BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
THÀO A LỨ
PHÁT HUY NGUỒN LỰC CON NGƢỜI TRONG
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở XÃ SÍNH PHÌNH,
TỦA CHÙA, ĐIỆN BIÊN HIỆN NAY
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Sơn La, năm 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
THÀO A LỨ
PHÁT HUY NGUỒN LỰC CON NGƢỜI TRONG
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở XÃ SÍNH PHÌNH,
TỦA CHÙA, ĐIỆN BIÊN HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn: Ths. Nguyễn Thanh Thuỷ
Sơn La, năm 2018
BẢNG CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG KHÓA LUẬN
CNH
Công nghiệp hóa
HĐH
Hiện đại hóa
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
KHCN
Khoa học công nghệ
NXB
Nhà xuất bản
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu ..................................................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài...................................................... 3
3.1. Mục đích của đề tài: .................................................................................... 3
3.2. Nhiệm vụ của đề tài: .................................................................................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................... 4
4.1. Đối tượng nghiên cứu: ................................................................................. 4
4.2. Phạm vi nghiên cứu: .................................................................................... 4
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu....................................................... 4
5.1. Cơ sở lý luận: .............................................................................................. 4
5.2. Phương pháp nghiên cứu: ............................................................................ 4
6. Những đóng góp mới của đề tài ...................................................................... 4
7. Kết cấu của khóa luận .................................................................................... 5
CHƢƠNG 1: NGUỒN LỰC CON NGƢỜI VÀ VAI TRÒ CỦA NGUỒN LỰC
CON NGƢỜI TRONG SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI .......................... 6
1.1. Lý luận chung về con người và nguồn lực con người .................................. 6
1.1.1. Khái niệm con người ................................................................................ 6
1.1.2. Khái niệm nguồn lực con người.............................................................. 11
1.2. Nguồn lực con người trong phát triển kinh tế - xã hội ............................... 17
1.2.1. Vai trò của nguồn lực con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội ....... 17
1.2.2. Các yếu tố tác động đến nguồn lực con người trong phát triển kinh tế - xã
hội .................................................................................................................... 22
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 25
CHƢƠNG 2: PHÁT HUY NGUỒN LỰC CON NGƢỜI TRONG PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI Ở XÃ SÍNH PHÌNH, TỦA CHÙA, ĐIỆN BIÊN HIỆN NAY,
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ...................................................................... 26
2.1. Những đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội ảnh hƣởng đến việc
phát huy nguồn lực con ngƣời của xã Sính Phình, Tủa Chùa, Điện Biên ... 26
2.2. Thực trạng việc phát huy nguồn lực con ngƣời trong sự phát triển kinh
tế - xã hội ở xã Sính Phình, Tủa Chùa, Điện Biên - những vấn đề đặt ra ..... 29
2.2.1. Thực trạng việc phát huy nguồn lực con người trong phát triển kinh tế - xã
hội ở xã hội xã Sính Phình, Tủa Chùa, Điện Biên hiện nay .............................. 29
2.2.2. Những vấn đề đặt ra đối với việc phát huy nguồn lực con người con người
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của xã Sính Phình, Tủa Chùa, Điện
Biên.................................................................................................................. 34
2.3. Một số giải pháp nhằm phát huy nguồn lực con ngƣời trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội ở xã Sính Phình, Tủa Chùa, Điện Biên hiện nay ............. 37
2.3.1. Phát triển giáo dục - đào tạo theo tinh thần cải cách phù hợp với đặc điểm
ở xã Sính Phình, Tủa Chùa, Điện Biên nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực .................................................................................................................... 37
2.3.2. Thu hút nhân tài, lao động kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của xã Sính Phình, Tủa Chùa, Điện Biên hiện nay ................................. 40
2.3.3. Đẩy mạnh thực hiện chương trình giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo và
phòng chống các tệ nạn xã hội nhằm tăng cường nguồn lực lao động trong xã...... 41
2.3.4. Đẩy mạnh sản xuất hàng hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát huy tối đa nguồn lực con người xã
Sính Phình, Tủa Chùa, Điện Biên ........................................................................... 43
2.3.5. Tiếp tục củng cố, hoàn thiện quy chế dân chủ và phát huy dân chủ ở cơ sở ....46
2.3.6. Giải quyết đúng đắn các mối quan hệ lợi ích nhằm khơi dậy, phát huy nguồn
lực con người ở xã Sính Phình, Tủa Chùa, Điện Biên .................................................49
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................ 54
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vào những năm cuối của thế kỷ XX con người đã liên tiếp làm nên những
điều kỳ diệu như: bay vào vũ trụ để khám phá tìm hiểu các hành tinh, đi sâu vào
lòng đất để tìm kiếm các nguồn nguyên liệu quý, phát triển mạnh mẽ công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học và những phát minh sáng chế khoa học khác để
phục vụ cuộc sống của con người. Bước sang thế kỷ XXI - thế kỷ nền văn minh
công nghệ, nhân loại có thể làm nên những điều kỳ diệu hơn thế với khả năng
tiềm ẩn và sức sáng tạo hết sức phong phú và đa dạng của con người.
Vì vậy, trong sự phát triển kinh - tế xã hội, nguồn lực con người trở thành
yếu tố cơ bản và quan trọng nhất, chúng ta không thể xây dựng thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
nếu không quan tâm đến nguồn lực con người. Với tư cách là yếu tố quan trọng
nhất của lực lượng sản xuất, con người có thể tạo ra mọi động lực cho sự phát
triển. Để thực hiện tốt vai trò quan trọng này, con người cần phải được chăm lo
bồi dưỡng, tích tụ tiềm năng và phát huy một cách tối đa năng lực sáng tạo của
mình. Nói cách khác con người cần phải được phát triển, phải có sự lựa chọn
những phương án tối ưu quan tâm tới nhân tố con người.
Khẳng định vai trò con người và nguồn lực con người. Từ Đại hội Đảng lần
thứ VI đến nay, Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày càng nhận thức đầy đủ hơn vai
trò của con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển
năm 2011) của Đảng ghi rõ: Con người là trung tâm của chiến lược phát triển,
đồng thời là chủ thể phát triển. Đồng thời trong chiến lược phát triển kinh tế xã
hội 2011 - 2020, được thông qua tại Đại hội XI, Đảng Cộng Sản Việt Nam
khẳng định “phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao là một bước đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định
đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế,
chuyển đổi mô hình tăng trưởng và lợi thế cạnh tranh, bảo đảm cho sự phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững”[8.tr.128]. Nguồn lực con người được coi là nguồn
1
lực quan trọng nhất, quý báu nhất có vai trò quyết định đặc biệt là đối với nước
ta khi mà nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp.
Xã Sính Phình, Tủa Chùa, Điện Biên là một xã miền núi có nhiều dân tộc
thiểu số, kinh tế chưa phát triển, là một xã nghèo nên vấn đề bồi dưỡng và phát
huy nguồn lực con người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội lại càng có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì vậy, phát huy nguồn lực con người trong phát triển
kinh tế - xã hội ở xã Sính Phình,Tủa Chùa, Điện Biên hiện nay là rất cần thiết.
Xuất phát từ những điều nói trên tôi quyết định chọn đề tài: “Phát huy
nguồn lực con người trong phát triển kinh tế - xã hội ở xã Sính Phình, Tủa
Chùa, Điện Biên hiện nay”, làm đề tài khóa luận của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Nguồn lực con người là vấn đề nhận được nhiều sự quân tâm của các nhà
nghiên cứu, có thể kể đến như:
Cuốn sách: “Về vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa – Hiện
đại hóa ở nước ta” và “Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI”
của tác giả Phạm Minh Hạc cũng có đóng góp rất lớn trong việc khẳng định vai
trò to lớn của con người và giáo dục trong sự phát triển đất nước.
Thạc sỹ Phùng Thu Hiền với đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con
người với việc phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới đất nước
hiện nay”, Luận văn khẳng định quan điểm của Hồ Chí Minh về phát huy nhân
tố con người là phát huy tổng hợp các yếu tố trí, đức, thể, mỹ, kỹ. “Con người
và nguồn lực con người trong quá trình phát triển” của viện Thông tin Khoa
học xã hội.
Lê Quang Hoan, với đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người với việc
phát huy nhân tố con người trong CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay”, Luận án
Tiến sĩ triết học, trong Luận án, tác giả đã làm rõ nguồn gốc, quá trình hình
thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về con người; phân tích làm rõ quan
niệm của Hồ Chí Minh về con người và vai trò của con người trong tiến trình
cách mạng Việt Nam…
2
Ngoài ra còn rất nhiều công trình, bài báo trong nước và ngoài nước bàn về
vấn đề này. Có thể thấy như: PGS.TS. Phạm Ngọc Anh. “Nguồn lực con người
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu
lý luận số 2, 1995 và “Quan niệm Hồ Chí Minh về vai trò động lực của lợi ích”,
đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng số 4, 1999, PGS đã khẳng định vai trò quyết
định của nhân tố con người; phân tích sâu sắc về lợi ích, nguồn động lực quan
trọng thúc đẩy người lao động phát huy tài năng, trí tuệ của mình, đồng thời đưa
ra các giải pháp, đặc biệt là chăm lo đến lợi ích của người lao động nhằm phát
huy nhân tố con người trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nguồn lực con người và phát huy nguồn lực con người cũng là những nội
dung quan trọng được đề cập đến trong một số bài viết sau đây:
Nguyễn Trọng Chuẩn, “Nguồn nhân lực trong chiến lược phát triển kinh tế
xã hội”, Tạp chí Triết học, số 4, 1990.
Nguyễn Tuấn Dũng, “Hồ Chí Minh về chiến lược con người trong cách
mạng Việt Nam”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 5, 2000.
Thành Duy, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách xã hội đối
với con người”, Tạp chí lịch sử Đảng, số 12, 2005...
Trên đây là những bài báo rất quan trọng mà các nhà khoa học đã đạt
được trong lĩnh vực nghiên cứu về con người, nguồn lực con người và phát huy
nguồn lực con người trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Với tinh thần khiêm
tốn học hỏi, tác giả của khóa luận xin phép được kế thừa, tiếp thu có chọn lọc
những thành tựu của các nhà khoa học, lấy đó làm những gợi ý quan trọng để
phục vụ cho quá trình nghiên cứu và hoàn thiện đề tài.
Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về nguồn lực con người nhưng
chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và đầy đủ nguồn lực
con người ở xã Sính Phình, Tủa Chùa, Điện Biên. Vì vậy, tôi mạnh dạn nghiên
cứu vấn đề này cho việc “phát huy nguồn lực con người trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội ở xã Sính Phình, Tủa Chùa, Điện Biên hiện nay”.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích của đề tài:
3
Trên cơ sở phân tích vai trò nguồn lực con người, thực trạng nguồn lực con
người ở xã Sính Phình, Tủa Chùa, Điện Biên hiện nay, khóa luận đưa ra giải
pháp phát huy vai trò nguồn lực con người ở xã Sính Phình, Tủa Chùa, Điện
Biên trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài:
- Phân tích vai trò của nguồn lực con người trong quá trình phát triển kinh
tế - xã hội.
- Làm rõ thực trạng nguồn lực con người ở xã Sính Phình, Tủa Chùa, Điện
Biên hiện nay.
- Đưa ra giải pháp nhằm phát huy vai trò nguồn lực con người ở xã Sính
Phình,Tủa Chùa, Điện Biên trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu về thực trạng về việc sử dụng nguồn
nhân lực con người và đề xuất một số giải pháp phát huy nguồn lực con người
trong phát triển kinh tế - xã hội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu về vai trò của nguồn lực con
người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở xã Sính Phình, Tủa Chùa,
Điện Biên trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: Khóa luận vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và các quan điểm, chính sách, đường lối
của Đảng, của Nhà nước ta về nguồn lực con người và các giải pháp phát huy
vai trò nguồn lực con người.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Khóa luận sử dụng nhiều phương pháp khác
nhau như: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lôgic và lịch sử...
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng
6. Những đóng góp mới của đề tài
- Làm rõ thực trạng về việc sử dụng nguồn nhân lực con người và của
nguồn lực ở xã Sính Phình, Tủa Chùa, Điện Biên trong giai đoạn hiện nay và xu
4
thế phát triển của nguồn lực con người ở xã Sính Phình, Tủa Chùa, Điện Biên
trong những năm tới.
- Khóa luận đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần phát huy vai trò của
nguồn lực con người ở xã Sính Phình, Tủa Chùa, Điện Biên trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo khóa luận gồm
2 chương và 4 tiết
5
CHƢƠNG 1
NGUỒN LỰC CON NGƢỜI VÀ VAI TRÒ CỦA NGUỒN LỰC
CON NGƢỜI TRONG SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1. Lý luận chung về con ngƣời và nguồn lực con ngƣời
1.1.1. Khái niệm con ngƣời
Ngay từ khi triết học ra đời, vấn đề con người đã trở thành trung tâm, là đối
tượng tranh luận của nhiều nhà tư tưởng, nhiều trường phái triết học khác nhau.
Con người là gì? Bản chất và vai trò của con người trong tiến trình lịch sử ra sao?
Các nhà triết học đã lý giải lập trường thế giới quan và phương pháp luận khác
nhau và vì vậy đã hình thành nên những quan niệm khác nhau về con người.
Thời cổ đại, do hạn chế về thế giới quan, về điều kiện lịch sử, do trình độ
sản xuất thấp kém, khoa học chưa phát triển, nên quan niệm về con người của
các nhà triết học còn phiến diện, mang nặng tính thần bí, siêu hình, thường tuyệt
đối hóa một mặt, một yếu tố vật chất và tinh thần nào đó.
Thời kỳ Trung cổ ở phương Tây, do ảnh hưởng nặng nề của thần học, các
quan niệm về con người mất hết ý nghĩa tích cực của nó. Con người được hiểu
như là sự sáng tạo của thượng đế, của đức chúa trời.
Thời kỳ phục hưng và khai sáng được coi như là bắt đầu một thời kỳ mới
trong việc khám phá bản chất con người, quan niệm về con người thường gắn
với vai trò của nó trong xã hội, hướng tới nhu cầu giải phóng con người khỏi
thần học, khỏi các điều kiện áp bức, nô dịch trong xã hội. Khẳng định con người
cá nhân - cái tôi như một chủ thể. Tuy nhiên do ảnh hưởng của chủ nghĩa duy
vật siêu hình, các quan niệm về con người chỉ phán ánh những khía cạnh hạn
hẹp, thiếu tính hệ thống.
Chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc phủ nhận mọi thứ tôn giáo về một vị thượng
đế đứng ngoài, sáng tạo ra con người, chi phối cuộc sống của con người. Theo
phoiơbắc không phải thượng đế sáng tạo ra con người mà chính con người sáng
tạo ra thượng đế theo hình ảnh của mình. Tuy nhiên, con người trong triết học
Phoiơbắc chỉ là con người trừu tượng, phi xã hội, mang những thuộc tính sinh
6
học bẩm sinh. Do đó, triết học nhân bản của Phoiơbắc vẫn chứa đựng nhiều yếu
tố duy tâm, đặc biệt khi ông cho bản chất của con người là tình yêu và đề xuất
tôn giáo tình yêu.
Tóm lại, những sai lầm, thiếu sót chủ yếu trong nhận thức triết học về bản
chất con người của các hệ thống triết học trước Mác là do xuất phát từ lập
trường duy tâm hoặc từ phương pháp siêu hình trong cách xem xét về vấn đề
con người.
C. Mác và Ph.Ăngghen đã vượt qua tất cả những quan niệm trừu tượng về
con người và đưa ra một cách tiếp cập mới về con người: Con người hiện thực.
“Đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh
hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều
kiện do hoạt động vật chất của họ sáng tạo ra”. [4, tr.17].
Để đi tới nhận thức con người hiện thực, C.Mác và Ph.Ăngghen đã lấy hoạt
động thực tiễn của con người làm điểm xuất phát. Chính từ trong thực tiễn mà
con người có quan hệ với tự nhiên (nhận thức, cải tạo tự nhiên), mà các quan hệ
xã hội của con người được hình thành. Thông qua thực tiễn, con người làm biến
đổi đời sống hiện thực xã hội, đồng thời làm biến đổi chính bản thân mình. Từ
đó con người làm nên và sáng tạo ra nền văn hóa của nhân loại.
Với cách tiếp cập con người hiện thực - con người thực tiễn, Triết học Mác
- Lênin quan niệm:
* Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội.
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học,
đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học
và yếu tố xã hội.
Con người là động vật cao cấp nhất, tinh hoa nhất của muôn loài, con
người là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Con người
phải tìm kiếm mọi sự cần thiết cho sự tồn tại trong đời sống tự nhiên như thức
ăn, nước uống,.. Như vậy con người trước hết là một tồn tại sinh vật, biểu hiện
trong những cá nhân con người sống, là tổ chức cơ thể người và mối quan hệ
của nó với tự nhiên. Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh
7
học,tính loài. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự
tồn tại của con người. Vì vậy giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”.
Con người là một bộ phận của giới tự nhiên.
Tuy nhiên mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất
của con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài
vật là phương diện xã hội của nó. C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu lên vai trò của
lao động sản xuất ở con người: “Có thể phân biệt con người bằng súc vật, bằng
ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con
người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản
xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể
của con người quy định. Sản xuất ra tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con
người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”. [2, tr.29].
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất; con người đã làm thay đổi, cải biến
giới tự nhiên: “Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản
xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”[3,tr.137].
Tính xã hội của con người là biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất;
hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện một căn bản tính xã hội của con người.
Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất
và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư
duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành
bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong
cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển
của con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, như
quy luật thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự
phù hợp cơ thể với môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến
dị, tiến hóa … Quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy
luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người
như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã
hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người.
8
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa
mạt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong
mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con
người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật.
Nhu cầu sinh học phải được “nhân hóa” để mang giá trị văn minh con người, và
đến lượt nó, nhu cầu xã hội không thể thoát lý khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học.
Hai mặt trên thống nhất với nhau, hòa quyện vào nhau để tạo thành con người
viết hoa, con người tự nhiên - xã hội.
* Trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tổng hòa những quan
hệ xã hội.
Con người là một thực thể xã hội được tách ra như một lực lượng đối lập
với giới tự nhiên, sự tác động qua lại giữa cái sinh học và cái xã hội tạo thành
bản chất của con người. Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người
C.Mác đã nêu lên luận điểm nổi tiếng trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbăc:
“Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân
riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tổng hòa những
quan hệ xã hội” [2, tr.11]
Luận điểm trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly
mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định,
sống trong một điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động của mình, con người tạo ra
những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí
tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xá hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc,
thời đại; quan hệ chính, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội ..) con người
mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình. Quan niệm bản chất con người là
tổng hòa những quan niệm xã hội mới giúp chúng ta nhận thức đúng đắn, tránh
khỏi cách hiểu thô thiểu về mặt tự nhiên, cái sinh vật ở con người.
* Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử.
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con
người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của
giới hữu sinh. Song điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể
9
của lịch sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định: “cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho
rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và giáo dục... cái học thuyết
ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà
giáo dục cũng cần phải được giáo dục”,[1,130]. Trong tác phẩm Biện chứng
của tự nhiên, Ph.Ăngghen cũng cho rằng: “thú vật cũng có lịch sử, chính là lịch
sử nguồn gốc của chúng và lịch sử phát sử phát triển dần dần của chúng cho tới
trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải là do chúng làm ra
và trong chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó
diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại,
con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì
con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy
nhiêu” [20,tr.476].
Với tư cách là hiện thực xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào
tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch
sử xã hội. Trái với thế giới loài vật chỉ dựa vào những điều kiện có sẵn trong tự
nhiên. Con người thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm
thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình.
Con người sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của
chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện vừa là
phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội loài người.
Không có con người trừu tượng, chỉ có con người chụ thể trong mỗi giai
đoạn phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người, trong mỗi
quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến đổi, cũng phải thay
đổi cho phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà
là một hệ thông mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người.
Mặc dù là “tổng hòa các quan hệ xã hội”, con người có vai trò tích cực
trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo.
Như vậy, triết học Mác - Lênin không dừng lại ở điều kiện khẳng định
rằng, con người là sản phẩm của lịch sử, mà còn tiến lên khẳng định vị thế của
10
con người là chủ thể lịch sử. Con người đóng vai trò chủ thể sáng tạo lịch sử
thông qua các hoạt động cải tạo thế giới bằng hoạt động đó, con người sáng tạo
ra lịch sử và tạo ra chính mình.
1.1.2. Khái niệm nguồn lực con ngƣời
Trong các nguồn lực có thể khai thác như nguồn lực tự nhiên, nguồn lực
khoa học - công nghệ, nguồn vốn, nguồn lực con người thì nguồn lực con người
là quyết định nhất, bởi lẽ, những nguồn lực khác chỉ có thể khai thác có hiệu quả
khi nguồn lực con người được phát huy. Chúng ta biết rằng, điều kiện tự nhiên,
khí hậu, địa lý, nguồn vốn có vai trò rất lớn trong sự phát triển của mỗi quốc gia.
Song những yếu tố đó ở dưới dạng tiềm năng, tự chúng là những khách thể bất
động. Chúng chỉ trở thành nhân tố “khởi động”, và phát huy tác động khi kết
hợp với nguồn lực con người. Những nguồn lực khác ngày càng cạn kiệt, ngược
lại nguồn lực con người ngày càng đa dạng và phong phú và có khả năng nội
sinh không bao giờ cạn. Ngược lại nguồn lực con người càng được sử dụng, lại
càng được nâng cao chất lượng và hiệu quả.
Các lĩnh vực khoa học khác nhau, có thể hiểu nguồn lực theo những cách
khác nhau, nhưng chung nhất nguồn lực là một hệ thống các nhân tố mà mỗi
nhân tố đó có vai trò riêng nhưng có mỗi quan hệ với nhau tạo nên sự phát triển
của một sự vật, hiện tượng nào đó.
Từ cách hiểu như vậy, nguồn lực con người là những nhân tố ở trong con
người có thể huy động, sử dụng để thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau về nguồn lực con người. Ngân
hàng thế giới cho rằng: Nguồn nhân lực là toàn bộ vốn người (thể lực, trí lực, kỹ
năng, nghề nghiệp,v.v) mà ở mỗi cá nhân sở hữu, có thể huy động được quá
trình sản xuất, kinh doanh, hay trong một hoạt động nào đó.
Qua các ý kiến khác nhau có thể hiểu, nguồn lực con người là tổng thể
những yếu tố thuộc về thể chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất trình độ tri thức,
vị thế xã hội, v.v. Tạo nên năng lực của con người, của cộng đồng người có thể
sử dụng, phát huy trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và
trong hoạt động xã hội.
11
Nói tới nguồn lực con người là nói tới số lượng và chất lượng nguồn nhân
lực. Số lượng nguồn lực con người được xác định trên quy mô dân số, cơ cấu độ
tuổi, sự tiếp nối các thế hệ, giới tính và sự phân bố dân cư giữa các vùng, các
miền của đất nước, giữa các ngành kinh tế, giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Chất lượng nguồn lực con người là một khái niệm tổng hợp bao gồm những
nét đặc trưng về thể lực, trí lực, tay nghề, năng lực quản lý, mức độ thành thạo
trong công việc, phẩm chất đạo đức, tình yêu quê hương đất nước, ý thức giai
cấp, ý thức về trách nhiệm cá nhân với công việc, với gia đình và xã hội, giác
ngộ và bản lĩnh chính trị, v.v. Phẩm chất đạo đức và trình độ học vấn là quan
trọng nhất, nó nói lên mức trưởng thành của con người, quy định phương pháp
tư duy, nhân cách, lối sống của mỗi con người.
Số lượng và chất lượng nguồn lực con người có quan hệ với nhau một cách
chặt chẽ. Nếu số lượng nguồn lực con người quá ít sẽ gây khó khăn cho phân
công lao động xã hội và do vậy, chất lượng lao động cũng bị hạn chế. Chất
lượng nguồn lực con người nâng cao sẽ góp phần làm giảm số lượng người hoạt
động trong một đơn vị sản xuất, kinh doanh, hay giảm số người hoạt động trong
một tổ chức xã hội, đồng thời cũng tạo nên điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt
động của một tập thể người lao động sản xuất, hoạt động xã hội.
Như vậy có thể nói: Nguồn lực là tổng thể những yếu tố thuộc về thể
chất,tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế xã hội…tạo nên
những năng lực của con người, của cộng đồng người, có thể sử dụng và phát
huy trong qua trình xây dựng và phát triển đất nước.
* Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta về con người và nguồn
lực con người
Nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp cũng như hệ thống tư tưởng của Người,
chúng ta thấy tư tưởng về kinh tế nói chung và quan điểm về phát huy nguồn lực
con người trong quá trình sản xuất kinh tế nói riêng là một vấn đề trung tâm,
xuyên suốt. Người thường nói: “Vô luận việc gì đều do con người làm ra cả”,
“có dân là có tất cả”. Do đó, Người thường nhắc nhở cán bộ phải biết tin ở dân;
12
dựa vào dân, phát huy sức mạnh của toàn dân - của toàn thể cộng đồng cũng như
của mỗi cá nhân.
Luôn theo sát sự biến động của thời cuộc, đánh giá đúng đắn vị trí, vai trò
của nguồn lực con người, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
(6/1996) của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: “Lấy việc phát huy nguồn lực con
người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”, [8,tr.108, 109].
Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt
Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Thực vậy, trước bối cảnh cách mạng khoa học – công nghệ phát triển như
vũ bão, toàn cầu hóa trở thành xu thế tất yếu, kinh tế tri thức trở thành một đặc
trưng của nền kinh tế, thì vai trò động lực, vị trí trung tâm của con người trong
quá trình phát triển đã thực sự được khẳng định. Trong tiến trình phát triển cả lý
luận và thực tiễn đều chứng minh: Nguồn lực con người đóng vai trò quyết định
xu hướng vận động của thế giới đương đại.
Con người là nhân vật trung tâm của xã hội, là chủ thể chân chính sáng tạo
ra mọi giá trị vật chất - tinh thần để phục vụ lại chính đời sống của mình. Trong
mọi hoạt động của xã hội, đặc biệt là hoạt động sản xuất kinh tế không thể thiếu
vắng bàn tay khối óc của con người.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ, khóa VII Đảng ta khẳng
định: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước về các lĩnh vực văn hóa xã hội là chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nguồn
lực con người, với tư cách là động lực, vừa là mục tiêu của cách mạng”,[8, tr.9].
Phát triển con người toàn diện - đó cũng chính là động lực, là mục tiêu mà
chúng ta đang từng bước tiến hành. Bởi lẽ, người lao động ngày càng đóng vai
trò quan trọng trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội và trong sự phát triển nền kinh
tế theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, thì chất lượng của người lao động là nhân tố quyết định.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, loài người đã đạt tới một
trình độ nhận thức mới về tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và phát triển con
người. Trong đó, phát triển con người được xem là thước đo sự phát triển của
13
mỗi quốc gia. Do đó, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược; là yếu tố quyết định
đẩy mạnh phát triển ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế,
chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo
đảm cho sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.
Tóm lại, hội nhập nghĩa là chúng ta đang tiến vào nền kinh tế tri thức và
khoa học công nghệ đã trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp, người lao
động nếu không được giáo dục - đào tạo tốt, sẽ không thích nghi với những biến
động của thị trường, với sự đa dạng hóa của ngành nghề và dễ dàng bị đào thải.
Điều đó khiến chúng ta rõ thấy những giá trị tư tưởng kinh tế của Hồ Chí Minh
vẫn mang tính thời đại, mà thực tiễn chúng ta cần nghiên cứu vận dụng để xây
dựng và phát triển đất nước
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghiã Mác Lênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và xây
dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là
độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội và giải phóng con người. Trong đó
vấn đề “con người” là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là vấn đề trung tâm,
xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người. Tin ở dân, dựa vào dân,
tổ chức và phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, bồi dưỡng và đào tạo, phát huy
mọi năng lực của dân, đó là tư tưởng được Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển
trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng, giành độc lập dân tộc cũng như
xây dựng đất nước.
Đối với Hồ Chí Minh, con người vừa tồn tại với tư cách cá nhân vừa là
thành viên của gia đình và cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá
nhân hài hòa, phong phú. Người đã đưa ra một định nghĩa về con người: “Chữ
người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng
bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người” [9, tr. 664]. Quan điểm đó thể hiện ở
chỗ Người chưa bao giờ nhìn nhận con người một cách chung chung, trìu tượng.
Khi bàn về chính sách xã hội cũng như ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh
Người luôn luôn quan tâm đến nhu cầu và lợi ích của con người với tư cách là
14
nhu cầu chính đáng. Đem lại lợi ích cho con người chính là tạo ra động lực vô
cùng lớn lao cho sự nghiệp chung vì nếu như lợi ích, nhu cầu của mỗi cá nhân
không được quan tâm thỏa đáng thì tính tích cực của họ không thể phát huy
được. Trong khi phê phán một cách nghiêm khắc chủ nghĩa cá nhân, quan điểm
của Người là đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi
ích cá nhân”, [8,tr.12]. Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời
sống riêng của bản thân và của gia đình mình.
Trong quan điểm về thực hiện một nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa theo.
Người phải là một nền dân chủ chân chính, không hình thức, không cực đoan
trong đó mỗi con người cụ thể phải được đảm bảo những quyền lợi và nghĩa vụ
theo hiến pháp và pháp luật. Con người với tư cách là những cá nhân không tồn
tại biệt lập mà tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với cộng đồng dân tộc và
các loài người trên thế giới. Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không tồn
tại như một phạm trù bản thể luận có tính trừu tượng hóa và khái quát hóa mà
được đề cập đến một cách cụ thể là nhân dân Việt Nam, những con người lao
động nghèo khổ bị áp bức cùng cực dưới ách thống trị của chế độ phong kiến, đế
quốc, là dân tộc Việt Nam bị đô hộ bởi chủ nghĩa thực dân và mở rộng hơn nữa
là những “nô lệ mất nước” và “người cùng khổ”. Lôgic phát triển tư tưởng của
Người là xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước để đến với chủ nghĩa Mác - Lênin,
đến với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Theo lôgic phát triển tư tưởng ấy khái
niệm “con người” của Hồ Chí Minh tiếp cận với khái niệm “giai cấp vô sản
cách mạng”. Người đề cập đến giai cấp vô sản cách mạng và sự thống nhất về
lợi ích căn bản của giai cấp đó với các tầng lớp nhân dân lao động khác (đặc biệt
là nông dân). Người nhận thức một cách sâu sắc rằng, chỉ có cuộc cách mạng
duy nhất và tất yếu đạt tới được mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp
và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự nô dịch, áp bức. Toàn bộ các tư tưởng, lý luận
(chiếm một khối lượng lớn trong các tác phẩm của Người) bàn về cách mạng.
Về thực chất chỉ là sự cụ thể hóa bằng thực tiễn tư tưởng về con người của Hồ
Chí Minh. Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, con người được khái niệm vừa là
mục tiêu của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động lực
15
- Xem thêm -