Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua kể lại chuyện sáng tạo...

Tài liệu Phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua kể lại chuyện sáng tạo

.PDF
54
139
114

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC MẦM NON ====== LÊ THỊ LAN PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CHO TRẺ MẪU GIÁO LỚN THÔNG QUA KỂ LẠI CHUYỆN SÁNG TẠO KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Phương pháp phát triển ngôn ngữ Người hướng dẫn khoa học TS. ĐỖ THỊ THU HƯƠNG HÀ NỘI, 2017 HÀ NỘI - 2015 LỜI CẢM ƠN Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, Ban chủ nhiệm các thầy cô giáo khoa Giáo Dục Mầm Non đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt khóa học. Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo – TS. Đỗ Thị Thu Hương – người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo giúp em hoàn thành tốt khóa luận này. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 03 tháng 5 năm 2017 Sinh viên Lê Thị Lan LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài: “Phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua kể lại chuyện sáng tạo” là kết quả nghiên cứu của riêng mình tôi, khóa luận không sao chép từ các tài liệu có sẵn nào. Đề tài chưa được công bố trong bất cứ một công trình khoa học nào khác. Hà Nội, ngày 03 tháng 5 năm 2017 Sinh viên Lê Thị Lan MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1 2. Lịch sử nghiên cứu ........................................................................................ 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 4 4. Mục đích nghiên cứu. .................................................................................... 4 5. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 4 6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4 7. Cấu trúc đề tài ............................................................................................... 4 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN ........................................................................ 5 1.1. Cơ sở tâm lí học. ........................................................................................ 5 1.2. Cơ sở sinh lí học ......................................................................................... 8 1.3. Cơ sở giáo dục học ..................................................................................... 9 1.4. Cơ sở ngôn ngữ học ................................................................................. 11 1.5. Một số khái niệm ...................................................................................... 13 1.5.1. Khái niệm kể lại chuyện........................................................................ 13 1.5.2. Mục đích của việc dạy trẻ kể lại chuyện ............................................... 13 1.5.3. Phân biệt kể lại truyện văn học và kể lại chuyện. ................................. 15 1.6. Đặc điểm vốn từ ....................................................................................... 16 1.6.1. Đặc điểm vốn từ của trẻ mầm non ........................................................ 16 1.6.2. Đặc điểm vốn từ của trẻ mẫu giáo lớn .................................................. 22 Tiểu kết chương 1............................................................................................ 25 CHƯƠNG 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CHO TRẺ MẪU GIÁO LỚN THÔNG QUA KỂ LẠI CHUYỆN SÁNG TẠO ............. 26 2.1. Một số biện pháp phát triển vốn từ thông cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua kể lại chuyện sáng tạo. .................................................................................... 26 2.1.1. Biện pháp xây dựng môi trường hoạt động trong lớp học cho trẻ kể lại chuyện sáng tạo. .............................................................................................. 26 2.1.2. Biện pháp dạy trẻ sử dụng ngôn ngữ lời kể phù hợp với nhân vật thông qua trò chơi đóng kịch. .................................................................................... 30 2.1.3. Biện pháp lồng ghép một số hoạt động khác khi dạy trẻ kể lại chuyện sáng tạo. ........................................................................................................... 33 Tiểu kết chương 2............................................................................................ 35 CHƯƠNG 3: GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM .................................................... 36 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 49 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, đặt nền móng cho sự phát triển về thể chất, nhận thức, tình cảm xã hội và thẩm mỹ cho trẻ em. Những kỹ năng mà trẻ được tiếp thu qua chương trình chăm sóc giáo dục mầm non sẽ là nền tảng cho việc học tập và thành công sau này của trẻ. Do vậy, phát triển giáo dục mầm non, tăng cường khả năng sẵn sàng đi học cho trẻ là yếu tố quan trọng trong việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt, tồn tại và phát triển theo sự tồn tại, phát triển của xã hội loài người. Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt. Ngôn ngữ là phương tiện nhận thức và giao tiếp hữu hiệu nhất của con người. Nhờ có ngôn ngữ, con người mới có phương tiện để nhận thức và thể hiện nhận thức của mình, để giao tiếp và hợp tác với nhau… Nói đến sự phát triển của xã hội không thể không nói đến vai trò đặc biệt quan trọng của ngôn ngữ. Ngôn ngữ đóng một vai trò cũng đặc biệt quan trọng trong việc phát triển tư duy, hình thành và phát triển nhân cách; là công cụ để trẻ giao tiếp, học tập, vui chơi… Phát triển ngôn ngữ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của Giáo dục mầm non. Đặc biệt đối với trẻ mẫu giáo lớn thì nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ càng dần được quan tâm để trang bị cho trẻ vốn từ nhất định để trẻ lĩnh hội kinh nghiệm, tri thức của nhân loại. Một trong những nhiệm vụ quan trọng đặc biệt của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ đó là phát triển vốn từ. Một đứa trẻ có vốn từ phong phú sẽ dễ dàng, tự tin trong giao tiếp và tiếp thu bài học. Với vốn từ phong phú trẻ sẽ chủ động trong việc lựa chọn và sử dụng từ. Ngược lại, nếu trẻ có vốn từ nghèo nàn sẽ gặp khó khăn trong giao tiếp và làm ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ. 1 Lứa tuổi 5 – 6 tuổi là lứa tuổi cuối cùng của mẫu giáo, là bước ngoặt lớn cho trẻ chuẩn bị bước chân tới trường phổ thông. Vì vậy, cần chuẩn bị cho trẻ một tâm thế sẵn sàng trong đó ngôn ngữ là thành phần cốt yếu. Ở lứa tuổi mẫu giáo lớn ngôn ngữ mang tính chất hoàn cảnh ,tình huống nghĩa là ngôn ngữ của trẻ gắn liền với sự vật, hoàn cảnh, con người, hiện tượng đang xảy ra trước mắt trẻ . Trẻ 5 - 6 tuổi vốn từ của trẻ không chỉ tăng lên về số lượng mà đặc biệt khả năng tưởng tượng, sáng tạo của của trẻ cũng phát triển mạnh hơn nhiều so với các lứa tuổi trước đó. Các câu chuyện nếu lúc nào cũng được kể một cách dập khuôn máy móc thì sẽ không có sự hấp dẫn, mới mẻ, dễ gây ra sự nhàm chán và đặc biệt khả năng mở rộng vốn từ bị hạn chế. Với trẻ mầm non nói chung và trẻ mẫu giáo lớn nói riêng, chúng cần được phát huy tối đa trí tưởng tượng, sự sáng tạo và thỏa sức thể hiện suy nghĩ của bản thân. Chính vì vậy, chúng ta cần quan tâm tới việc dạy học kể lại chuyện một cách sáng tạo nhằm phát triển và mở rộng vốn từ cho trẻ. Chính vì những lí do trên, chúng tôi hiểu rõ nhiệm vụ cơ bản của việc phát triển vốn từ cho trẻ mầm non đặc biệt là trẻ mẫu giáo lớn, cũng như vai trò của kể chuyện sáng tạo trong việc phát triển vốn từ cho trẻ và mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “ Phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua hoạt động kể lại chuyện sáng tạo”. 2. Lịch sử nghiên cứu Trong cuốn “ Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo” [3], tác giả Nguyễn Xuân Khoa đã nói về phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo rất chi tiết. Ông đã dành 12 chương sách để đề cập khái quát những vấn đề liên quan đến nội dung này. Trong đó, tác giả đã dành chương V, với dung lượng là 51 trang sách để trình này sơ lược về phương pháp phát triển từ ngữ. 2 Nghiên cứu về mảng “ Phương pháp phát triển ngôn ngữ tuổi mầm non”, tác giả Đinh Hồng Thái đã đưa ra một số phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non trong gồm có một số biện pháp phát triển vốn từ. Ngoài ra, tác giả cũng đưa ra một vài biện pháp thúc đẩy khả năng tiền đọc – viết cho trẻ mầm non nhằm chuẩn bị cho trẻ những kĩ năng cần thiết để học tiếng Việt ở lớp 1. Tiếp theo, các tác giả cuốn “ Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ dưới 6 tuổi” [4], đã khẳng định quan trọng của ngôn ngữ trong việc giáo dục toàn diện cho trẻ. Các tác giả cũng nêu sơ lược nội dung, phương pháp, biện pháp để luyện âm, phát triển vốn từ, dạy trẻ nói đúng ngữ pháp, phát triển ngôn ngữ mạch lạc và chuẩn bị cho trẻ đến trường phổ thông. Nghiên cứu ở mảng tâm lý trẻ em “Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non” [5], các tác giả đã nêu rõ các trình độ và đặc điểm phát triển tâm lý của trẻ theo từng giai đoạn, độ tuổi. Trong đó, các tác giả đã chỉ ra rằng: trẻ độ tuổi 5-6 tuổi không chỉ hiểu được từ ngữ và nắm vững ngữ pháp một cách vững vàng mà còn “sáng tạo” ra những từ ngữ những cách nói chưa hề có trong ngôn ngữ của người lớn. Ngoài ra còn rất nhiều các công trình nghiên cứu khác như: “ Phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua truyện cổ tích” của Trần Ngọc Anh – khóa luận tốt nghiệp năm 2013, “ Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo lớn (5-6 tuổi) thông qua hoạt động dạy kể chuyện sáng tạo ở trường mầm non Ngô Quyền” của Vũ Thị Nguyên – khóa luận tốt nghiệp năn 2013, ... và một số công trình khác. Điểm qua các công trình cho thấy phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua kể lại chuyện sáng tạo chưa được nghiên cứu. Kế thừa kết quả nói trên chúng tôi đi sâu nghiên cứu một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua kể lại chuyện sáng tạo. 3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ 5-6 tuổi. - Phạm vi nghiên cứu: Biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn thông hoạt động kể lại chuyện sáng tạo. 4. Mục đích nghiên cứu. - Đề xuất một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua kể lại chuyện sáng tao. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tổng hợp khái quát một số vấn đề lí thyết liên quan đến đề tài. - Đề xuất một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua kể lại chuyện sáng tạo. - Thiết kế một số giáo án thực nghiệm. 6. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành khóa luận này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp phân tích - Tổng hợp Phương pháp trực quan ( quan sát , tham quan...) Phương pháp đàm thoại Phương pháp thực nghiệm 7. Cấu trúc đề tài Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của khóa luận được chia thành 3 chương: Chương 1: Cở sở lí luận . Chương 2: Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua kể lại chuyện sáng tạo. Chương 3: Giáo án thực nghiệm. 4 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1. Cơ sở tâm lí học. Độ tuổi mẫu giáo lớn là giai đoạn cuối cùng của trẻ em ở lứa tuổi “mầm non” – tức là lứa tuổi trước khi đến trường phổ thông. Ở giai đoạn này, những cấu tạo tâm lí đặc trưng của con người đang dần được hoàn thiện. Ngôn ngữ có ý nghĩa to với đối với con người, nó là phương tiện giao tiếp vạn năng có thể chuyển tải được tất cả các nội dung thông tin khác nhau mà người nói có nhu cầu (từ việc bộc lộ cảm xúc, thái độ của người nói đến những nhu cầu tinh tế về tình cảm; đến những nhu cầu về trao đổi các kinh nghiệm chinh phục thiên nhiên hoặc truyền bá tri thức)...; ngôn ngữ có liên quan chặt chẽ với tư duy của con người, mối quan hệ chặt chẽ giữa ngôn ngữ với tư duy là ở chỗ tư duy dùng ngôn ngữ làm phương tiện, công cụ. Tư duy của trẻ thay đổi theo từng giai đoạn. Trẻ tuổi ấu nhi trẻ hoạt động với đồ vật, chủ yếu là hành động cụ thể để xác lập những mối tương quan . Lúc này trẻ bắt đầu giải các bài toán thực tế nhưng quá trình đó không diễn ra trong óc mà diễn ra bằng tay theo phương thức “thử và có lỗi” ,đó là tư duy trực quan- hành động. Nhờ có những hành động bên ngoài mà những hành động tâm lí bên trong như trí nhớ, tưởng tượng, tư duy được hình thành. Cuối tuổi ấu nhi, trên cơ sở tư duy trực quan- hành động đang phát triển mạnh, bắt đầu có sự xuất hiện một số hành động tư duy được thực hiện trong óc, không cần phép thử bên ngoài. Mặc dù mới dừng ở trực quan- hành động nhưng tư duy của trẻ cũng đã đạt tới những khái quát ban đầu mang tính độc đáo: bước đầu trẻ có thể nhận ra điểm giống nhau giữa các sự vật, hiện tượng ; trẻ cũng nắm được từ chỉ đồ vật mang ý nghĩa khái quát theo chức năng hoặc từ chỉ hành động mang ý nghĩa khái quát theo mục đích chủ yếu thông qua hoạt động với đồ vật, điều này có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển trí 5 tuệ. Cuối độ tuổi này, bên cạnh tư duy trực quan- hành động, có sự xuất hiện kiểu tư duy trực quan- hình tượng, tức là giải các bài toán trong óc dựa vào các biểu tượng đã được tích lũy. Tuy nhiên tư duy này còn hết sức đơn sơ và chỉ xuất hiện trong trường hợp bài toán được đặt ra cho trẻ một cách hết sức đơn giản. Cho đến khi trẻ 3-4 tuổi, tư duy của trẻ có bước ngoặt rõ rệt đó là chuyển đổi từ tư duy trực quan- hành động sang kiểu tư duy trực quan- hình tượng. Tuy nhiên, các hình tượng và biểu tượng trong đầu trẻ vẫn còn gắn liền với hành động, đặc biệt là tư duy thiên về cảm xúc và ý muốn chủ quan nhiều hơn. Ở tuổi mẫu giáo nhỡ, tư duy trực quan- hình tượng phát triển mạnh mẽ. Ban đầu do biểu tượng nghèo nàn và tư duy mới được chuyển từ bình diện bên ngoài vào bình diện bên trong nên trẻ mới chỉ giải được một số bài toán hết sức đơn giản theo kiểu tư duy trực quan- hình tượng. Ở giai đoạn này, trẻ phải giải những bài toán ngày càng phức tạp và đa dạng, đòi hỏi phải tách biệt và sử dụng mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng và hành động. Từ đó mà trẻ bắt đầu đề ra cho mình bài toán nhận thức, tìm tòi cách giải thích những hiện tượng mà mình nhìn thấy được. Nếu ở tuổi mẫu giáo bé, trẻ giải bài toán bằng định hướng bên ngoài- tức là tư duy trực quan- hành động thì ở độ tuổi mẫu giáo nhỡ đã có khả năng giải các bài toán bằng các “phép thử trong óc”. Tuy nhiên, loại tư duy này không còn phù hợp khi trẻ bước sang giai đoạn mẫu giáo lớn vì khả năng và nhu cầu phát triển hơn. Vì vậy, đòi hỏi phải có một kiểu tư duy mới để đáp ứng được nhu cầu phát triển này ở trẻ, đó là loại tư duy trực quan- logic. Nó cho phép trẻ đi sâu vào mối liên hệ phức tạp của sự vật và mở ra khả năng nhìn thấy mặt bản chất của sự vật hiện tượng mà tư duy trực quan- hình tượng không cho phép nhìn thấy được. Khi ngôn ngữ trở thành phương tiện chủ yếu của tư duy, cho phép giải những bài toán trí tuệ mà không cần sử dụng trực tiếp đến hành động và biểu tượng, cũng là lúc trẻ lĩnh hội những niệm mà loài người đã xây dựng lên, tức là những tri thức về các 6 dấu hiệu chung và bản chất của sự vật cũng như hiện tượng trong hiện thực đã được củng cố bằng các từ. Chính vì vậy, để phát triển tư duy thì việc rèn luyện ngôn ngữ là điều hết sức cần thiết. Ngôn ngữ tham gia tích cực vào hoạt động của trí nhớ làm cho việc ghi nhớ, giữ lại, nhớ lại của con người trở nên chủ động và có ý nghĩa. Trí nhớ vô cùng quan trọng, nhờ có trí nhớ mới tích lũy được vốn tri thức và kinh nghiệm. Nếu không có trí nhớ con người không thể học tập, tư duy, đặc biệt với trẻ mầm non nó giúp trẻ tích lũy tri thức và từ đó phát triển trí tuệ. Đối với con người nói chung và trẻ mầm non nói riêng khả năng ghi nhớ và tập trung chú ý có mức độ biểu hiện khác nhau ở từng giai đoạn, từng độ tuổi. Trẻ giai đoạn ấu nhi trẻ đã có khả năng ghi nhớ, tuy nhiên đó là khả năng ghi nhớ không chủ định, không có ý thức phải nhớ một điều gì, trẻ chỉ nhớ những gì hấp dẫn thu hút sự chú ý của trẻ. Đến năm thứ hai, trẻ đã nhớ được khá nhiều do sự khám phá, tiếp xúc với đồ vật xung quanh. Trí nhớ của trẻ dần tốt hơn và đã có sự liên hệ chặt chẽ với lời nói khi trẻ lên ba. Bên cạnh ghi nhớ không chủ định thì trí nhớ có chủ định bắt đầu hình thành ở độ tuổi mẫu giáo nhỡ và đặc biệt phát triển nhanh ở tuổi mẫu giáo lớn. Biểu tượng của trí nhớ ở trẻ mẫu giáo lớn mang tính khái quát hơn. Trong quá trình tưởng tượng, trẻ sử dụng các biểu tượng của trí nhớ. Quá trình tạo ra những biểu tượng mới luôn gắn với ngôn ngữ bên trong. Không có ngôn ngữ thì không thể tiến hành tưởng tượng, chính nhờ ngôn ngữ mà quá trình tưởng tượng là một quá trình có ý thức được điều khiển tích cực và có chất lượng cao. Nhờ có ngôn ngữ mà trẻ có thể chính xác hóa hình ảnh tưởng tượng đang nảy sinh và giữ chúng lại trong trí nhớ. Trẻ 5-6 tuổi đã có khả năng tưởng tượng cao, sự sáng tạo của trẻ được thể hiện bằng trí tưởng tượng phong phú. 7 Như vậy, việc cho trẻ kể lại chuyện một cách sáng tạo không chỉ có ý nghĩa trong việc kiểm tra, củng cố lại trí nhớ mà trẻ còn được tự tin, mạnh dạn trong việc thể hiện cái “tôi” đầy cá tính, từ đó giúp trẻ phát triển trí tuệ. 1.2. Cơ sở sinh lí học Hệ thần kinh là một hệ thống trẻ tuổi trong các hệ thống cơ quan của con người. Là cơ quan chủ động phụ trách toàn bộ mọi hoạt động của cơ thể. Hệ thần kinh giữ mối liên hệ giữa cơ thể với môi trường bên ngoài; điều chỉnh các hoạt động của cơ thể và tạo mối thống nhất giữa hoạt động bên ngoài và hoạt động bên trong của cơ thể. Trong đó, não chính là trung tâm điều khiển của hệ thần kinh trung ương. Cho đến lúc ra đời, não bộ của trẻ vẫn chưa được phát triển đầy đủ. Trẻ sơ sinh, não bộ có kích thước nhỏ, trọng lượng khoảng 370- 392g (= 1/8- 1/9 trọng lượng cơ thể). Trong 9 năm đầu trọng lượng của não bộ tăng lên mạnh mẽ. Khi trẻ sinh ra, mặt ngoài não bộ (khe và rãnh) của trẻ sơ sinh giống như ở người lớn, tuy nhiên các khe và các rãnh chưa biểu hiện rõ rệt, chưa sâu. Quá trình này diễn ra mạnh mẽ đặc biệt khi trẻ được 5 tuổi. Ở người, hai hệ thống tín hiệu thứ nhất và thứ hai có liên hệ chặt chẽ với nhau, trong đó hệ thống tín hiệu thứ hai chiếm ưu thế. So với hệ thống tín hiệu thứ nhất thì hệ thống tín hiệu thứ hai có đặc điểm nổi bật đó là khả năng trừu tượng hóa, khái quát hóa các sự vật và hiện tượng xảy ra ở thế giới bên ngoài cũng như ở bên trong cơ thể chúng ta. Vì vậy, hệ thống tín hiệu thứ hai là cơ sở của tư duy con người. Học thuyết về hệ thống tín hiệu đã khẳng định : ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu thứ hai, là sự hoạt động của vỏ bán cầu đại não. Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ phải liên quan mật thiết với việc phát triển của bán cầu đại não và hệ thần kinh nói chung, bộ máy phát âm nói riêng. Vì thế cần phải phát triển ngôn ngữ đúng lúc mới đạt kết quả tốt. 8 Âm tiết của ngôn ngữ là đơn vị âm thanh nhỏ nhất trong lời nói không thể phân chia thêm được nữa. Sự phát âm đúng có liên quan chặt chẽ đến sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan phát âm của trẻ. Phát âm của trẻ phụ thuộc vào sự hoàn thiện của bộ máy phát âm. Chính lứa tuổi mầm non là giai đoạn hoàn thiện dần bộ máy phát âm đó như sự xuất hiện của răng, sự vân động linh hoạt của môi, lưỡi, hàm dưới... Tuy nhiên, trong cùng một độ tuổi sự phát triển ngôn ngữ ở mỗi trẻ là khác nhau. Có những trẻ phát âm rõ ràng, mạch lạc, cũng có những trẻ thường hay nói ngọng. Trẻ nói ngọng có thể là do bộ máy phát âm có lỗi bẩm sinh như ngắn lưỡi, dài lưỡi... hay do quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ. Âm sắc của tiếng nói do tính chất của hòa âm xác định và phụ thuộc vào sự cộng hưởng của phần trên của thanh quản, họng, khoang miệng và mũi. Bộ máy phát âm của trẻ chưa phát triển đầy đủ, các bộ phận tạo thành tiếng nói chưa liên kết chặt chẽ nên trẻ phát âm còn chưa chuẩn, không chính xác. Do đó, việc nghiên cứu bộ máy phát âm để tìm hiểu vốn từ của trẻ mầm non hoàn toàn có cơ sở và mang tính khoa học. 1.3. Cơ sở giáo dục học Dạy học ở trường mẫu giáo là quá trình phát triển có hệ thống, có kế hoạch và có mục đích các năng lực nhận thức của trẻ, trang bị cho trẻ hệ thống tri thức sơ đẳng, hình thành các kỹ năng , kỹ xảo tương ứng và trên cơ sở đó góp phần hình thành nhân cách cho trẻ mẫu giáo. Dạy học ở trường mẫu giáo cũng cần một hệ thống phương pháp khác với phổ thông. Tương ứng với trình độ phát triển tâm lý và tư duy của trẻ mẫu giáo, các phương pháp trực quan và tổ chức trò chơi được sử dụng rộng rãi. Việc lĩnh hội tài liệu mới phải được diễn ra trong quá trình hoạt động của trẻ: thực hành với đồ vật, trong các trò chơi khác nhau, trong các hoạt động tạo ra sản phẩm như vẽ, nặn, cắt dán hoặc thiết kế xây dựng phải sử 9 dụng nhiều biện pháp dạy học khác nhau, luôn thay đổi, sinh động, hấp dẫn và phù hợp tâm lý của trẻ. Hình thức tổ chức dạy học hiện nay cho trẻ mẫu giáo là thông qua mọi hoạt động tự nhiên của trẻ mà không có “tiết học” nữa. Nội dung học tập không phân bố chi tiết vào các tiết học mà theo theo các chủ đề lớn như chủ đề giao thông, gia đình, thế giới thực vật... Mỗi chủ đề lại chứa đựng những nội dung chi tiết hơn. Trong quá trình dạy học có nhiều hoạt động khác nhau như: Làm quen với Văn học, Làm quen với môi trường xung quanh, Hình thành biểu tượng toán, Tạo hình, Âm nhạc...tất cả hoạt động này nhằm mục đích mở rộng kiến thức hiểu biết cho trẻ và bên cạnh đó còn có một nhiệm vụ vô cùng quan trọng đó là phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Ngôn ngữ của trẻ được hình thành và phát triển qua việc giao tiếp với con người và qua việc tiếp xúc với sự vật hiện tượng xung quanh. Việc học tập của trẻ diễn ra “ mọi lúc, mọi nơi” như trẻ được quan sát sự vật, hiện tượng xung quanh thông qua các chuyến đi dạo; trẻ có hiểu biết ban đầu về các hình dạng, kích thước, mối quan hệ số lượng thông qua một số trò chơi...Để củng cố, phát triển nhận thức của mình thì trẻ cần sử dụng lời nói để gọi tên, nói lên đặc điểm , tính chất của các sự vật, hiện tượng đó. Trong quá trình học của trẻ không thể không kể đến vai trò quan trọng của giáo viên. Cô giáo phải đảm bảo chức năng hướng dẫn, tổ chức hoạt động học tập của trẻ; không những vậy, giáo viên còn có nhiệm vụ dạy trẻ nói câu đầy đủ, phát âm đúng, đảm bảo nguyên tắc giáo dục học tính khoa học, tính hệ thống, tính vừa sức, tính tiếp thu. 10 1.4. Cơ sở ngôn ngữ học Ngôn ngữ là sự sáng tạo kì diệu của con người. Nhờ có ngôn ngữ, con người mới có phương tiện để nhận thức và thể hiện nhận thức của mình, để giao tiếp và hợp tác với nhau… Nói đến sự phát triển của xã hội không thể không nói đến vai trò đặc biệt quan trọng của ngôn ngữ. Nguyễn Thiện Giáp đã khẳng định: “Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu âm thanh đặc biệt, là phương tiện giao tiếp cơ bản và quan trọng nhất của các thành viên trong một cộng đồng người. Ngôn ngữ đồng thời cũng là phương tiện phát triển tư duy, truyền đạt truyền thống văn hoá - lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác.” [ 2; 5 ]. Ngôn ngữ phục vụ xã hội với tư cách là phương tiện giao tiếp giữa mọi người giúp cho người ta hiểu biết lẫn nhau, cùng nhau tổ chức công tác chung trên mọi lĩnh vực hoạt động của con người. Trong tất cả các phương tiện mà con người sử dụng để giao tiếp thì ngôn ngữ là phương tiện duy nhất thoả mãn được tất cả nhu cầu của con người. Ngoài ra, ngôn ngữ được sử dụng như một phương tiện của tư duy, hay còn được hiểu ngôn ngữ là “cái vỏ” của tư duy, là phương thức biểu đạt muốn cho người khác hiểu được những suy nghĩ, nhu cầu, mong muốn của bản thân thông qua lời nói. Với trẻ mầm non thì ngôn ngữ chủ yếu là ngôn ngữ nói, điều đó có nghĩa là việc trẻ cần giao lưu, trao đổi với mọi người xung quanh trong những năm đầu đời là vô cùng quan trọng. Nếu trẻ không được thường xuyên nói chuyện, không thường xuyên giao lưu với người khác thì trẻ sẽ không có nhiều vốn từ ngữ, cũng như không biết cách biểu đạt những mong muốn của bản thân mình bằng lời nói, mà chỉ bằng hành động. Cần làm giàu vốn từ cho trẻ bằng cách củng cố vốn từ đã biết, cung cấp từ mới làm cho vốn từ phong phú, tích cực hóa vốn từ cho trẻ. Trong công tác giáo dục mầm non, người lớn cần phải có ý thức rèn luyện và phát triển 11 ngôn ngữ cho trẻ một cách thường xuyên liên tục, mọi lúc, mọi nơi và trong mọi hoạt động. Để tồn tại trong xã hội, con người cần phải giao tiếp, trong đó tiếng nói và ngôn ngữ chính là phương tiện quan trọng để giao tiếp của con người. Giao tiếp giúp cho con người hình thành năng lực tự ý thức và phát triển nhận thức. Đặc biệt với trẻ lứa mầm non, là độ tuổi rất thích tìm tòi, khám phá thế giới xung quanh. Nhờ vào hoạt động giao tiếp với người lớn, trẻ làm quen với các sự vật, hiện tượng và hiểu những đặc điểm, tính chất, cấu tạo, công dụng... của chúng , giúp trẻ mở rộng hiểu biết về thế giới xung quanh, tích cực, sáng tạo trong hoạt động trí tuệ. Để có thể giao tiếp, biểu đạt ý muốn của mình thì cần phải có vốn từ. Vốn từ của trẻ mẫu giáo có khối lượng nhỏ hơn nhiều so với người lớn vì khối lượng tri thức của trẻ còn quá hạn hẹp. Trẻ mẫu giáo lĩnh hội vốn chỉ là bước đầu nên không phải tất cả từ chúng tiếp nhận và sử dụng được ngay. Có những từ ngữ tích cực, trẻ hiểu và sử dụng trong giao tiếp ( loại này có số lượng hạn chế). Loại vốn từ thụ động bao gồm những từ trẻ mới lĩnh hội. Do kinh nghiệm sống và tri thức còn nghèo nàn nên trẻ chưa hiểu rõ nghĩa cuả từ nên không sử dụng được. Vì vậy, tích cực hóa vốn từ là chuyển vốn từ thụ động sang vốn từ chủ động cho trẻ là điều vô cùng quan trọng. Đó là quá trình giúp trẻ không những hiểu biết từ với nhiều nghĩa khác nhau mà còn sử dụng chúng trong nhiều hoàn cảnh giao tiếp. Cuối tuổi mẫu giáo là giai đoạn chuẩn bị cho một bước ngoặt lớn của trẻ - chuẩn bị vào lớp 1. Vì vậy, phát triển vốn từ là nhiệm vụ quan trọng trong phát triển ngôn ngữ cho trẻ, làm cơ sở cho việc lĩnh hội tri thức. 12 1.5. Một số khái niệm 1.5.1. Khái niệm kể lại chuyện Kể lại chuyện là dùng ngôn ngữ của mình để kể lại nội dung của tác phẩm. Nghĩa là trong khi kể , cô giáo có thể thêm hoặc bớt những chi tiết không làm ảnh hưởng đến việc hiểu nội dung của câu chuyện. ở đây, cô giáo phải bằng nghệ thuật kể của mình để truyền đạt một cách sinh động “linh hồn” của tác phẩm đến với trẻ.[11;30] 1.5.2. Mục đích của việc dạy trẻ kể lại chuyện Vấn đề giáo dục nhân cách con người – là một mục tiêu cao, cho cả đời người, cần được chuẩn bị sớm cho các thế hệ trẻ, ngay từ lúc vào đời. Vì vậy, cần phát triển tất cả các khả năng, thiên hướng của trẻ. Trong tất cả các khả năng thiên hướng ấy, không có cái nào quan trọng hơn và cần thiết bằng khả năng ngôn ngữ. Vì vậy, việc phát triển ngôn ngữ có hệ thống, có phương pháp phải được tiến hành trong tất cả các hoạt động, các môn học, đặc biệt qua việc cho trẻ tiếp xúc với các tác phẩm văn học. Văn học là một phương tiện hiệu quả mạnh mẽ không chỉ đối với việc giáo dục trí tuê, đạo đức, thẩm mĩ mà còn có ảnh hưởng vô cùng to lớn đến sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. Ở lứa tuổi mầm non, với tâm hồn thơ ngây, trong trắng, chưa có nhiều những trải nghiệm cá nhân, nhận thức về thế giới xung quanh ở mức cảm tính…, nên việc tiếp xúc với cái đẹp lấp lánh của ngôn từ và trí tưởng tượng phong phú trong tác phẩm văn học thiếu nhi sẽ là cơ sở để các em rung động và cảm nhận được vẻ đẹp về một thế giới bao la đầy âm thanh, màu sắc và sự huyền bí. Trong truyện cổ tích, trẻ được gặp ông Bụt, bà Tiên tốt bụng với những phép biến hóa thần thông, những nàng công chúa xinh đẹp, những chàng hoàng tử thông minh, can đảm… Còn trong truyện thần thoại, các em lại được bắt gặp lối nhân hóa và sự tưởng tượng nghệ thuật, ở đó các con vật, cỏ cây, hoa lá hiện lên một cách sinh 13 động thể hiện tình cảm gắn bó sâu sắc giữa con người với thiên nhiên. Việc kể các câu chuyện cho trẻ nghe có tác dụng làm phong phú khả năng ngôn ngữ, sức sáng tạo, sự tự tin đồng thời, bồi dưỡng và vun đắp cho các bé sự thông minh về trí tuệ và cảm xúc - một yếu tố được coi là kim chỉ nam đối với sự phát triển của trẻ. Tuy nhiên, để ngôn ngữ của trẻ phát triển một cách tối ưu, đặc biệt về mặt vốn từ thì không chỉ dừng lại ở việc trẻ được nghe kể mà nó còn đòi hỏi ở việc trẻ được mạnh dạn, tự tin kể lại các câu chuyện đó. Trong phương hướng giáo dục nghệ thuật ở Pháp kế hoạch hàng đầu đưa ra là phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ, khích lệ nhu cầu hoạt động sáng tạo theo quy luật của cái đẹp. Như vậy, cần phải làm thế nào để cho trẻ không những chỉ cảm thụ văn học mà còn phải hành động, không phải chỉ biết bắt chước mà còn phải sáng tạo. Hình thành phát triển khả năng hoạt động nghệ thuật là hình thành phát triển những khả năng cở bản của trẻ em, việc làm này sẽ góp phần làm giàu nhân cách trẻ. Trẻ 5-6 tuổi đã phát triển khả năng tư duy, trí tưởng tượng, sức sáng tạo và cá tính riêng. Kể lại chuyện sáng tạo tạo điều kiện cho trẻ có cơ hội tự do sáng tạo, tích lũy được những kiến thức về thế giới xung quanh một cách tự nhiên nhất, luyện phát âm, phát triển khả năng biểu đạt và đặc biệt là giúp cho trẻ mở rộng vốn từ một cách chủ động để trình bày ý kiến, suy nghĩ, tự tin khi kể về một sự vật hay sự kiện nào đó bằng chính ngôn ngữ của mình. Khác với các hình thức kể chuyện khác, kể lại chuyện sáng tạo mang một nét cá tính riêng biệt của mỗi cá nhân thể hiện, bởi nó được xây dựng trên tâm lý tưởng tượng. Ví dụ như truyện “Cây khế” , khi kể đến đoạn chim lạ đến ăn khế của người em, cháu Bảo Bình kể lại như sau: “ Mấy hôm sau có con chim lạ từ đâu bay tới đuôi dài có một bộ lông rực rỡ bay về ăn khế. Chim mổ hết quả nọ đến quả kia. 14 Người em đuổi đi và nói: “ Chim gì mà lạ thế, to thế kia, ăn thế này chả mấy chốc mà hết cây khế của ta chứ. Ta nghèo lắm không có gì ngoài cây khế này đâu”. Chim trả lời: “Ta là Phượng Hoàng ta ăn khế sẽ trả mỗi quả một cục vàng. Ngươi chuẩn bị đi theo ta mà lấy vàng nhé ” Hay ở đoạn chim chở người em ra biển lấy vàng, cháu đã kể lại như sau: “ Chim đưa người em đến hòn đảo giữa biển, trên đảo đầy vàng bạc châu báu. Người em reo lên: “Ôi! Nhiều vàng thế không biết nhưng ta không lấy nhiều đâu, lấy nhiều sẽ bị người khác coi là tham lam đấy” Như vậy, khi trẻ kể lại chuyện, trẻ sự kết hợp tinh tế giữa việc nhớ lại câu chuyện đã được nghe và sử dụng trí tưởng tượng của mình để tạo nên câu chuyện mới mẻ, hấp dẫn hơn. Công việc này đòi hỏi vốn từ phong phú, kĩ năng tổng hợp, kĩ năng truyền đạt lại ý nghĩa của mình một cách chính xác. Những kĩ năng này trẻ lĩnh hội được trong quá trình tiếp xúc với thế giới xung quanh, qua quá trình học tập ở trường và việc luyện tập thường xuyên. 1.5.3. Phân biệt kể lại truyện văn học và kể lại chuyện. 1.5.3.1. Kể lại chuyện. Kể lại chuyện là dùng ngôn ngữ của mình để kể lại nội dung của tác phẩm. Nghĩa là trong khi kể , cô giáo có thể thêm hoặc bớt những chi tiết không làm ảnh hưởng đến việc hiểu nội dung của câu chuyện. Ở đây, cô giáo phải bằng nghệ thuật kể của mình để truyền đạt một cách sinh động “linh hồn” của tác phẩm đến với trẻ. Các bước dạy kể lại chuyện: Bước 1: Cô kể chuyện cho trẻ nghe Bước 2: Cho trẻ thảo luận, đàm thoại cùng cô Bước 3: Cho trẻ kể lại chuyện 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất