Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Qua phân tích một số phán quyết của tòa án công lý quốc tế, chứng minh rằng phán...

Tài liệu Qua phân tích một số phán quyết của tòa án công lý quốc tế, chứng minh rằng phán quyết của tòa là nguồn bổ trợ quan trọng góp phần hình thành hoặc giả

.DOCX
9
119
61

Mô tả:

MỤC LỤC Trang 1 1 A. MỞ ĐẦU. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. I. Phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế là phương tiện bổ trợ nguồn của Luật Quốc tế. II. Phán quyết của Tòa là nguồn bổ trợ quan trọng góp phần hình 1 thành hoặc giải thích, làm sáng tỏ các quy phạm luật quốc tế. 1. Phán quyết thềm lục địa Biển Bắc (Cộng hòa Liên bang 2 Đức/Đan Mạch, Cộng hòa Liên ban Đức/Hà Lan) năm 1969 liên quan đến nguyên tắc công bằng trong phân định biển. 2. Đền Préah – Vihéar (Camphuchia kiện Thái Lan). 3. Các hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragoa và chống 3 4 lại Nicaragoa (Nicaragoa kiện Mỹ). C. KẾT LUẬN. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 5 7 8 A. MỞ ĐẦU. Tòa án Công lý quốc tế (TACLQT) là một trong sáu cơ quan chính của Liên hợp quốc. Tòa án Công lý quốc tế là cơ quan tài phán chính của Liên hợp quốc. Tòa án Công lý quốc tế được thành lập và hoạt động dựa trên cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc và Quy chế Tòa án Công lý quốc tế. Cùng với Hiến chương và Quy chế, cơ sở pháp lý để tòa tiến hành các hoạt động còn bao gồm Nội quy của tòa. Đề hiểu rõ hơn vai trò của Tòa, đặc biệt là các phán quyết của Tòa sau đây em xin đi tìm hiểu về đề tài: “Qua phân tích một số phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế, chứng minh rằng phán quyết của Tòa là nguồn bổ trợ quan trọng góp phần hình thành hoặc giải thích, làm sáng tỏ các quy phạm luật quốc tế”. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. I. Phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế là phương tiện bổ trợ nguồn của Luật Quốc tế. Trong đời sống quốc tế, tồn tại nhiều loại Tòa án khác nhau như: Tòa án Công lý quốc tế của Liên hợp quốc, Tòa án Liên minh Châu Âu, Tòa án Luật biển… Tuy nhiên, khi nói đến phán quyết của Tòa án với vai trò là nguồn bổ trợ của Luật Quốc tế, chúng ta chủ yếu đề cập đến các phán quyết của TACLQT. Trong học thuyết về Luật quốc tế ở phương Tây thường có quan điểm đề cao quá mức vai trò của các quyết định của quyết định của tòa án và trọng tài, xuất phát từ việc đề cao vai trò của án lệ đã kiên trì quan điểm cho rằng phán quyết của Tòa án là nguồn của LQT vì chứa đựng quy phạm pháp luật. Lập luận này đã trái với Điều 38 của Quy chế Tòa án Liên hợp quốc, rằng “phán quyết của tòa án được coi là phương tiện bổ trợ để xác định quy phạm pháp luật”. Trong thực tiễn giải quyết tranh chấp quốc tế, việc xác định quy tắc xử sự nào đó là quy phạm tập quán thật rất khó khăn phức tạp vì nó không được ghi nhận chính thức trong một văn kiện pháp lý nào. Trong khi đó các quốc gia khi đưa tranh chấp ra giải quyết trước Tòa án quốc tế thường yêu cầu Tòa chỉ ra các quy phạm pháp lý ràng buộc mình (cả Quy phạm Điều ước và Quy phạm Tập quán). 1 Thực tiễn cho thấy có nhiều QPĐƯ và QPTQ do TACLQT viện dẫn, chỉ rõ trong phán quyết của mình và được coi là cơ sở cho việc giải quyết tranh chấp ở các vụ việc sau. Như vậy, theo Quy chế của mình, ta khi giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia có nguyên tắc áp dụng các phán quyết trước đó của Tòa với tư cách là phương tiện để xác định rõ quy phạm LQT liên quan đến các bên tranh chấp, giúp cho việc đưa ra các quyết định mới một cách đúng đắn. Trong thực tiễn hoạt động của mình, Tòa án không chỉ xác nhận sự tồn tại thực tế của TQQT mà còn