Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phương pháp giảng dạy tác phẩm văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945 ở trường t...

Tài liệu Phương pháp giảng dạy tác phẩm văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945 ở trường trung học phổ thông

.PDF
118
1020
103

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC ĐỖ THANH HÒA PHƢƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TÁC PHẨM VĂN HỌC HIỆN THỰC PHÊ PHÁN 1930 – 1945 Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN HÀ NỘI - 2011 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC ĐỖ THANH HÒA PHƢƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TÁC PHẨM VĂN HỌC HIỆN THỰC PHÊ PHÁN 1930 – 1945 Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC (BỘ MÔN NGỮ VĂN) Mã số: 60 14 10 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Đoàn Đức Phƣơng HÀ NỘI - 2011 KÍ HIỆU VIẾT TẮT Viết tắt Viết đầy đủ GV: Giáo viên HS: Học sinh NXB: Nhà xuất bản SGK: Sách giáo khoa THPT: Trung học phổ thông PPDH: Phương pháp dạy học ĐMPPDH: Đổi mới phương pháp dạy học GS. TS: Giáo sư, Tiến sĩ PGS. TS: Phó Giáo sư, Tiến sĩ MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề .......................................................................................... 2 3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................ 6 4. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 6 5. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu ............................................... 6 6. Câu hỏi nghiên cứu................................................................................... 7 7. Giả thuyết nghiên cứu .............................................................................. 7 8. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 7 9. Đóng góp của luận văn ............................................................................. 8 10. Cấu trúc của luận văn ............................................................................. 8 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC GIẢNG DẠY TÁC PHẨM VĂN HỌC HIỆN THỰC PHÊ PHÁN 1930-1945 Ở TRƢỜNG THPT ... 9 1.1. Quan niệm về đồi mới phương pháp dạy học ......................................... 9 1.2. Phương pháp dạy học Ngữ Văn và định hướng đổi mới phương pháp dạy học Ngữ Văn ................................................................................................ 10 1.3. Tổng quan về văn học hiện thực phê phán 1930-1945 ........................... 14 1.4. Phong cách nghệ thuật ........................................................................... 16 1.4.1. Phong cách nghệ thuật Vũ Trọng Phụng qua tác phẩm “Số đỏ” ........ 18 1.4.2. Phong cách nghệ thuật Nam Cao qua tác phẩm “Chí Phèo” ............. 22 Chƣơng 2: THỰC TIỄN GIẢNG DẠY TÁC PHẨM VĂN HỌC HIỆN THỰC PHÊ PHÁN Ở TRƢỜNG THPT................................................... 27 2.1. Thực trạng dạy học Ngữ Văn ở trường THPT hiện nay ......................... 27 2.2. Thực tiễn việc dạy học tác phẩm văn học hiện thực phê phán trong chương trình lớp 11 THPT ban Cơ bản ........................................................ 29 2.3. Những vấn đề đặt ra khi dạy học tác phẩm văn học hiện thực phê phán trong chương trình lớp 11 THPT ban Cơ bản ............................................... 36 Chƣơng 3: ĐỔI MỚI PHƢƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TÁC PHẨM VĂN HỌC HIỆN THỰC PHÊ PHÁN 1930-1945 TRONG CHƢƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 11 BAN CƠ BẢN ............................................................ 39 3.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ................................................................ 39 3.2. Những đề xuất nhằm đổi mới phương pháp giảng dạy tác phẩm văn học hiện thực phê phán trong chương trình lớp 11 THPT ban Cơ bản ................. 40 3.2.1. Phương pháp đọc tác phẩm ................................................................ 40 3.2.2. Phương pháp diễn giảng..................................................................... 45 3.2.3. Phương pháp đàm thoại ..................................................................... 47 3.2.4. Phương pháp trực quan ...................................................................... 53 3.2.5. Phương pháp dạy học nêu vấn đề ....................................................... 61 3.3. Giáo án thể nghiệm................................................................................ 65 3.3.1 Giáo án................................................................................................ 65 3.3.2. Tự đánh giá giáo án thể nghiệm ......................................................... 99 3.3.3 Thể nghiệm sư phạm ............................................................................ 99 3.3.4 Kết luận chung về quá trình thể nghiệm............................................... 100 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................ 101 1.1. Kết luận ................................................................................................. 101 1.2. Khuyến nghị .......................................................................................... 102 1.2.1. Đối với Sở Giáo dục và đào tạo .......................................................... 102 1.2.2. Đối với nhà trường ............................................................................. 102 1.2.3. Đối với giáo viên ................................................................................ 102 TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 103 PHỤ LỤC MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay Trong những năm gần đây, vấn đề chất lượng giáo dục đã trở thành mối quan tâm lớn không chỉ của riêng ngành giáo dục mà của toàn xã hội. Chính vì thế, đổi mới phương pháp dạy học được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cải cách giáo dục nói chung cũng như cải cách cấp trung học phổ thông nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Điều này đã được đề cập tại Điều 5 Luật Giáo Dục nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” [30, tr. 15]. Trong Những định hướng đổi mới chương trình – sách giáo khoa trung học phổ thông cũng đã nêu rõ: “Tập trung đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện dạy học dựa vào hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng tạo với sự tổ chức, hướng dẫn đúng mức của giáo viên, góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học…” [1, tr. 109]. Thực tế việc thực hiện ở các nhà trường đã có nhiều cố gắng và đạt được những tiến bộ nhất định. Tuy nhiên cần phải có sự tích cực hơn nữa từ phía các giáo viên để ĐMPPDH thực sự đem lại hiệu quả lâu dài và toàn diện. Trong xu thế chung đó, môn Ngữ Văn cũng đã có những bước đổi mới quan trọng nhưng vẫn chưa thấy rõ được hiệu quả. Thực trạng dạy và học Văn trong nhà trường phổ thông hiện nay vẫn còn nhiều điều hạn chế, tồn tại: “đó là sự khủng hoảng về nội dung, chất lượng và phương pháp” [25, tr. 14], GV còn lúng túng trong ĐMPPDH, một số ít GV còn có tâm lí ngại đổi mới trong 1 khi HS ngày càng ít hứng thú đối với môn Văn. Chính vì thế, ĐMPP trong dạy học Ngữ Văn ngày càng trở thành yêu cầu cấp thiết. 1.2. Thực trạng dạy học tác phẩm văn học hiện thực phê phán 1930-1945 ở trường THPT Trong chương trình Ngữ Văn 11 ban Cơ bản có hai bài học về văn học hiện thực phê phán là Hạnh phúc của một tang gia (Trích Số đỏ - Vũ Trọng Phụng) và Chí Phèo (Nam Cao). Đây là hai tác phẩm đã có trong chương trình cũ tiếp tục được đưa vào chương trình mới. Việc nghiên cứu hai tác phẩm này được quan tâm khá sâu sắc, việc giảng dạy đã được áp dụng nhiều phương pháp trong một thời gian khá dài. Tuy nhiên việc giảng dạy phần chương trình này vẫn chưa thực sự hiệu quả. Chính vì thế, với việc thực hiện luận văn này, tôi mong muốn tìm ra được một phương pháp giảng dạy phù hợp, mang tính khoa học và nghệ thuật với phần chương trình này, góp nâng cao hiệu quả giờ giảng dạy Ngữ Văn, bồi dưỡng cho học tình yêu với môn học này, cũng là góp thêm một phần tích cực nhằm nâng cao hiệu quả đổi mới phương pháp dạy học. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học Đổi mới phương pháp dạy học đang là một vấn đề trọng tâm, một đòi hỏi cấp thiết nhằm nâng cao chất lượng dạy và học của nền giáo dục Việt Nam. Nhiều tác giả tham gia nghiên cứu về đổi mới phương pháp dạy học nói chung hoặc những hình thức, biện pháp góp phần đổi mới phương pháp dạy học: - Đổi mới phương pháp dạy học – chương trình và sách giáo khoa (Trần Bá Hoành, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, 2006) 2 - Mô hình dạy học tích cực lấy người học làm trung tâm (Nguyễn Kì, Trường Cán bộ Quản lí giáo dục và đào tạo, 1996) - Những vấn đề cơ bản của giáo dục học hiện đại (Thái Duy Tuyên, Nhà xuất bản Giáo dục, 1999) - Tìm hiểu chương trình và sách giáo khoa Ngữ Văn trung học phổ thông (Đỗ Ngọc Thống, Nhà xuất bản Giáo dục, 2006) 2.2. Phương pháp giảng dạy tác phẩm văn học hiện thực phê phán 19301945 Phương pháp giảng dạy tác phẩm văn học hiện thực phê phán 19301945 đã được một số tác giả quan tâm, nghiên cứu, tuy nhiên mới chỉ dừng lại ở góc độ từng bài học tác phẩm cụ thể hoặc áp dụng một phương pháp nhất định nào đó trong dạy học một tác phẩm: - Dạy học Hạnh phúc của một tang gia (Trích Số đỏ - Ngữ văn 11 ban cơ bản) từ thi pháp tiểu thuyết của nhà văn Vũ Trọng Phụng (Luận văn Thạc sĩ Sư phạm Ngữ Văn, Vũ Thị Mận, Đại học Giáo dục, 2010) - Rèn luyện tư duy văn học cho học sinh trung học phổ thông bằng câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng trong dạy học tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao (Sách giáo khoa Ngữ văn 11 Ban Cơ bản) (Luận văn Thạc sĩ Sư phạm Ngữ Văn, Nguyễn Văn Tuấn, Đại học Giáo dục, 2010) - Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường (PGS. TS Nguyễn Viết Chữ, Nhà xuất bản Giáo dục, 2010) - Thiết kế bài học tác phẩm văn chương ở nhà trường phổ thông (tập 1) (GS Phan Trọng Luận, Nhà xuất bản Giáo dục, 1998) - Thiết kế bài giảng Ngữ Văn 11 (tập 1) (TS Nguyễn Văn Đường, Nhà xuất bản Hà Nội, 2009) 3 2.3. Về văn học hiện thực phê phán 1930-1945 Văn học hiện thực phê phán là một trào lưu văn học công khai, tồn tại hợp pháp, xuất hiện trong giai đoạn 1930-1945. Đây là một dòng văn học lớn, ra đời nhằm đáp ứng một phần những yêu cầu cơ bản của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc lúc bấy giờ. Các nhà văn tiến bộ - bạn đường của giai cấp công nhân, như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao… đã sử dụng chủ nghĩa hiện thực phê phán như một vũ khí chiến đấu. Có rất nhiều các nghiên cứu về dòng văn học này, thể hiện qua: - Giáo trình Văn học Việt Nam 1930-1945 (Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nhà xuất bản Giáo dục, 2007) - Văn học Việt Nam thế kỉ XX – Những vấn đề lịch sử và lí luận (Phan Cự Đệ, Nhà xuất bản Giáo dục, 2007) - Vấn đề nhân vật trong tiểu thuyết hiện thực 1930-1945 (Tạp chí Nghiên cứu văn học số 2, 2003) - Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt Nam (Nguyễn Đức Đàn, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1968) 2.4. Về tác giả Vũ Trọng Phụng và tiểu thuyết Số đỏ Vũ Trọng Phụng là một tác giả lớn, có tên tuổi và vị trí vững chắc trong nền văn học hiện đại Việt Nam, chính vì thế, việc nghiên cứu về tác giả và những tác phẩm của ông trong đó có Số đỏ thu hút rất nhiều nhà nghiên cứu với các phê bình, tiểu luận, báo, tạp chí hay giáo trình: 4 - Giáo trình Văn học Việt Nam 1930-1945 (Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nhà xuất bản Giáo dục, 2007) - Tìm hiểu nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng qua tiểu thuyết Số đỏ (Luận văn Thạc sĩ Văn học, Choi Young Lan, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, 2009) - Vũ Trọng Phụng – nhà văn hiện thực (1912-1939) (Tiểu luận Văn Tâm, Kim Đức 1957) - Điển hình hóa – một trong những thành công xuất sắc của Vũ Trọng Phụng trong Giông tố và Số đỏ (Nguyễn Thị Bích Nga, Tạp chí khoa học xã hội, Đại học Quốc gia Hà Nội, số 5, 1999) - Số đỏ - tác phẩm và lời bình (Tôn Thảo Miên, Nhà xuất bản văn học, 2007) 2.5. Về tác giả Nam Cao và truyện ngắn Chí Phèo Nam Cao cũng là một nhà văn lớn, là một trong những nhà văn đem lại nhiều cái mới, có nhiều đóng góp cho sự phát triển của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Các tác phẩm của ông, trong đó tiêu biểu là Chí Phèo thể hiện rất rõ quan điểm sáng tác tiến bộ, cách viết chân thực, với một tầm khái quát cao. Một số công trình nghiên cứu về tác giả và tác phẩm: - Giáo trình Văn học Việt Nam 1930-1945 (Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nhà xuất bản Giáo dục, 2007) - Nam Cao – đời văn và tác phẩm (Hà Minh Đức, Nhà xuất bản Văn học, 1997) - Vấn đề người nông dân trong cách nhìn của Nam Cao (Phạm Phú Tỵ, Tạp chí Khoa học – Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999) 5 - Chí Phèo dưới cái nhìn phân tâm học (Tạp chí nghiên cứu Văn học, 2007) - Giá trị thi pháp từ tên gọi Chí Phèo (Trần Đại Nghĩa, Tạp chí Ngôn Ngữ số 1, 2007) 3. Mục đích nghiên cứu Thông qua việc tìm hiểu thực trạng dạy học Ngữ Văn ở trường THPT nói chung và giảng dạy các tác phẩm văn học hiện thực phê phán 1930-1945 nhằm đánh giá tình hình dạy học, đề xuất biện pháp đổi mới phương pháp dạy học các tác phẩm văn học hiện thực phê phán 1930-1945. Từ đó góp phần nâng cao hiệu quả của việc dạy và học Ngữ Văn ở trường THPT. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu một số vấn đề cơ bản mang tính lí luận về vấn đề đổi mới phương pháp dạy học; các phương pháp dạy học; văn học hiện thực phê phán. - Khảo sát, tìm hiểu thực trạng dạy học phần văn học hiện thực phê phán 1930-1945 ở trường THPT. 5. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các phương pháp dạy học Ngữ Văn; các tác phẩm văn học hiện thực phê phán 1930-1945 ở trường THPT; việc giảng dạy tác phẩm các tác phẩm văn học hiện thực phê phán 1930-1945 ở trường THPT. 5.2. Khách thể nghiên cứu Khách thể nghiên cứu của đề tài là quá trình dạy học môn Ngữ Văn lớp 11 ở trường THPT. 5.3. Phạm vi nghiên cứu 6 Phạm vi nghiên cứu của đề tài là hai bài học Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ - Vũ Trọng Phụng) và Chí Phèo (Nam Cao) trong chương trình Ngữ Văn 11 ban Cơ bản. 6. Câu hỏi nghiên cứu Vận dụng các phương pháp trong dạy học tác phẩm văn học hiện thực phê phán 1930-1945 ở trường THPT như thế nào để có hiệu quả tích cực? 7. Giả thuyết nghiên cứu Việc vận dụng linh hoạt, phù hợp các phương pháp trong dạy học tác phẩm văn học hiện thực phê phán 1930-1945 ở trường THPT sẽ góp phần tạo hiệu quả tích cực trong việc nâng cao chất lượng dạy học phần văn học hiện thực phê phán nói riêng và dạy học Ngữ Văn nói chung. 8. Phƣơng pháp nghiên cứu 8.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận Nghiên cứu lí luận về các phương pháp dạy học Ngữ Văn, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học, văn học hiện thực phê phán, vấn đề tác giả, nội dung và nghệ thuật hai tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ Vũ Trọng Phụng) và Chí Phèo (Nam Cao)… Các tài liệu trong quá trình nghiên cứu sẽ được phân tích, tổng hợp một cách có hệ thống để thấy rõ được yêu cầu và sự phù hợp của việc ĐMPPDH qua hai bài học này. 8.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn giáo viên ở một số trường THPT về thực trạng việc dạy học các tác phẩm văn học hiện thực phê phán trong chương trình lớp 11 THPT ban Cơ bản. - Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Sử dụng bảng hỏi điều tra học sinh và GV dạy Văn khối 11 ở trường THPT Vân Tảo – Hà Nội. Qua đó phần 7 nào đánh giá được thực trạng việc dạy và học các tác phẩm văn học hiện thực phê phán trong chương trình lớp 11 THPT ban Cơ bản. - Phương pháp phân tích kết quả nghiên cứu: Qua số liệu thu được từ việc điều tra bằng bảng hỏi với GV - HS, và một số ý kiến của GV qua việc phỏng vấn trực tiếp, các kết quả sẽ được tổng hợp, tính toán nhằm đưa ra những số liệu chính xác phản ánh thực trạng việc dạy và học các tác phẩm văn học hiện thực phê phán trong chương trình lớp 11 THPT ban Cơ bản, hứng thú và kết quả học tập của HS, khó khăn của GV trong dạy học, nguyên nhân của thực trạng và một số giải pháp… 9. Đóng góp của luận văn - Về lí luận: Khẳng định sự đúng đắn, khả thi của việc ĐMPPDH trong dạy học Ngữ Văn. - Về thực tiễn: Khảo sát và đánh giá thực trạng dạy học tác phẩm văn học hiện thực phê phán trong chương trình lớp 11 THPT ban Cơ bản, nhằm hoàn thiện mô hình dạy học tác phẩm văn học hiện thực phê phán, giúp đồng nghiệp có thêm tư liệu soạn giảng, nâng cao chất lượng dạy học tác phẩm văn học hiện thực phê phán nói riêng và chất lượng dạy học Ngữ Văn trong nhà trường nói chung. 10. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lí luận của việc giảng dạy tác phẩm văn học hiện thực phê phán 1930-1945 ở trường THPT Chương 2: Thực tiễn giảng dạy tác phẩm văn học hiện thực phê phán 1930-1945 ở trường THPT Chương 3: Đổi mới phương pháp giảng dạy tác phẩm văn học hiện thực phê phán 1930-1945 trong chương trình lớp 11 THPT ban Cơ bản 8 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC GIẢNG DẠY TÁC PHẨM VĂN HỌC HIỆN THỰC PHÊ PHÁN 1930-1945 Ở TRƢỜNG TH PT 1.1. Quan niệm về đồi mới phƣơng pháp dạy học Đổi mới phương pháp dạy học được hiểu là đưa các phương pháp dạy học mới vào nhà trường trên cơ sở phát huy tính tích cực của các phương pháp dạy học truyền thống, nâng cao hiệu quả đào tạo của giáo dục. Đổi mới phương pháp dạy học nhằm góp phần thực hiện mục tiêu Giáo dục – đào tạo trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong đó nhấn mạnh đến đào tạo những người lao động có bản lĩnh, có năng lực, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, sẵn sàng thích ứng với những đổi thay trong xã hội hiện đại... Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong hoạt động học tập để tự phát hiện, tự giải quyết các vấn đề trong học tập và trong đời sống, từ đó tự chiếm lĩnh và biết vận dụng các kiến thức và kĩ năng cơ bản với sự tổ chức và hướng dẫn của giáo viên. Đổi mới phương pháp dạy học không chỉ bó hẹp trong phạm vi hoạt động của giáo viên và học sinh trong các giờ lên lớp mà bao gồm cả đổi mới phương pháp trình bày nội dung các tài liệu dạy học, đổi mới cách sắp xếp các nội dung dạy học cụ thể nhằm tích cực hóa hoạt động của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học được thực hiện dựa trên các định hướng: - Bám sát mục tiêu giáo dục phổ thông. - Phù hợp với nội dung dạy học cụ thể. - Phù hợp với đặc điểm lứa tuổi học sinh. - Phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất, điều kiện dạy học của nhà trường. 9 - Phù hợp với việc đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả dạy – học. - Kết hợp giữa việc tiếp thu và sử dụng có chọn lọc, hiệu quả các phương tiện dạy học hiện đại với việc khai thác những yếu tố tích cực của các phương pháp dạy học truyền thống. - Tăng cường sử dụng các phương tiện, thiết bị dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin. 1.2. Phƣơng pháp dạy học Ngữ Văn và định hƣớng đổi mới phƣơng pháp dạy học Ngữ Văn Trong nhà trường phổ thông, cùng với các môn học như Toán, Vật lí, Hóa học, Giáo dục công dân hay Ngoại Ngữ, môn Ngữ Văn là một môn học bắt buộc thuộc chương trình chính khóa và chiếm một thời lượng khá nhiều trong phân phối chương trình so với các môn học khác. Bộ môn Ngữ Văn thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Thế nhưng, không giống như các môn học khác, trong môn học Ngữ Văn luôn song song tồn tại hai tính chất: Vừa là một bộ môn khoa học vừa có tính nghệ thuật ngôn từ, vừa mang tính chất một môn học. Môn Văn là một bộ môn mang tính nghệ thuật, chính vì thế việc giảng dạy và học tập Ngữ Văn luôn có những đặc thù riêng, nói cách khác, phương pháp dạy học Văn chính là một khoa học nghệ thuật. Mặc dù ý thức được về tầm quan trọng của bộ môn và phương pháp giảng dạy bộ môn, nhưng chất lượng, hiệu quả của môn học Ngữ Văn hiện nay vẫn chưa có nhiều thay đổi, học sinh vẫn chưa thực sự hứng thú và yêu thích môn học này, chất lượng, kết quả môn Ngữ Văn thể hiện qua các kì thi còn rất thấp. Học sinh phần lớn giữ thói quen thụ động, quen nghe, quen chép, ghi nhớ và tái hiện lại một cách máy móc, dập khuôn những gì giáo viên đã giảng. Đa phần học sinh chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài học. Điều này đã thủ tiêu óc sáng tạo, suy nghĩ của người học, biến học sinh thành những người quen suy nghĩ diễn đạt bằng những ý vay mượn, bằng 10 những lời có sẵn, lẽ ra phải làm chủ tri thức thì lại trở thành nô lệ của sách vở. Người học chưa có hào hứng và chưa quen bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm của cá nhân trước tập thể, cho nên khi phải nói và viết, học sinh cảm thấy khá khó khăn. Về phía giáo viên, mặc dù đã có ý thức đổi mới phương pháp dạy học văn nhưng việc thực hiện chỉ mới mang tính chất hình thức, thử nghiệm chứ chưa đem lại hiệu quả như mong muốn. Một số giáo viên vẫn còn thói quen dạy học theo kiểu truyền thụ kiến thức một chiều: giáo viên giảng giải, học sinh lắng nghe, ghi nhớ và biết nhắc lại đúng những điều mà giáo viên đã truyền đạt. Giáo viên chủ động cung cấp kiến thức cho học sinh, áp đặt những kinh nghiệm, hiểu biết, cách cảm, cách nghĩ của mình tới học sinh. Nhiều giáo viên chưa chú trọng đến việc tiếp thu, vận dụng kiến thức của học sinh cũng như việc chỉ ra cho người học con đường tích cực chủ động để thu nhận kiến thức. Do đó, có những giờ dạy được giáo viên tiến hành như một giờ diễn thuyết, thậm chí giáo viên còn đọc chậm cho học sinh chép lại những gì có sẵn ở giáo án. Giờ học tác phẩm văn chương vì thế vẫn chưa thu hút được sự chú ý của người học, một bộ phận không nhỏ học sinh vẫn tỏ ra bàng quan, thờ ơ với văn chương. Hơn nữa, không ít giáo viên đứng lớp chưa được trang bị kỹ càng, đồng bộ về quan điểm và lý luận phương pháp dạy học Văn mới. Vấn đề quan điểm và lý luận phương pháp dạy học Văn mới chỉ đến với người dạy qua một số tài liệu, thiên về cung cấp lý thuyết hơn là hướng dẫn thực hành. Một số các giáo trình tài liệu về phương pháp dạy học Văn còn mang bệnh lý thuyết và sách vở hoặc chịu tác động từ các phương pháp dạy học của nước ngoài. Nhiều giáo viên còn mơ hồ trước những khối lý luận phương pháp dạy học chung chung áp dụng lúc nào cũng đúng không chỉ cho riêng bộ môn Văn mà cả các bộ môn khác. Tuy không thể phủ nhận rằng trong khoảng một thập niên trở lại đây, việc đổi mới cách dạy học Văn đã được tiến hành rộng khắp trong cả nước, 11 vai trò và mối quan hệ giữa người dạy và người học đã khác trước, sự chủ động, tích cực của học sinh trong giờ học được đề cao, các phương tiện dạy học phong phú hơn. Tuy nhiên, tất cả những gì diễn ra ở môn Văn dường như chỉ là sự khúc xạ những tiến bộ chung về quan niệm dạy học hiện đại. Cái gọi là “tư tưởng dạy học Văn theo hướng coi trọng hoạt động của học sinh, giáo viên là người định hướng tổ chức, không phải là người truyền đạo, áp đặt” mà tác giả Nguyễn Minh Phương nêu lên (Văn nghệ số 13, 28 - 3 - 2009) như một bằng chứng về thành tựu đổi mới dạy học văn, thực chất vẫn nằm trong cái khuôn chung của giáo dục học. Rõ ràng, trong thực tế, chưa có được sự đổi mới căn bản, triệt để dựa trên đặc thù môn Ngữ Văn phản ánh trong mối quan hệ bộ ba hữu cơ: thầy giáo (người hướng dẫn, tổ chức) - học sinh (chủ thể tiếp nhận) - văn bản (đối tượng của sự tiếp nhận). Với những thực trạng nói trên, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học đã và đang là mối quan tâm hàng đầu không chỉ của riêng ngành giáo dục, trở thành một yêu cầu cơ bản của chiến lược giáo dục, được đem ra bàn bạc, thảo luận trong nhiều chương trình, hội nghị các cấp trung ương đến địa phương. Trong Chiến lược phát triển phát triển giáo dục Việt Nam 2009-2020 đã nêu lên giải pháp chiến lược nhằm phát triển giáo dục đến năm 2020 là tích cực đổi mới phương pháp dạy học: “Thực hiện cuộc vận động toàn ngành đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, biến quá trình học tập thành quá trình tự học có hướng dẫn và quản lí của giáo viên”. Như vậy có thể khẳng định rằng để nâng cao chất lượng dạy và học Văn trong nhà trường, trước hết, cần đẩy mạnh đổi mới phương pháp dạy và học. Giáo viên phải từng bước chuyển từ phương pháp giảng dạy truyền thụ kiến thức một chiều sang phương pháp dạy học mới, trong đó học sinh dưới sự tổ chức, gợi mở, dẫn dắt của giáo viên tự mình chiếm lĩnh bài văn, tự rút ra những kết luận, những bài học cần thiết cho mình 12 với sự chủ động tối đa. Có như vậy, học sinh mới thấy hứng thú và cảm thấy mình cũng là người “đồng sáng tạo” với tác giả. Mặc dù vậy, chúng ta cũng nên thừa nhận việc đổi mới phương pháp giảng dạy không phải là tạo ra một phương pháp khác với cái cũ, để loại trừ cái cũ. Bên cạnh việc vận dụng những phương pháp mới thì cần tận dụng những nhân tố tích cực của cái cũ, phương pháp cũ để nó có cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn, đồng thời tạo ra cái mới tiến bộ hơn. Nếu phương pháp dạy học cũ có một ưu điểm lớn là phát huy trí nhớ, tập cho học sinh làm theo một điều nào đó, thì phương pháp mới vẫn cần những ưu điểm trên. Song cái khác căn bản ở đây là phương pháp giảng dạy cũ đã phần nhiều “bỏ quên học sinh”, học sinh bị động trong tiếp nhận. Còn phương pháp giảng dạy mới phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Phát huy tính tích cực của học sinh thông qua hàng loạt các tác động của giáo viên là bản chất của phương pháp giảng dạy mới. Khi nói đến tính tích cực, chúng ta quan niệm là lòng mong muốn hành động được nảy sinh từ phía học sinh, được biểu hiện ra bên ngoài hay bên trong của sự hoạt động. Nhờ phát huy được tính tích cực mà học sinh không còn bị thụ động. Học sinh trở thành các cá nhân trong một tập thể mang khát vọng được khám phá, hiểu biết. Muốn vậy, điều khó khăn nhất với người giáo viên là: Trong một giờ lên lớp, phải làm sao cho những học sinh tốt nhất cũng được thoả mãn nhu cầu tri thức, thấy tri thức là một chân trời mới, còn những học sinh học yếu nhất cũng không thấy bị bỏ rơi, họ cũng tham gia được vào quá trình khám phá cái mới. Điều này là đặc biệt cần thiết, vì học sinh sẽ hào hứng để đi tìm tri thức chứ không còn bị động, bị nhồi nhét nữa. Tóm lại, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học luôn là một đòi hỏi bức thiết, một trong những nhiệm vụ quan trọng của cải cách giáo dục, cải cách cấp trung học phổ thông nói chung và môn Ngữ Văn nói riêng, nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Thực tế việc thực hiện của giáo viên ở các nhà 13 trường đã có nhiều cố gắng và đạt được những tiến bộ nhất định. Tuy nhiên cần phải có sự tích cực hơn nữa từ phía các giáo viên để việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ Văn thực sự đem lại hiệu quả lâu dài và toàn diện. 1.3. Tổng quan về văn học hiện thực phê phán 1930-1945 Đây là một dòng văn học phát triển manh nha từ đầu thế kỷ XX, là sản phẩm của tư tưởng bất bình trước xã hội thực dân nửa phong kiến đầy bất công và ngang trái. Nói cách khác, đây là sản phẩm tâm lí phê phán xã hội thực dân phong kiến Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Dòng văn học này là kết quả của sự giao lưu văn hóa đông tây (Việt - Pháp). Những người trí thức Việt Nam sau khi tiếp xúc với văn học Pháp đã học tập, tiếp thu những tinh hoa của nước ngoài để biến đổi, kết tinh trong những sáng tác văn học quốc ngữ của mình. Văn học hiện thực phê phán có một vị trí quan trọng trong nền văn xuôi Việt Nam và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình hiện đại hóa văn học, nhiều cây bút xuất sắc trưởng thành từ trào lưu này, đóng góp cho nền văn học của chúng ta nhiều tác phẩm xuất sắc. Các nhà văn hiện thực hướng đến phê phán tính chất thoát li của văn học lãng mạn và giữ vững quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh”: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than” (Giăng sáng, Nam Cao). Từ đó, những cây bút hiện thực luôn có cái nhìn trực diện để phản ánh chân thực, khám phá sâu sắc bản chất hiện thực đời sống, phê phán những bất công, những tồn tại xã hội chà đạp lên con người. Với nền tảng là chủ nghĩa nhân đạo, văn học hiện thực hướng đến những tầng lớp cùng khổ, không chỉ tố cáo những áp bức, bóc lột mà còn thể hiện được một khát vọng sống của cá nhân, đề cao phẩm giá và giữ vững niềm tin vào bản chất lương thiện của con người. 14 Trong khoảng 30 năm đầu thế kỷ XX, Hồ Biểu Chánh, Phạm Duy Tốn là những người đầu tiên viết văn có cảm hứng hiện thực. Từ sau 1930, văn học hiện thực phê phán đã phát triển mạnh và đạt được những thành tựu lớn trong vòng 15 năm từ 1930-1945 qua ba chặng đường: Từ 1930 đến 1935: Đây là giai đoạn đầu phát triển của văn học hiện thực phê phán cùng với văn học lãng mạn khi ấy đang chiếm ưu thế. Vì thế, phạm vi ảnh hưởng và tầm bao quát hiện thực của văn học hiện thực còn tương đối hạn hẹp. Tác phẩm chưa chỉ ra được những mâu thuẫn cơ bản, chưa đặt ra được những vấn đề lớn mang tầm khái quát và chưa có nhiều tác phẩm gây được sự chú ý cao. Thế giới nhân vật hướng đến tầng lớp thị dân nghèo và nhà văn mới chỉ nhìn thấy con người họ trong sự hèn kém, yếu đuối, dễ bị lưu manh hóa. Tính chiến đấu của văn học giai đoạn này theo đó cũng chưa cao. Một số tác phẩm tiêu biểu: truyện ngắn Kép Tư Bền (Nguyễn Công Hoan); phóng sự Tôi kéo xe (Tam Lang); kịch Không một tiếng vang, phóng sự Cạm bẫy người, Kĩ nghệ lấy Tây (Vũ Trọng Phụng)... Từ 1936 đến 1939: Thời kì Mặt trận dân chủ đấu tranh công khai đã tạo điều kiện cho văn học hiện thực phát triển hơn hẳn so với giai đoạn trước về đề tài, thể loại và nội dung phản ánh hiện thực, đã có nhiều tác phẩm có tầm bao quát hiện thực rộng lớn. Tuy còn một số hạn chế, nhưng đây là chặng đường chủ nghĩa hiện thực đạt tới đỉnh cao, các nhà văn đã xây dựng được nhiều tác phẩm có tiếng nói trực tiếp, thời sự và có tính chiến đấu, trong đó đã xuất hiện nhiều điển hình văn học: Nghị Hách (Giông tố), Xuân tóc đỏ (Số đỏ) của Vũ Trọng Phụng; chị Dậu, Nghị Quế trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố; anh Pha, nghị Lại trong Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan... Từ 1940 đến 1945: Đây là giai đoạn văn học hiện thực phát triển theo chiều hướng đi xuống bởi hoàn cảnh xã hội, chính trị tác động. Chế độ kiểm duyệt gắt gao đã làm cho nhiều nhà văn hiện thực hoang mang, tư tưởng bị dao động dần suy thoái và bế tắc. Các nhà văn thiên về “hướng nội và giàu 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất