùng đồi núi.
Vùng đất thấp: bao gồm các xã nằm dọc sông Hồng và sông Bứa, đặc
điểm của vùng đất này là những cánh đồng có chiều ngang hẹp, tạo thành một
vệt dài theo bờ sông từ sông Đà đến các xã Thượng Nông, Dậu Dương, thị
trấn Hưng Hóa, Hương Nộn, Cổ Tiết, Tam Cường, Thanh Uyên, Hiền Quan,
Hương Nha, Vực Trường, Tứ Mỹ và dọc theo sông Bứa gồm các xã: Hùng
Đô, Quang Húc, Tề Lễ. Các cánh đồng trên hầu hết đều do phù sa sông Hồng,
sông Bứa bồi tụ qua nhiều năm trước khi có đê chắn, tạo thành lớp đất tương
đối màu mỡ, thuận lợi cho cây lúa, hoa màu và cây lương thực.
Vùng đồi núi: Được chia thành 2 khu vực đồi núi thấp và đồi núi cao.
Vùng đồi núi thấp nằm ở phía Tây Bắc huyện, có đỉnh tròn mấp mô như làn
11
sóng nối tiếp nhau thuộc địa bàn các xã Cổ Tiết, Văn Lương. Thanh Uyên,
Hiền Quan, Hương Nha, Tứ Mỹ, Xuân Quang, Phương Thịnh , Quang Húc.
Vùng đồi núi cao nằm ở phía Tây Nam huyện thuộc địa bàn các xã: Dị
Nậu, Thọ Văn, Tề Lễ, bao gồm nhiều gò, đồi nhấp nhô, có những điểm đột
xuất như núi Chi (cao 216m), Đèo Khế (cao 117m) và các dãy đồi chạy dọc
theo dãy núi Càng Cua từ đầm Dị Nậu qua đường 24 đến Dộc Vừng.
Như vậy, Tam Nông có địa hình cấu tạo khá đa dạng, phức tạp. Vừa có
đồng bằng phù sa ven sông bồi đắp, lại có các đồi núi mấp mô như làn sóng
tạo nên những đặc điểm riêng ở mỗi vùng trong huyện, từ đó có những điều
kiện phát triển thế mạnh riêng ở mỗi địa phương trên địa bàn huyện.
1.1.1.3. Khí hậu
Tam Nông là huyện nằm giữa khu vực đồng bằng và đồi núi, mang đặc
điểm chung của khí hậu miền trung du Bắc Bộ, thuộc khu vực có khí hậu
nhiệt đới gió mùa.
Mùa hè thường nắng nóng, chịu ảnh hưởng của gió phơn Tây Nam nên
khô nóng (có khi tới 40oC, độ ẩm chỉ còn 50-60%). Thời tiết trong ngày này
thường rất khô nóng, bầu trời không một gợn mây, trời nắng chói chang, gió lại
thổi đều đều như quạt lửa, cây cỏ vào những ngày này thường bị héo, ao hồ cạn
kiệt nước và gia súc bị ngột ngạt dễ gây ra hỏa hoạn trong những ngày này.
Mùa đông ở nhiều vùng trong huyện thường có sương mù, sương muối,
vào sáng sớm thường hanh, khô, lượng mưa thấp chỉ chiếm khoảng 15-20%
lượng mưa cả năm. Gió mùa Đông Nam bắt đầu thổi từ tháng 4 đến tháng 11
trong năm, tạo ra sự mát mẻ trên nhiều vùng địa bàn, thuận tiện cho việc trồng
trọt và canh tác [3; tr.18].
Với lượng bức xạ phong phú, nền nhiệt tương đối cao, lượng mưa khá
nhiều đã là những điều kiện thuận lợi giúp cây trồng phát triển, cây công
12
nghiệp dài ngày và cây lương thực ngắn ngày quay vòng nhanh, du lịch, giao
thông vận tải có thể hoạt động quanh năm… Tuy nhiên bên cạnh những thuận
lợi đó địa phương cũng gặp phải nhiều khó khăn do đặc điểm thời tiết gây ra
như sương muối vào mùa đông, gió lốc và gió tây khô nóng vào mùa hè gây
nên những ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe con người và sự phát triển
kinh tế ở đây.
1.1.2.4. Thổ nhưỡng
Theo số liệu “Niên giám thống kê” của tỉnh Phú Thọ năm 2000, toàn
huyện Tam Nông có 15.551,34 ha đất tự nhiên, trong đó có 6.476,44 ha,
chiếm 42%; đất lâm nghiệp, rừng 3.018,46 ha, chiếm 10%; đất ở 402,6 ha
chiếm 3%, còn lại 4.244,86ha là đất chưa sử dụng và sông suối. Bình quân
diện tích đất tự nhiên là 1.981m2/người, bình quân đất nông nghiệp là
812m2/người, thấp hơn so với bình quân trung bình toàn tỉnh.
Đất đai vùng gò đồi Tam Nông vừa là đất gạch cua, vừa là đất cát tro,
phủ lên mặt từ 20 đến 30cm, xuống dưới là đất gạch cua pha sỏi có lẫn đá
ong, kém màu mỡ thích hợp với trồng các cây công nghiệp dài ngày như: sơn,
trẩu, cọ, chè…Xét sơ lược về cấu tạo địa chất, Tam Nông nằm trên vùng đất
tiền Cambri, phổ biến là các đá biến chất của phức hệ sông Hồng và các đá
biến chất tuổi Thái cổ và đại nguyên sinh, tồn tại ít nhất cũng trên 120 triệu
năm, có cấu trúc bên trong rất ổn định, bền vững. Trong lòng đất thuộc bộ
phận Tam Nông, một lượng than bùn tương đối phong phú. Ven sông Hồng
có chứa lượng đất sét, cát đen dồi dào dùng làm vật liệu xây dựng rất tốt.
1.1.1.5. Thủy văn
Chế độ thủy văn của Tam Nông tương đối phong phú nhờ có 3 con sông:
sông Hồng, sông Đà, sông Bứa; hàng chục con ngòi và một số đầm hồ lớn.
Sông Hồng chảy qua địa bàn huyện bắt đầu từ xã Tứ Mỹ (giáp huyện Cẩm
Khê) rồi nhập vào sông Đà ở xã Hồng Đà, theo hướng Tây Bắc - Đông Nam,
13
tạo thành một vòng cung dài trên 32km. Mực nước và tốc độ dòng chảy thay
đổi theo hai mùa rõ rệt. Chiều sâu của các con sông mùa cạn 2 đến 3m, mùa
lũ từ 10 - 15m, do đó thuyền bè có thể đi lại trên sông quanh năm. Địa bàn hai
bên bờ sông hạ thấp dần và thường bị nước lũ tràn ngập, tốc độ dòng chảy lúc
cao nhất lên tới 9.800m3/giây gây thiệt hại nhiều về người và của nên từ xa
xưa nhân dân đã đắp đê phòng lụt. Sông Hồng là con sông có độ phù sa lớn
nhất Bắc Bộ, có tới 7,66 kg/1m3 nước. Hằng năm, sau mùa mưa lũ nước rút đi
để lại trên đồng ruộng một lớp phù sa màu mỡ dày từ 10 - 15cm, rất thích hợp
với trồng cây lương thực và trồng cây hoa màu. Song do sức tàn phá của mưa
lũ rất lớn, nhân dân phải tôn tạo mặt đê ngăn chặn lũ lụt, vì vậy lượng phù sa
hằng năm bồi đắp cho Tam Nông bị hạn chế rất nhiều.
Sông Đà (thời Pháp thuộc có tên là sông Đen), phát nguyên từ Trung
Quốc có độ cao 5.000m chảy theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, đến Hòa Bình
gặp núi Ba Vì chặn lại, dòng sông quặt lên phía Bắc và chạy dọc qua huyện
Thanh Sơn, Thanh Thủy, sau đó đổ bộ vào sông Hồng ở xã Hồng Đà huyện
Tam Nông. Đoạn chảy qua huyện Tam Nông chỉ là hợp lưu của sông Hồng và
sông Đà nhưng lưu lượng trung bình của sông Đà rất lớn, tới 1760m3/giây, về
mùa mưa sông Đà cũng đỏ ngầu phù sa như sông Hồng, thường gây nên lũ
lụt, ngập úng cho nhiều vùng, làm thiệt hại rất nhiều về người và tài sản.
Ngoài 2 con sông trên Tam Nông còn được thiên nhiên ban tặng cho con
sông Bứa bắt nguồn từ Sơn La. Con sông này hầu như nằm hoàn toàn trong
tỉnh Phú Thọ, chảy qua 8 xã của huyện Thanh Sơn rồi đổ bộ vào Tam Nông
qua các xã: Tề lễ, Quang Húc, Hùng Đô đến Tứ Mỹ đổ vào sông Thao. Về
mùa khô dòng sông hẹp có chỗ chỉ còn 80m, nhưng về mùa mưa nước đột
xuất lên rất nhanh, lưu lượng cao nhất có thể đạt 1.690m3/giây, nhưng cũng
rút rất nhanh. Sông này ít phù sa chủ yếu là cung cấp nước tưới cho trồng trọt
và giao thông vận chuyển hàng hóa trên sông.
14
- Xem thêm -