đưa ra nhiều định nghĩa và nguyên tắc mới, trở thành cơ sở của Luật tập quán và Luật điều ước. Như vậy mặc dù phán quyết của TACLQT có vai trò và ý nghĩa to lớn trong quá trình hình thành và phát triển của LQT cũng như trong thực tiễn quốc tế, chúng ta vẫn khẳng định các phán quyết của Tòa không phải là nguồn của LQT. Không được coi là nguồn vì tự bản thân các phán quyết của Tòa không phát sinh ra quy phạm pháp lý có giá trị bắt buộc các chủ thể phải tuân theo. Các quyết định này chỉ là phương tiện hỗ trợ cần thiết để xác định sự đúng sai của các quốc gia khi áp dụng QPLQT cụ thể nào đó. Nói cách khác, phán quyết của TACLQT chỉ là phương tiện để giải thích một cách chính xác và bảo vệ sự đúng đắn của quy phạm LQT. Đồng thời các phán quyết lại là phương tiện để chỉ rõ, xác định sự tồn tại thực tế của QPTQQT. II. Phán quyết của Tòa là nguồn bổ trợ quan trọng góp phần hình thành hoặc giải thích, làm sáng tỏ các quy phạm luật quốc tế Trong thực tiễn hoạt động của Tòa đã có 148 vụ tranh chấp được đưa ra trước Tòa (tính đến tháng 6/2010). Trong đó có khoảng 120 vụ tranh chấp đã được Tòa phân xử, trong số 148 vụ tranh chấp mà tòa có thẩm quyền giải quyết, 1/3 thông qua điều khoản thỏa thuận trong điều ước quốc tế, 1/3 qua cơ chế tuyên bố đơn phương chấp nhận trước thẩm quyền của tòa và 1/3 theo cơ chế chấp nhận thẩm quyền của tòa theo từng vụ việc. Nhiều phán quyết của 2 TACLQT đã có ý nghĩa rất quan trọng, nó không chỉ dàn xếp được tranh chấp mà còn có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hình thành cũng như viện dẫn áp dụng QPĐƯ và QPTQ. 1. Phán quyết thềm lục địa Biển Bắc (Cộng hòa Liên bang Đức/Đan Mạch, Cộng hòa Liên ban Đức/Hà Lan) năm 1969 liên quan đến nguyên tắc công bằng trong phân định biển. * Sự kiện: Ngày 20/2/1967, hai thỏa thuận thỉnh cầu đã được đăng ký tại Tòa, một do CHLB Đức và Đan Mạch thỏa thuận, một do CHLB Đức và Hà Lan thỏa thuận đưa ra tranh chấp trước tòa. Cả hai tranh chấp này đều liên quan đến việc phân định thềm lục địa biển Bắc giữa các bên hữu quan. Quyết định ngày 26/4/1968, trên cơ sở nhận xét Đan Mạch và Hà Lan có cùng một yêu cầu. Tòa đã quyết định kết hợp hai vụ kiện này làm một, trong cùng một quá trình tố tụng. Cả hai thỏa thuẩn thỉnh cầu đều đề nghị Tòa tuyên bố các nguyên tắc và quy phạm của LQT có thể áp dụng cho việc phân định giữa các bên vùng Thềm lục địa Biển Bắc thuộc mỗi nước. Tòa được yêu cầu xác định đâu là những nguyên tắc và những quy định của LQT được áp dụng. * Nội dung Phán quyết của Tòa án ngày 20/2/1969: Tòa nêu ra một số khả năng áp dụng nguyên tắc công bằng, lưu ý phải xem xét để bảo đảm các quốc gia sẽ áp dụng cá phương thức công bằng một cách tự do, không có giới hạn, từ đó tìm ra một sự cân bằng hợp lý. Các phương pháp được chọn lựa có thể dẫn tới sự chồng lấn các vùng biển. Tòa cho rằng cần phải cấp nhận hoàn cảnh này như là một hệ quả và có thể giải quyết hoặc bằng việc phân chia các vùng chồng lấn bằng con đường thỏa thuận, nếu không có thỏa thuận thì bằng cách phân chia thành các phần đều nhau, hoặc bằng các thỏa thuận khai thác chung, giải pháp cuối đặc biệt có vẻ thích hợp cho việc duy trì thống nhất chung của mỏ. * Ý nghĩa của phán quyết: 3 Thứ nhất, trong phán quyết lịch sử của mình Tòa án đã khôi phục và phát triển thêm nguyên tắc kéo tự nhiên đã được Tuyên bố Truman và công việc chuản bị của Ủy ban Luật Quốc tế cho Hội nghị lần thứ nhất của LHQ về luật biển. Đối với Tòa không phải tính tiếp giáp cũng không phải tính kề cận có thể chứng minh cơ bản cho việc mở rộng thẩm quyền quốc gia trên thềm lục địa nằm ngoài lãnh hải mà chính là khả năng sự kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền ra biển đã mang lại danh nghĩa chủ quyền cho quốc gia ven biển trên phần thềm lục địa đó. Tòa đã nêu ra được nguyên tắc: “đất thống trị biển”. Chính chủ quyền của quốc gia ven biển trên lãnh thổ đã ipso facto một cách đương nheien đem lại chủ quyền cho họ trên phần thềm lục địa kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền ra biển. Ngay cả khi một vùng dáy biển là gần lãnh thổ của một quốc gia hơn là lãnh thổ của một quốc gia khác, người ta cũng không thể coi rằng nó thuộc quốc gia này một khi nó không phải là phần mở rộng tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó ra biển. Thứ hai, Tòa đã bác bỏ tính ưu tiên của nguyên tắc đường cách đều trong phân định. Tòa đã khái quát hóa và đề xuất các hoàn cảnh đặc biệt và nguyên tắc công bằng trong phân định biển. Phán quyết của Tòa đã tạo bước ngoặt lịch sử trong sự phát triển của luật biển quốc tế. Thứ ba, Tòa đã phân tích và nêu rõ các điều kiện đẻ một nguyên tắc, một quy phạm mang tính điều ước có thể trở thành một nguyên tắc, một quy phạm tập quán. 2. Đền Préah – Vihéar (Camphuchia kiện Thái Lan). * Sự kiện: Ngày 6/10/1969, Chính phủ Campuchia đệ trình lên Tòa đơn khởi kiện chống lại phái Thái Lan về vấn đề chủ quyền Đền Préah – Vihéar. Phía Campuchia cho rằng phía Thái Lan đã có hành động vi phạm chủ quyền của Campuchia tại Đền Préah – Vihéar. Ngược lại, phía Thái Lan cho rằng lãnh thổ này hoàn toàn thuộc chủ quyền của mình. * Phán quyết ngày 22/7/1952 (bác bỏ trước thẩm quyền của Tòa): 4 Trong đơn khởi kiện của mình, để chứng minh Tòa có thẩm quyền, phía Campuchia đã viện dẫn Điều 36 Quy chế TACLQT, các tuyên bố chấp nhận trước thẩm quyền bắt buộc của Tòa từ Thái Lan ngày 20/5/1950 và từ phía Campuchia ngày 19/9/1957 cũng như Hiệp định chung ngày 26/9/1928 về việc giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế mà Pháp với Xiêm đều là cá bên ký kết. Sau khi xem xét các lý do được đưa ra Tòa nhất trí bỏ lý do mà phía Thái Lan nêu ra và tuyên bố của Tòa hoàn toàn có đủ thẩm quyền để xét xử nội dung vụ án. * Phán quyết ngày 15/6/1962 (phần nội dung): Tòa tuyên bố, với 9/3 số phiếu, Đền Préah – Vihéar nằm trên lãnh thổ thuộc chủ quyền của Campuchia, với 9/3 số phiếu, Thái Lan phải rút hết quân đổi cảnh sát và các lực lượng khác khỏi khu vực đền và vùng phụ cận; với 7/5 số phiếu Thái Lan phải bồi hoàn lại các tượng đài, miếu, đồ cổ trong đền mà họ đã lấy đi từ năm 1954 (nằm chính quyền Thái Lan chiếm đến và vùng phụ cận. * Ý nghĩa của phán quyết: Thứ nhất, phán quết xác dịnh vấn đề kế thừa thẩm quyền của Tòa án đối với các tuyên bố đơn phương chấp nhận thẩm quyền của Pháp viện thường trực quốc tế. Thứ hai, ý kiến về res alios acta. Thứ ba, phân biệt rõ lỗi trong luật quốc tế. Thứ tư, xác định vai trò của bản đồ trong phân định. Thứ năm, làm rõ thêm lý thuyết về giải thích điều ước quốc tế. 3. Các hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragoa và chống lại Nicaragoa (Nicaragoa kiện Mỹ). * Sự kiện: Ngày 9/4/1984 Nicaragoa gửi đơn đến Tòa khởi kiện Mỹ về vụ tranh chấp liên quan đến trách nhiệm của Mỹ trong việc tiến hành các hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragoa và chống lại Nicaragoa. Đồng thời Nicaragoa cũng yêu cầu chỉ ra các biện pháp bảo đảm cần thiết. ngày 10/5/1984, Tòa đã nêu ra các quyết định chỉ định các biện pháp bảo đảm. Ngày 26/11/1984, Tòa đã ra 5 phán quyết khẳng định Tòa có thẩm quyền xem xét vụ kiện và chấp nhận đơn khởi kiện của Nicaragoa. Ngày 18/1/1985 Mỹ đưa ra tuyên bố tỏ rõ “không có ý định tiếp tục tham dự bất cứ thủ tục nào liên quan đến vụ kiện”. Ngày 27/6/1986, Tòa ra phán quyết về nội dung: bác bỏ lý do sự dụng quyền tự vệ tập thể chính đáng do Mỹ đưa ra, kết luận Mỹ đã vi phạm các nghĩa vụ của luật tập quán quốc tế là không được can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác và không được sử dụng vũ lực chống lại một quốc gia khác xâm phạm đến chủ quyền của quốc gia khác và không được cắt đứt các hoạt đôạc hàng hải thương mại hòa bình. Ngày 29/3/1988, Nicaragoa đã nộp Bị vong lục của mình còn Mỹ vẫn tiếp tục từ chối không tham dự. tháng 9/1991, Nicaragoa thông báo với Tòa không có ý định tiếp tục theo kiện nữa. Phía Mỹ hoan nghênh quyết định này. Ngày 26/9/1988 Tòa ra quyết định chấm dứt vụ kiện. * Phán quyết của Tòa: Phía Mỹ đã vi phạm các nguyên tắc tập quán của LQT về cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế cũng như cấm can thiệp vào công việc nội bộ của một quốc gia khác. Tòa đã xem xét yêu cầu đòi bồi thường của Nicaragoa và cho rằng Tòa có thẩm quyền xem xét đơn khởi kiện này của V Nicaragoa trong một thủ tục khác. Tòa kêu gọi các bên hợp tác để tìm kiếm một giải pháp hòa bình phù hợp với nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp của luật tập quán và đã được khẳng định bởi Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc. * Ý nghĩa phán quyết của Tòa: Thứ nhất, đây là vụ điển hình trong thực xét xử của TACLQT về mặt thủ tục. Nó bao gồm tất cả bước mà Tòa phải giải quyết trong vấn đề thủ tục: thủ tục xác lập các biện pháp bảo đảm, thủ tục về bác bỏ trước quyền của Tòa… Thứ hai, đây là vụ điển hình về tính trung lập, vô tư, công bằng và đúng đắn của Tòa vì Tòa phải giải quyết tranh chấp giữa một bên là Mỹ, thành viên thường trực của Hội Đồng Bảo An, cường quốc số một thế giới, một bên là Nicaragoa, nước nhỏ, mới giành được độc lập. Mặc dù có nhiều sức ép, kể cả sự phản đối của phía Mỹ không tham dữ tiếp các thủ tục của tòa, Tòa đã xử thắng 6 kiện cho Nicaragoa, trên cơ sở các nguyên tắc của LQT. Phán quyết này đã đem lại niềm tin cho các nước đang phát triển vào vai trò của Tòa trong giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế. Thứ ba, phán quyết của Tòa đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết câu hỏi về quan hệ giữa các nguồn của LQT. Thứ tư, Tòa đã khẳng định tính độc lập của Tòa án đối với luật Điều ước và làm sáng tỏ thêm nội dung các nguyên tắc của luật tập quán. Tòa đã có những đóng góp nhất định trong việc xác định ranh giới giữa nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia và quyền con người. Giữa nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực và quyền can thiệp nhân đạo… Những vấn đề nóng bỏng của LQT và thời sự quốc tế, và tiếp tục là những bài học trong việc giải quyết các xung đột sắc tộc hiện nay tại Nam Tư, Ruan đa… Như vậy, trong phán quyết của TACLQT về vụ việc này Tòa đã viện dẫn áp dụng nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế cũng như cấm can thiệp vào công việc nội bộ của một quốc gia khác. C. KẾT LUẬN. Tòa án Công lý quốc tế với vị trí là một cơ quan của luật quốc tế, có nhiệm vụ phối hợp với các cơ quan khác của Liên hợp quốc trong việc gìn giữ hòa bình và an ninh quốc tế. Qua các phân tích trên đây đối với cá phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế, có thể thấy phán quyết của Tòa là nguồn bổ trợ quan trọng góp phần hình thành hoặc giải thích, làm sáng tỏ các quy phạm luật quốc tế, có vai trò và ý nghĩa quan trọng nhất định trong luật quốc tế. 7 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật quốc tế, Nxb. CAND, 2012 2. Công ước Viên năm 1969 về luật điều ước quốc tế. 3. Công ước luật biển năm 1982. 4. Quy chế Tòa án công lý quốc tế. 5. PGS.TS. Nguyễn Hồng Thao, Tòa án Công lý Quốc tế, Nxb.CTQG, Hà Nội, 2011. 8
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan